Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận quản lý chất thải rắn Tái sinh nhựa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HCM
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN

QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
Chuyên đề :
GVHD: Ths. Lê Tấn Thanh Lâm
SVTH: Nhóm 4
Trần Văn Thuận
Lê Văn Hoài
Nguyễn Trung Hiệp
Lê Phước Minh
Thạch Ngọc Sang
Hồ Giang Hải
Trần Vũ Lâm
Phạm Quang Thắng
Hứa Sơn Hiển
Nguyễn Phan Thiện Toàn
Lê Thị Tường Vy
Trần Bích Phượng
TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2012
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU 3
1.1.ĐẶT VẤN ĐỀ 3
1.2.MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 3
1.3.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3
1.4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3
1.5.Ý NGHĨA THỰC TIỂN CỦA ĐỀ TÀI 4
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN 4
2.1. TỔNG QUAN VỀ TÁI CHẾ NHỰA 4
2.2. NGUỒN GỐC PHÁT SINH, PHÂN LOẠI, TÍNH CHẤT CÁC LOẠI NHỰA 11


2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM SẠCH, SƠ CHẾ TRƯỚC KHI TÁI CHẾ NHỰA 18
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ NHỰA 24
3.1. CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ NHỰA PHẾ LIỆU 24
3.2. CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ NYLON PHẾ LIỆU 27
3.3. CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT NHỰA DÂY 31
CHƯƠNG IV: THIẾT KẾ 32
4.1. QUY TRÌNH THIẾT KẾ 32
4.2. TÍNH TOÁN THIẾT KẾ 32
4.3. BẢN VẺ CÔNG NGHỆ 32
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN 32
5.1. KẾT LUẬN 32
5.2. KIẾN NGHỊ 32
2
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống hiện đại, việc sử dụng các vật dụng như chai nhựa, màng
nylon bọc thực phẩm, ống nhựa dẫn nước… đã trở nên quen thuộc với đời sống con
người. Vì thế,tái chế rác thải nhựa đang là yêu cầu cấp thiết đối với một thành phố
lớn như TP.HCM. Hoạt động này không chỉ làm giảm lượng rác chôn lấp, bớt ô
nhiễm môi trường mà còn đem lại giá trị kinh tế. Thiết nghĩ, việc xây dựng một nhà
máy xử lý phế liệu nhựa đạt chuẩn, có công nghệ tiên tiến góp phần thúc đẩy việc cải
tiến hệ thống thu gom phế liệu nhựa hiện hữu, là cơ sở ban đầu trong quá trình hình
thành ngành công nghiệp xử lý phế liệu nhựa tại Việt Nam. Ngoài ra, còn góp phần
tự chủ nguyên liệu cho ngành nhựa Việt Nam mà hiện nay phải nhập khẩu trên 90%.
Hơn nữa, việc sử dụng nguyên liệu nhựa tái chế cũng là giải pháp để hạ giá thành
sản phẩm giúp tang tính cạnh tranh của sản phẩm nhựa Viêt Nam.
Chính vì điều này nên nhóm chúng tôi đã chọn chuyên đề “ TÁI SINH
NHỰA” để làm báo cáo chuyên đề cho môn học.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu các công nghệ tái chế nhựa trong nước và trên thế giới.

Xác định, lựa chọn công nghệ phù hợp, thiết kế mặt bằng bố trí thiết bị cho
các đơn vị ứng dụng công nghệ đó phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhằm góp phần
giảm thiểu ô nhiễm môi trường và sử dụng hiệu quả tài nguyên.
1.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, nội dung nghiên cứu cần được thực
hiện bao gồm các nội dung sau:
- Tìm hiểu hiện trạng hoạt động và kết quả của các cơ sở tái chế nhựa ở
TP.HCM.
- Tổng quan các công nghệ tái chế nhựa. Phân tích, đánh giá nhằm tìm ra
công nghệ phù hợp.
- Tổng hợp dữ liệu, phân tích, viết báo cáo.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Phương pháp điều tra và tổng hợp
Tổng hợp các kết quả điều tra và phân tích thực tế về kết quả của các công
nghệ đã được ứng dụng, từ đó lựa chọn công nghệ phù hợp nhất.
Phương pháp điều tra, thu thập, tổng hợp tài liệu và khảo sát thực tế việc ứng
dụng các công nghệ đó trên địa bàn.
3
1.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Tổng hợp, tính toán các số liệu nghiên cứu.
Sử dụng các phần mềm Word để viết văn bản, Excel để tính toán, xử lý số
liệu và thể hiện bản vẽ thiết kế mặt bằng bố trí máy móc bằng phần mềm Autocad.
1.5. Ý NGHĨA THỰC TIỂN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa môi trường
Góp phần giảm thiểu ô nhiểm môi trường nhờ quá trình tái chế chất thải, giảm
thiểu lượng khí thải sinh ra trong trường hợp xử lý bằng phương pháp nhiệt hoặc tiết
kiệm diện tích đất sử dụng vào mục đích chôn lấp.
1.5.2. Ý nghĩa kinh tế
Tăng hiệu quả kinh tế nhờ việc sử dụng triệt để tài nguyên, hạ giá thành sản
phẩm, giảm chi phí nhập khẩu, khai thác và chế biến tài nguyên.

1.5.3. Ý nghĩa xã hội
Giải quyết được vấn đề xã hội nhức nhối hiện nay đó là vấn đề ô nhiểm môi
trường, góp phần gìn giữ tài nguyên cho các thế hệ tương lai.
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN
2.1. TỔNG QUAN VỀ TÁI CHẾ NHỰA
2.1.1. Tái chế là gì?
Khái niệm tái chế: Tái chế là hoạt động thu hồi lại từ chất thải các thành
phần có thể sử dụng để chế biến thành sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động
sinh hoạt và sản xuất. Hay có thể gọi tái chế tức là quá trình chuyển đổi hoặc tạo
nên chức năng cho chất thải rắn. Sau khi được phân loại và thu hồi thích hợp thì giá
trị của chúng được tái lập. Khi chấm dứt quá trình chuyển đổi bị gọi là chất thải rắn,
khi đó vai trò của chúng tương tự như một nguồn tài nguyên vật liệu thứ cấp cho quá
trình sản xuất.
Khái niệm tái chế nhựa: Là quá trình thu hồi lại nhựa phế liệu, các chất thải
có nguồn gốc bằng nhựa sau đó phân loại từng loại nhựa để chế biến thành sản phẩm
mới để phục vụ nhu cầu con người như nhựa PVC, PETE, sàn, khung cửa sổ.
2.1.2. Những số liệu về tái chế nhựa tại TP.HCM
TP.HCM với tổng diện tích tự nhiên 2093,7 km
2
, dân số 6,12 triệu người, là
trung tâm kinh tế, thương mại lớn nhất miền nam và lớn nhất Việt Nam. Quá trình
sản xuất và sinh hoạt sản sinh ra lượng chất thải đô thị gần 6000 tấn/ngày. Lượng
chất thải này một phần được tái chế một phần được chôn lấp ở các bãi chôn lấp tập
trung hợp vệ sinh quanh thành phố (bãi rác Gò Cát, bãi rác Phước Hiệp).
4
Tái chế rác thải nhựa đang là yêu cầu cấp thiết đối với một thành phố lớn như
TP.HCM. Hoạt động này không chỉ làm giảm lượng rác chôn lấp, bớt ô nhiễm môi
trường mà còn đem lại giá trị kinh tế.
Trên địa bàn TP.HCM, nhựa chiếm tỉ trọng cao trong chất thải rắn đô thị. Nó
chỉ đứng sau rác thực phẩm. Ước tính mỗi năm có khoảng 250 ngàn tấn chất thải

nhựa phát sinh. Lượng rác thải nhựa chiếm tỷ trọng lớn trong thành phần rác thải.
Theo khảo sát của Quỹ Tái chế chất thải (Sở TN&MT TP.HCM), rác thải nhựa
chiếm 20% trong chất thải rắn siêu thị, trung tâm thương mại, 14,3% trong khu vực
văn phòng; 20% lượng rác thải nhựa được chôn lấp lẫn trong các loại rác thải khác,
phần còn lại được thu mua, tái chế thô sơ hoặc phát tán ra môi trường. Dự báo đến
năm 2020, mỗi năm TP.HCM sẽ phát sinh khoảng 400.000 tấn/năm.
Lượng chất thải nhựa này một mặt là gánh nặng đối với công tác quản lý môi
trường của thành phố. Chi phí chôn lấp một tấn rác hiện nay là 300.000 đồng/tấn.
Như vậy, nếu 50.000 tấn chất thải nhựa được tái chế, thành phố có thể tiết kiệm
khoảng 15 tỉ đồng mỗi năm. Kéo theo đó là chúng ta có thể tiết kiệm phần đất chôn
lấp cho các mục đích công cộng khác. Đồng thời, tái chế còn tiết kiệm năng lượng
cho sản xuất và sinh hoạt của con người. Cùng với đó là giúp giảm thiểu hàng loạt
vấn đề môi trường khác như làm sạch mỹ quan đô thị, thông thoáng cống rãnh, hạn
chế suy thoái đất… Trong khi đó, nhu cầu nguyên liệu nhựa của Việt Nam mỗi năm
vào khoảng 1,6 – 1,7 triệu tấn các loại, nhưng thị trường trong nước chỉ cung cấp
được khoảng 300 ngàn tấn.
Để giải quyết các vấn đề trên, bên cạnh các cách truyền thống, thành phố đã
triển khai nhiều biện pháp quản lý chất thải theo hướng 3T. Đó là tiết giảm, tái sử
dụng và tái chế chất thải. Trong đó, tái chế chất thải không chỉ giúp giảm lượng chất
thải rắn phải xử lý mà còn có ý nghĩa to lớn trong tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên. Chiến lược Quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2050 cũng đã xác định rõ mục tiêu chúng ta cần thực hiện đến năm
2015. Đó là 60% chất thải sinh hoạt đô thị được tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng
lượng hoặc sản xuất phân hữu cơ.
Tại TP.HCM thị trường tái chế phế liệu đã được hình thành và phát triển từ
hơn 30 năm qua. Thống kê năm 2006 có khoảng hơn 400 cơ sở tái chế vừa và nhỏ
trong các lĩnh vực tái chế rất đa dạng: Tái chế nhựa, giấy, thủy tinh, kim loại, cao su,
vải,…Tập trung nhiều ở các khu vực như: Bình Tân, Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi,
Quận 11, Quận 9,… Với chất lượng tái chế hàng ngày ước tính khoảng 600 – 800
triệu đồng lợi nhuận một ngày, tạo việc làm cho 10.000 – 15.000 lao động, nhưng

công nghệ tái chế quá lạc hậu, chất lượng sản phẩm tái chế thấp. Còn đối với các
doanh nghiệp tái chế quy mô lớn, khoảng 15% các doanh nghiệp nhựa lớn tại
TP.HCM có hoạt động tái chế nhựa, trong đó khoảng 57% sử dụng nguồn phế liệu
nhựa là sản phẩm lỗi trong sản xuất của công ty, phần còn lại thu mua phế liệu nhựa
từ bên ngoài để tái chế. Đối với những doanh nghiệp này, do sử dụng công nghệ tiên
tiến, hoạt động tái chế nhựa tại các đơn vị này đem lại hiệu quả kinh tế, môi trường
và xã hội cao. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp nhựa lớn hiện nay chỉ mới dừng
lại ở việc tái chế các phế phẩm nhựa trong sản xuất, chưa mạnh dạn thu gom, tái
chế phế liệu nhựa từ rác thải sinh hoạt… Hệ thống thu mua hiện nay không đủ đáp
ứng nhu cầu cả về chất và lượng. Do hệ thống quản lý chưa chặt chẽ, đội ngũ cán bộ
trang thiết bị yếu và thiếu, hệ thống văn bản pháp lý chưa đầy đủ và một số đã không
5
cồn phù hợp với thực tế. Điều này gây khó khăn cho công việc lưu trữ, tái chế nhựa,
làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm. Song song đó là nguồn cung cấp phế
liệu không đảm bảo, gây khó khăn cho các dự án tái chế quy mô lớn. Đặc biệt, nguồn
nguyên liệu nhựa phế liệu được thu gom từ nhiều nguồn, thành phần và chất lượng
không ổn định, đặc biệt lẫn nhiều tạp chất gây khó khăn cho công việc lưu trữ và tái
chế nhựa và chất lượng sản phẩm nhựa tái chế. Nguồn cung cấp phế liệu không đảm
bảo về số lượng và chất lượng gây khó khăn cho các dự án tái chế quy mô lớn.
Trong đó, Tổng Công ty CP Nhựa Việt Nam (VINAPLAST) đã có kế hoạch hợp tác
với một doanh nghiệp của Canada để xây dựng 2 nhà máy xử lý phế liệu nhựa ở phía
Bắc và phía Nam. Mặc dù đang được triển khai xây dựng nhưng thách thức đặt ra lúc
này chính là vấn đề thiếu hụt trầm trọng nguyên liệu đầu vào đạt chuẩn bởi thống thu
gom phế liệu trong nước còn manh mún tự phát, không đạt yêu cầu về số lượng và
chất lượng.
Quy hoạch tổng thể ngành nhựa giai đoạn 2000 – 2020, Bộ Công Thương đã
đưa việc phát triển công nghiệp sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa là một trong 3
chương trình. Theo đó, việc hình thành các nhà máy tái chế phế liệu nhựa sẽ là bước
khởi đầu trong nỗ lực giảm bớt gánh nặng về nguyên liệu cho doanh nghiệp nhựa.
Hình 1: Sơ đồ hệ thống thu gom và tái chế phổ biến tại Việt Nam

6
Từ quy trình thu gom trên ta thấy: Những người nhặt rác và người mua ve
chai từ các hộ gia đình là cấp thấp nhất trong hệ thống này. Từ những gánh ve chai,
phế liệu được tập trung về vựa ve chai quy mô nhỏ nằm xen kẽ trong khu dân cư.
Các vựa này thu mua tất cả các loại phế liệu, tại đây phế liệu sẽ được phân loại thành
các thành phần riêng và bán lại cho các vựa thu mua phế liệu quy mô trung bình và
lớn hoặc bán trực tiếp cho các cơ sở tái chế. Các vựa quy mô trung bình và lớn chỉ
tập trung thu mua một hay hai loại phế liệu nhất định từ các vựa nhỏ. Các phế liệu
này đã qua xử lý sơ bộ như: làm sạch, ép nhỏ nên hoạt động của các vựa này tương
đối đơn giản hơn. Sau đó phế liệu từ các vựa lớn được chuyển đến các cơ sở tái chế
trong thành phố. Tại các cơ sở tái chế, phế liệu được phân loại lần cuối, làm sạch và
được tái chế thành nguồn nguyên liệu mới hoặc các sản phẩm. Tuỳ thuộc vào loại
hình tái chế mà hình thành các khu vực tái chế riêng biệt như: tái chế nhựa (tập trung
nhiều ở quận Bình Chánh, Bình Tân, quận 11, quận 6); tái chế thuỷ tinh (tập trung
nhiều ở quận 12, Hóc Môn, Củ Chi); . . . nhìn chung lĩnh vực tái chế chủ yếu do dân
nhập cư, người lao động trình độ thấp thực hiện nên qui mô sản xuất nhỏ và mức độ
đầu tư công nghệ không cao. Đa số công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ
do đa số được chế tạo trong nước (bằng phương pháp thủ công) nên hoạt động không
hiệu quả, thường xuyên hư hỏng. Do đó, mức độ tiêu hao phế liệu rất lớn (từ 10 -
20%) và tiêu thụ điện năng nhiều.
Theo ông Nguyễn Khắc Long - Chủ tịch HĐQT Cty CP nhựa VN (Vinaplast)
cho biết ngành nhựa VN đã phát triển rất nhanh, hiện cả nước có khoảng 2.200
doanh nghiệp nhựa và trong khoảng 10 năm trở lại đây tốc độ tăng trưởng đạt 15 -
20%/năm. Tuy nhiên điểm yếu lớn nhất của ngành nhựa VN là hiện 80 - 90%
nguyên liệu phải nhập. Ông Long cho rằng, ngành nhựa VN muốn phát triển ổn định
thì phải chủ động về nguyên liệu. Nguồn nguyên liệu trước mắt là tận dụng rác nhựa,
về lâu dài là các sản phẩm của ngành dầu khí VN. Ngành nhựa tái chế phát triển,
không chỉ giảm ô nhiễm môi trường mà còn giúp VN ổn định được nguyên liệu. Tuy
nhiên, hiện VN chưa có hệ thống thu gom rác nhựa, nên không đủ nguyên liệu cho
các nhà máy tái chế đạt chuẩn hoạt động. Do vậy, ông Long đề xuất là trước mắt cho

nhà máy được nhập khẩu nguyên liệu phế liệu nhựa, nhằm duy trì hoạt động của nhà
máy, khi nào trong nước thu gom đủ nguyên liệu phế liệu nhựa thì nhà máy sẽ dùng
nguyên liệu trong nước.
Bà Minh Thục - Phó phòng Kế hoạch đầu tư Vinaplast phân tích, theo quy
hoạch của Bộ Công Thương, VN sẽ xây dựng hai nhà máy tái chế nhựa công suất
50.000 tấn/nhà máy. Hiện Vinaplast đã liên doanh và đủ vốn xây dựng, NK công
nghệ thiết bị cho nhà máy hoạt động. Một nhà máy nêu trên khi hoạt động, mỗi ngày
cần 1.000 tấn nguyên liệu phế liệu nhựa, nhưng thực tế tại VN hiện không thể thu
gom đủ. Thực tế, là hiện đang có khoảng 45% các cơ sở tái chế nhựa đang dùng
nguyên liệu là hạt nhựa tái chế NK, nhưng nếu dùng hạt nhựa tái chế NK thì nhà
máy sẽ không có ý nghĩa gì trong việc giúp VN giảm lượng rác nhựa, tận dụng tài
nguyên.
Ông Nguyễn Như Khuê - GĐ điều hành Cty RKW Lotus đề nghị, nhựa tái
chế VN cần nhập khẩu công nghệ và thiết bị tiên tiến của thế giới về sử dụng để sản
phẩm an toàn, có thể tiêu thụ được. Ông Khuê cũng chứng minh rằng không có nhựa
thì sẽ không có nhiều ngành thiết yếu của cuộc sống. Thực tế, một nghiên cứu của
Đức cho thấy nếu thay bao bì nhựa bằng vật liệu khác thì trọng lượng bao bì sẽ tăng
7
391%, lượng rác thải tăng 258% Công nghiệp tái chế nhựa hiện đã phát triển rất
cao, cùng các biện pháp xã hội đồng bộ như giáo dục, phân loại rác tại nguồn sẽ
giải quyết được vấn đề rác nhựa, tiết kiệm về kinh tế. Tại nhiều nước Châu Âu, mọi
loại rác nhựa đều được tái chế. Trung Quốc mỗi năm sản xuất ra khoảng 6 triệu tấn
hạt nhựa tái chế, trong khi mỗi năm VN chỉ sử dụng khoảng 2 triệu tấn nguyên liệu
hạt nhựa. Tuy nhiên, giải pháp do ông Khuê đưa ra vấp phải vấn đề cũng vô cùng
nan giải là công nghệ, thiết bị của ngành tái chế có giá rất cao, trong khi tuyệt đại đa
số doanh nghiệp tái chế nhựa thiếu vốn nhập khẩu thiết bị công nghệ nước ngoài.
Ông Lê Văn Khoa - GĐ Quỹ tái chế chất thải TP. HCM khẳng định vấn đề ô
nhiễm môi trường do chất thải rắn, chất thải nhựa đang rất được ngành chức năng
quan tâm, nhưng chưa có giải pháp nào hữu hiệu. Biện pháp cơ bản là tiết giảm - tái
sử dụng- tái chế, trong đó tái chế nhựa là khả thi nhất. Tại TP. HCM đang có khoảng

400 cơ sở thu mua phế liệu nhựa, và 80 cơ sở tái chế nhựa, với công nghệ đơn giản
chỉ sử dụng được các loại nhựa sạch như chai lọ nhựa, bao nilon sạch nên số lượng
rác nhựa thu gom được không đáng là bao, mỗi ngày chỉ thu gom được khoảng 6.000
- 7.000 tấn chất thải nhựa dùng cho tái chế.
Hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng của ngành nhựa Việt Nam luôn ở mức 15
– 20%. Tuy nhiên, giá trị thặng dư của ngành này không cao vì hầu hết nguyên liệu
đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp nhựa lao đao
với bài toán đầu vào nguyên liệu.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, cả nước có khoảng 2.200 doanh
nghiệp hoạt động trong ngành nhựa, trong đó hơn 80% tập trung ở TP HCM. Hầu
hết những doanh nghiệp này đều sản xuất với quy mô gia đình nên năng lực cạnh
tranh rất thấp. Chính vì vậy, hơn 90% doanh nghiệp nhựa của Việt Nam phải đi “làm
thuê”, gia công cho nước ngoài, chưa chủ động được nguồn nguyên liệu.
Theo ông Vũ Xuân Mừng, Phó trưởng Cơ quan đại diện Bộ Công thương tại
TP HCM, ngành nhựa đang đối mặt với những khó khăn liên quan đến tỷ giá hối
đoán giữa đồng VN với USD, do chi phí nguyên liệu chiếm 70-80% giá thành sản
phẩm nhập từ nước ngoài, tương đương 2,1 tỷ USD/ năm. Điều này khiến giá trị
thặng dư hầu hết đều vào túi doanh nghiệp nước ngoài.
Theo thống kê, từ năm 2008 đến nay, ngành nhựa phải gồng mình hứng chịu
nhiều đợt tăng giá nguyên liệu, tác động không nhỏ đến sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Năm 2009, ngành nhựa nhập hơn 2 triệu tấn nguyên liệu, với tổng giá
trị gần 2,5 tỷ USD, trong khi giá trị xuất khẩu chỉ đạt hơn 1/3 số tiền nhập khẩu
nguyên liệu. Do quá phụ thuộc vào nguyên liệu nên giá bán của doanh nghiệp Việt
Nam luôn cao hơn Trung Quốc, Ấn Độ khoảng 10 – 15%.
Hiện nay, cả nước mới chỉ có 3 nhà máy sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa
với tổng công suất mỗi năm khoảng 250.000 tấn PVC và 150.000 tấn nguyên liệu
DOP, đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu.
Để giải quyết bài toán này, Bộ Công thương đã xác định việc phát triển công
nghiệp sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa là một trong ba chương trình trọng
điểm. Theo đó, việc hình thành các nhà máy tái chế phế liệu nhựa sẽ là bước khởi

đầu trong nỗ lực giảm bớt gánh nặng khó khăn về nguyên liệu cho doanh nghiệp.
“Nguồn phế liệu nhựa trong nước rất dồi dào nhưng chúng ta vẫn chưa tận dụng
được. Nguyên nhân là do hệ thống thu gom nhỏ lẽ, không tập trung; phế liệu hầu như
8
không được xử lý và phân loại theo đúng quy cách; công nghệ lạc hậu… “, ông
Nguyễn Khắc Long, Tổng giám đốc Công ty CP nhựa Việt Nam than thở.
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, hiện giá nhập hạt nhựa PET
khoảng 1.300 USD/ tấn, do đó, nếu tái sinh được từ chính nguồn phế liệu, giá thành
giảm gần 30%. Theo ông Long, ở Việt Nam chỉ tính mức tận dụng từ 35-50%
nguyên liệu nhựa tái sinh sẽ góp phần tiết kiệm hơn 600 triệu USD mỗi năm cho
doanh nghiệp, đồng thời cũng tăng được 25% kim ngạch xuất khẩu của ngành.
Việc sử dụng nguyên liệu từ việc tái chế phế liệu nhựa sẽ góp phần bảo vệ
môi trường – một trong những điều kiện của các nhà nhập khẩu từ Mỹ, Nhật. “Nhiều
khách hàng khó tính như Mỹ, Nhật… họ yêu cầu sản phẩm nhựa xuất khẩu phải sử
dụng tối thiểu 10% nhựa tái sinh để hạ giá bán. Theo họ, đáp ứng điều này, sản phẩm
mới có tính thân thiện với môi trường”, ông Nguyễn Văn Phước, Phó giám đốc Sở
Tài nguyên - Môi trường TP.HCM nhấn mạnh.
2.1.3. Những nguy cơ tiềm ẩn từ nhựa tái chế
Theo một nghiên cứu của Trung tâm hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu (SCC),
trung bình mỗi hộ gia đình ở Việt Nam dùng tới 11,3 túi nhựa mỗi ngày. Điều nguy
hại nhất là tình trạng dùng túi nhựa, kể cả loại túi làm từ nguyên liệu nhựa tái chế để
đựng thực phẩm tươi sống và cả thực phẩm chín, nóng, nhiều dầu mỡ.
Các nhà chuyên môn về nhựa cho biết các loại túi làm từ nhựa PE hoặc PP
không độc, tuy nhiên những loại túi nhựa kém chất lượng, sản xuất từ nguyên liệu
nhựa tái chế, quá trình sản xuất dùng nhiều phụ gia làm mềm, dẻo, màu công
nghiệp sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe người sử dụng. Chỉ cần sử dụng các loại
túi này chứa thực phẩm nóng từ 70
0
C trở lên thì các chất phụ gia độc hại cũng như
các loại kim loại nặng sẽ nhiễm vào thực phẩm.

TS. Lê Quốc Tuấn - Trưởng khoa Môi trường và Tài nguyên Trường đại học
Nông lâm TP.HCM - khẳng định nguyên liệu nhựa dù chỉ tái chế một lần thôi cũng
đã sinh ra nhiều hợp chất độc hại, tái chế nhiều lần sẽ sinh ra các hợp chất rất độc,
trong đó có chất dioxin. Tuy nhiên, vì hàm lượng độc chất sinh ra thấp nên người
dùng chưa thấy ngay tác động, nhưng sử dụng trong thời gian dài, từ 10-20 năm thì
độc chất tích lũy dần dần trong cơ thể sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Các độc chất, như
dioxin rất khó chuyển hóa trong môi trường, đây là vấn đề nghiêm trọng, gây bệnh
ung thư, bệnh di truyền, bệnh về đường hô hấp, gây suy nhược nòi giống. “Cần cảnh
báo mạnh mẽ nguy cơ này, cơ quan chức năng cũng phải kiểm soát chặt chẽ, cấm
các cơ sở sản xuất túi nhựa từ nguyên liệu tái chế”, TS Lê Quốc Tuấn nói.
Trong quá trình gia công nhựa, người ta có thể đưa vào một số chất hóa dẻo,
chất phụ gia. Đặc biệt, các sản phẩm có chứa chất hóa dẻo khi ở nhiệt độ cao sẽ thải
ra chất độc hại gây ảnh hưởng sức khỏe con người như tim mạch, tuần hoàn máu hay
thậm chí có thể gây ra bệnh tâm thần, ung thư…
Nhựa tái chế là loại nhựa đã qua sử dụng, nhất là những loại nhựa đựng hóa
chất nói chung, rất độc hại. Loại nhựa này đã tiếp xúc với những chất khác, khi đem
vào sản xuất lại thường không làm sạch nên trong quá trình đưa vào nhựa hóa, các
hóa chất đọng lại trong đó sẽ khuếch tán ra ngoài.
9
Mặc dù đã len lỏi sâu vào đời sống, bữa ăn của người dân và chứa nhiều nguy
cơ độc hại, nhưng đến nay, sản phẩm bằng nhựa tái chế trên thị trường Việt Nam vẫn
chưa được kiểm soát chặt chẽ. Ít ai biết được sản phẩm nhựa mình đang dùng là loại
nhựa nào, có xuất xứ từ đâu và liệu có là nhựa tái chế đến từ bãi rác hay không. Sự
an toàn đối với người dùng hoàn toàn dựa vào hiểu biết của người sản xuất, người
chế biến sản phẩm, tuy nhiên những yếu tố này đôi khi bị lợi nhuận che mờ.
Kết quả phân tích khoa học cho thấy các mẫu thìa đó đều được sản xuất từ
nguyên liệu nhựa tái chế, có nhiều chất rất độc hại, gây nguy hiểm đến sức khỏe con
người. Cụ thể: hàm lượng kim loại nặng rất cao, hàm lượng chì lên đến 26mg/kg
thìa, hàm lượng cadimi lên trên 1mg/kg thìa.
Như chúng ta đã biết, độc tố chì có nguy cơ gây ung thư cao đối với con

người. Trong khi đó cadimi là nguyên tố độc hơn cả chì, gây ung thư và tác động lên
hệ thần kinh mạnh hơn cả chì, nói chung là tác động tương đối tổng thể. Đây là một
trong các kim loại nặng độc mà người ta phải xác định và cấm sử dụng trong mặt
hàng nhựa thực phẩm.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới mà chúng tôi có được, 85% rác thải y
tế và rác thải bệnh viện là không lây nhiễm, không độc hại; 10% lây nhiễm và 5%
không lây nhiễm nhưng độc hại. Do đó có thể sử dụng nhựa từ rác thải y tế để tái chế
các sản phẩm nhựa khác, nhưng phải có điều kiện ngặt nghèo và phải có qui trình
được nghiên cứu, xây dựng, cụ thể hóa bằng văn bản pháp luật để kiểm soát bởi các
cơ quan chức năng. Về nguyên tắc, các vi khuẩn ở nhiệt độ cao sẽ bị tiêu diệt nhưng
các chất độc hại thì ở nhiệt độ cao và súc rửa cũng không thể khử được.
Thật ra, rác thải y tế không phải tất cả đều độc hại, ví dụ chai nhựa, dây truyền đều
được làm từ nhựa nguyên chất và rất tốt. Do đó để sử dụng lại phải có khâu phân loại
rất chính xác, triệt để. Cái nào có khả năng lây nhiễm phải để riêng, cái không có khả
năng lây nhiễm để riêng, cái độc hại để riêng. Sau đó, những rác thải không có khả
năng lây nhiễm phải xử lý vì nó đã để cạnh các loại rác có khả năng lây nhiễm nên
phải khử trùng trước khi đưa đi tái chế. Việc súc rửa bằng hóa chất và khử trùng
bằng nhiệt độ và hóa chất phải theo một qui trình rất nghiêm ngặt, phải được chấp
nhận và kiểm soát. Tức là phải có qui trình chuẩn và phải thông qua một tổ chức, hội
đồng khoa học kiểm định và cơ quan chức năng quản lý.
Trong cuộc sống hiện đại, việc sử dụng các vật dụng như chai nhựa, màng
nylon bọc thực phẩm, ống nhựa dẫn nước… đã trở nên quen thuộc với đời sống con
người. Chúng được dùng phổ biến đến mức hầu như chẳng ai để ý rằng đó là vật liệu
nhân tạo tổng hợp, có thể gây hại sức khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường.
Trong số các chất liệu nhựa, chai PET để đựng nước uống không chỉ phổ biến
ở Việt Nam mà ngay ở các nước phát triển. Tuy nhiên, ít ai để ý rằng chúng được
sản xuất để sử dụng chỉ một lần. Khi tái sử dụng những chai này, các hợp chất gây
hại cho sức khỏe có thể rò rỉ, đi vào trong nước uống chỉ sau vài ngày đến vài tuần.
Nhất là trong môi trường quá lạnh hoặc quá nóng. Theo quy định quốc tế, bao bì
được sản xuất từ loại nhựa tinh khiết luôn được ghi tên loại nhựa ở dưới đáy. Một số

10
loại không có ký hiệu, đây chính là bao bì sản xuất từ loại nhựa tái chế. Thế nên mối
nguy hiểm lại gia tăng vì nhựa tái chế đến từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó,
những vật liệu này tồn tại rất lâu trong môi trường tự nhiên. Vì thế mà nó trở thành
một trong những loại rác thải khó xử lý nhất hiện nay. Không ai phủ nhận vai trò, lợi
ích thiết yếu của vật liệu nhựa trong cuộc sống. Ước tính Trên thực tế, hoạt động tái
chế nhựa tại TP.HCM đã có từ lâu đời nhưng công nghệ lạc hậu, chất lượng sản
phẩm tái chế thấp Trong khi đó, các dự án tái chế nhựa quy mô lớn lại gặp khó
khăn về vấn đề nguồn nguyên liệu. Hệ thống thu mua hiện nay không đủ đáp ứng
nhu cầu cả về chất và lượng. Do không được phân loại từ nguồn nên phế liệu nhựa
còn lẫn nhiều tạp chất. Điều này gây khó khăn cho công việc lưu trữ, tái chế nhựa,
làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm. Song song đó là nguồn cung cấp phế
liệu không đảm bảo, gây khó khăn cho các dự án tái chế quy mô lớn.
Kẻ thù đáng sợ hơn cả lại là chất độn, phụ gia đưa vào nhựa tái chế. Do mất
nhiều đặc tính cơ, lý hóa ban đầu, để sử dụng lại, người ta bắt buộc phải đưa thêm
vào một số phụ gia để tăng độ kết dính, độ xốp, tăng độ mềm dẻo, và tăng độ tươi
của màu sắc để hấp dẫn người dùng
Tại các làng nghề thu gom, tái chế phế liệu, người ta tận dụng tất cả các phần
diện tích của gia đình, của thôn xóm đến cả vỉa hè, lòng đường, thậm chí cả trên
đường sắt để chứa phế thải. Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng, thì nghề tái
chế phế liệu đã có từ rất lâu. Các nguyên liệu như túi ni lông, vỏ chai nhựa các
loại… được người dân thu mua về và tái chế lại thành nhựa thô, một phần được tái
chế tại chỗ thành các sản phẩm, đồ gia dụng bằng nhựa, dây buộc hóa học Phần
còn lại xuất cho các công ty, xí nghiệp chuyên sản xuất đồ nhựa.Tuy nhiên, không
phải rác thải nào cũng được tái chế mà khâu thu gom xử lý lại chậm, nên hàng ngày
vẫn có một lượng lớn rác ứ đọng, chất đống và bốc mùi, tiềm ẩn những nguy hại tới
môi trường và sức khỏe.
Hiện nay, trên thị trường có khá nhiều đồ dùng được làm bằng nhựa tái chế
mà bằng mắt thường người dân khó phân biệt được. Nếu sản phẩm làm bằng nhựa
tái chế từ rác thải thì mức độ độc hại còn cao hơn nhiều lần, bởi ngoài chất độc hại từ

nhựa vẫn còn những dịch khuẩn trong môi trường chứa các nguyên liệu đó. Người
tiêu dùng trước hết phải tự bảo vệ mình, lựa chọn các sản phẩm nhựa mà thấy rằng
an toàn, có nguồn gốc và đáng tin cậy. Không chỉ lưu ý đối với sản phẩm nhựa dùng
cho thực phẩm mà cả các sản phẩm nhựa khác có tiếp xúc với da, đường hô hấp như
áo mưa chẳng hạn. Không có gì đảm bảo các sản phẩm nhựa đó không độc hại và
không gây nguy hiểm đối với người sử dụng.
2.2. NGUỒN GỐC PHÁT SINH, PHÂN LOẠI, TÍNH CHẤT CÁC LOẠI NHỰA.
2.2.1. Nguồn gốc phát sinh
Nguồn gốc phát sinh chất thải nhựa củng tương tự nguồn gốc phát sinh chất
thải rắn, bao gồm các khu vực sau:
 Khu dân cư:
11
Theo kết quả khảo sát của Quỹ Tái chế chất thải TP.HCM, thành phần nhựa
trong chất thải rắn sinh hoạt của thành phố chiếm tỷ lệ rất cao (chỉ sau rác thực
phẩm). Trong đó, hộ gia đình chiếm 8,9%. Ước tính mỗi năm có khoảng 250.000 tấn
chất thải nhựa phát sinh trên địa bàn TP.HCM. Trong đó, khoảng 50.000 tấn chất
thải nhựa bị chôn lấp cùng các loại chất thải khác. Không chỉ dân số mà cả tốc độ
tiêu thụ nhựa của thành phố đang tăng nhanh với tốc độ phát triển kinh tế. Điều này
đồng nghĩa với sản lượng nhựa tiêu thụ và chất thải nhựa phát sinh sẽ không ngừng
tăng nhanh trong tương lai.Trong lúc đó nhu cầu sử dụng nhựa vẫn tăng cao.
Thói quen của người dân, thói quen sử dụng một lần rồi bỏ khiến cho tình hình
sử dụng nhựa ngày càng tang. Trong sinh hoạt hàng ngày, loại nhựa thường gặp nhất
là PE (polyethylene). Đi vào một số cửa hàng bán tạp hoá hay đồ nhựa, chúng ta dễ
dàng bắt gặp nhiều loại túi hình chữ nhật trong suốt không màu hay túi đựng có
nhiều màu khác nhau mà theo thói quen không biết từ khi nào gọi nhầm là túi nilon.
 Khu thương mại, nhà hàng, khách sạn:
Thành phần nhựa trong chất thải rắn ở siêu thị, trung tâm thương mại chiếm
20,16%. Những chai đựng sữa, nước ngọt và một số thực phẩm lỏng khác thường
làm bằng nhựa PE tỷ trọng cao, được gọi tắt là HDPE (high density polyethylene)
hay PVC (polyvinyl chloride) loại chuyên dùng cho thực phẩm. Có thể nói ở tất cả

các chợ lớn, nhỏ, siêu thị hay chợ ven đường… hàng hoá giao cho khách hàng đều
đựng túi PE. Tuy nhiên, việc sản xuất ra HDPE cũng sử dụng tới các hoá chất độc
hại như hexane và benzne. Một loại nhựa khác gần với PE là PP (polypropylene). Do
PP có tính chất cơ học cao hơn PE nên được kéo sợi và dệt thành các loại bao bì
đựng gạo, đường, ngô, đậu nành, lạc…Sợi PP còn dệt thành bạt để che mưa, nắng rất
phổ biến ở cả thành thị và nông thôn. Các loại xô, chậu, rổ rá cũng thường làm bằng
nhựa PP được xem là loại plastic tốt nhất.
 Cơ quan công sở, trường học:
Chiếm 14,3%. Chai đựng nước tinh khiết có dung tích 0,3; 0,5 và 1,0 lít
thường thấy trên bàn tiếp khách của cơ quan, bàn ăn của nhà hàng, mang theo đi
công tác hay du lịch, chủ yếu làm bằng nhựa PET (polyethyleneterephtalat). Loại
nhựa này có độ bền cơ học tốt nên hầu như không bị nứt, vỡ khi vận chuyển.
Những loại chai lớn hơn có dung tích 5 lít, 20 lít cũng làm bằng loại nhựa
này. Một lượng lớn chai PET có dung tích khác nhau còn được sử dụng để để đựng
dầu thực vật (đậu nành, mè, lạc…)… Tuy nhiên, những loại nhựa này có thể rò rỉ
vào trong nước kim loại an-ti-môn và ô-xít chì rất độc hại nhất là khi đựng nước
nóng hay để trong môi trường có nhiệt độ cao. Các nhà khoa học cũng khuyến cáo
không nên sử dụng lại những chai nhựa làm bằng PET vì khó làm sạch và có thể
chứa nhiều loại vi khuẩn gây bệnh.
 Khu công cộng, khu vui chơi giải trí, công viên, đường phố:
Đồ chơi thẻ em, đường ống dẫn nước. Hiện nay trên thị trường các loại ống
nước bao gồm:
• Ống kim loại: ống đồng, ống thép tráng kẽm
• Ống nhựa: ống PVC, ống PPR, ống HDPE
• Ống nhựa lõi kim loại: ống nhựa ABS lõi nhôm
2.2.2. Phân loại tính chất của các loại nhựa
 Phân loại:
12
Hầu hết các nhà sản xuất sản phẩm bao bì nhựa hiện nay đều ký hiệu sản
phẩm của họ theo thứ tự từ 1 đến 7, đặc trưng cho hầu hết các loại nhựa sản xuất để

tạo và tái chế.
Bảng 1: Phân loại nhựa
TT Tên Kí Hiệu Công thức hóa học Tỷ trọng Đặc tính
1 Polyethylen
eterephathlate
PETE -(C
6
H
4
(CO
2
CH
3
)
2
)-
n
1,38g/cm
3
20° - Bền cơ học cao.
- Trơ với môi trường thực
phẩm.
- Trong suốt, chống thấm khí
tốt
- biên độ chụi nhiệt rộng
2 High-density
polyethylene
HDPE -(CH2)-
(mật độ cao)
0.93-0.97

g/cm
3
- Đặc tính cứng, có nhiệt độ
nóng chảy cao
3 Poly
vinylchloride
PVC -(CH
2
-CHCl)-
n
1,4g/cm
3
-Có đô cứng và các đặc tính
cơ học cao. Tỷ lệ thuận với
trọng lượng p.tử, tỳ lệ nghịch
với nhiệt độ.
- Chịu nhiệt cao trên 100
o
C,
4 Low-density
polyethylene
LDPE -(CH2)-
(mật độ thấp)
0.91–0.94
g/cm
3
- Trong suốt, hơi có ánh mờ,
có bề mặt bóng láng, mềm
dẻo.
- Chống thấm nước và hơi

nước tốt.
- Chống thấm khí O
2
, CO
2
, N
2

và dầu mỡ đều kém. Chịu
được nhiệt độ cao.
- Có thể cho khí, hương thẩm
thấu xuyên qua.
- Bị căng phồng và hư hỏng
khi tiếp xúc với tinh dầu thơm
hoặc các chất tẩy như Alcool,
Acêton, H
2
O
2

5 Polypropylene PP -(C
3
H
6
)-
n
PP vô định
hình: 0.85
g/cm
3

-Tính bền cơ học cao, khá
cứng vững, không mềm dẻo
như PE.
- Trong suốt, độ bóng bề mặt
cao cho khả năng in ấn cao,
nét in rõ.
- Chịu được nhiệt độ cao hơn
100
0
C.
- Có tính chất chống thấm O
2
,
hơi nước, dầu mỡ và các khí
khác.
6 Polystyrene PS -(CH[C
6
H
5
]-CH
2
)-
n
1,05-1,06
g/cm
3
- Dễ pha màu.
- Cách điện.
13
7 Các loại nhựa

khác
Vd: PC Polycarbonate làm
từ bisphenol A
-(C
6
H
4
-C
3
H
6
-C
6
H
4
-
OCOO)-
n
1,20-1,22
g/cm
3
- Tính chống thấm khí, hơi cao
hơn các loại PE, PVC nhưng
thấp hơn PP, PET.
- Trong suốt, tính bền cơ và độ
cứng vững rất cao.
- Chịu nhiệt cao (trên 100
0
C ).
 Tính chất của các loại nhựa:

• PETE (Polyethylene terephthalate):
+ Đặc tính:
PET là một loại bao bì thực phẩm quan trọng có chể tạo màng hoặc tạo dạng
chai lọ do bởi các tính chất :
- Bền cơ học cao, có khả năng chịu đựng lực xé và lực va chạm, chịu đựng sự
mài mòn cao, có độ cứng vững cao.
- Trơ với môi trường thực phẩm.
- Trong suốt.
- Chống thấm khí O
2
, và CO
2
tốt hơn các loại nhựa khác.
- Khi được gia nhiệt đến 200
0
C hoặc làm lạnh ở – 90
0
C, cấu trúc hóa học của
mạch PET vẫn được giữ nguyên, tính chống thấm khí hơi vẫn không thay đổi khi
nhiệt độ khoảng 100
0
C.
+ Công dụng:
Do tính chống thấm rất cao nên PET được dùng làm chai, bình đựng nước
tinh khiết, nước giải khát có gas….
Hình 2: Một số sản phẩm từ nhựa PETE
• 2-HDPE (High-density polyethylene):
+ Đặc tính:
- Đặc tính cứng, có nhiệt độ nóng chảy cao
+ Công dụng:

-Thường dùng để sản xuất can chứa bột giặt, thùng chứa dầu nhớt (các
thùng này thường có 3 lớp, lớp giữa được chế tạo bằng nguyên liệu tái chế).
-Chế tạo các loại khăn phủ, túi chứa hàng hóa, ống dẫn, thùng chứa nước
và đồ chơi trẻ em.
14
Hình 3: Một số sản phẩm từ nhựa HDPE
• 3-PVC (Polyvinylchloride):
Sản phẩm PVC trước đây (1920 trở đi) được sử dụng với số lượng rất lớn,
nhưng ngày nay đã bị PE vượt qua. Hiện nay, PVC phần lớn dùng bao bọc dây cáp
điện, làm ống thoát nước, áo mưa, màng nhựa gia dụng…
Trong PVC có chất vinylchoride, thường được gọi là VCM có khả năng gây
ung thư (phát hiện 1970)
Bao bì PVC có những khuyết điểm như sau :
Tỉ trọng : 1,4g/cm
2
cao hơn PE và PP nên phải tốn một lượng lớn PVC để có
được một diện tích màng cùng độ dày so với PE và PP.
Chống thấm hơi, nước kém hơn các loại PE, PP.
Có tính giòn, không mềm dẻo như PE hoặc PP, để chế tạo PVC mềm dẻo
dùng làm bao bì thì phải dùng thêm chất phụ gia.
Loại PVC đã được dẻo hóa bởi phụ gia sẽ bị biến tính cứng giòn sau một
khoảng thời gian.
Mặc dù đã khống chế được dư lượng VCM thấp hơn 1ppm là mức an toàn
cho phép nhưng ở Châu Âu, PVC vẫn không được dùng làm bao bì thực phẩm dù giá
thành rẻ hơn bao bì nhựa khác.
Sử dụng làm nhãn màng cho các loại chai, bình bằng nhựa hoặc màng cho
bao bọc các loại thực phẩm bảo quản, lưu hành trong thời gian ngắn như thịt sống,
rau quả tươi….
Ngoài ra, PVC được sử dụng để làm nhiều vật gia dụng cũng như các lọai sản
phẩm thuộc các ngành khác.

Hình 4: Một số sản phẩm từ nhựa PVC
• 4- LDPE (Low-density polyethylene):
+ Đặc tính:
15
- Trong suốt, hơi có ánh mờ, có bề mặt bóng láng, mềm dẻo.
- Chống thấm nước và hơi nước tốt.
- Chống thấm khí O
2
, CO
2
, N
2
và dầu mỡ đều kém.
- Chịu được nhiệt độ cao (dưới 230
0
C) trong thời gian ngắn.
- Bị căng phồng và hư hỏng khi tiếp xúc với tinh dầu thơm hoặc các chất
tẩy như Alcool, Acêton, H
2
O
2

- Có thể cho khí, hương thẩm thấu xuyên qua, do đó LDPE cũng có thể hấp
thu giữ mùi trong bản thân bao bì, và cũng chính mùi này có thể đưộc hấp
thu bởi thực phẩm được chứa đựng, gây mất giá trị cảm quan của sản
phẩm.
+ Công dụng:
- Làm túi xách các loại, thùng (can) có thể tích từ 1 đến 20 lít với các độ
dày khác nhau.
- Sản xuất nắp chai. Do nắp chai bị hấp thu mùi nên chai đựng thực phẩm

đậy bằng nắp PE phải được bảo quản trong một môi trường không có chất
gây mùi.
- Dùng để làm bao bì nilon, tấm trải bằng nhựa…
Hình 5: Một số sản phẩm từ nhựa LDPE
• 5- PP (Polypropylen):
+ Đặc tính :
- Tính bền cơ học cao (bền xé và bền kéo đứt), khá cứng vững, không mềm
dẻo như PE, không bị kéo giãn dài do đó được chế tạo thành sợi. Đặc biệt
khả năng bị xé rách dễ dàng khi có một vết cắt hoặc một vết thủng nhỏ.
- Trong suốt, độ bóng bề mặt cao cho khả năng in ấn cao, nét in rõ.
- Chịu được nhiệt độ cao hơn 100
0
C. Tuy nhiên, nhiệt độ hàn dán mí (thân)
bao bì PP (140
0
C) cao hơn so với PE, có thể gây chảy hư hỏng màng ghép
cấu trúc bên ngoài, nên thường ít dùng PP làm lớp trong cùng.
- Có tính chất chống thấm O
2
, hơi nước, dầu mỡ và các khí khác.
+ Công dụng:
- Dùng làm bao bì một lớp chứa đựng bảo quản thực phẩm , không yêu cầu
chống oxy hóa một cách nghiêm ngặt.
- Tạo thành sợi, dệt thành bao bì đựng lương thực, ngũ cốc có số lượng lớn.
16
- PP cũng được sản xuất dạng màng phủ ngoài đối với màng nhiều lớp để
tăng tính chống thấm khí, hơi nước, tạo khả năng in ấn cao, và dễ xé rách
để mở bao bì (do có tạo sẵn một vết đứt) và tạo độ bóng cao cho bao bì.

Hình 6: Một số sản phẩm từ nhựa PP

• 6-PS (Polystyrene):
+ Đặc tính:
- Dễ pha màu.
- Cách điện.
+ Công dụng:
- Dùng làm bao bì thực phẩm, đĩa, khai đựng thịt, ly uống nước.
- Đồ dùng nhà bếp, bao bì đóng gói sản phẩm, hộp đựng yoghurt…
- Dùng làm vật liệu cách điện.
Hình 7: Một số sản phẩm từ nhựa PS
7- CÁC LOẠI KHÁC:
Các loại nhựa plastic được đánh số 7, nghĩa là nó được làm từ một loại
plastic khác với 6 loại kể trên.
Ví dụ: PC (polycacbonat)
+ Đặc tính:
17
- Tính chống thấm khí, hơi cao hơn các loại PE, PVC nhưng thấp hơn PP,
PET.
- Trong suốt, tính bền cơ và độ cứng vững rất cao, khả năng chống mài
mòn và không bị tác động bởi các thành phần của thực phẩm.
- Chịu nhiệt cao (trên 100
0
C ).
+ Công dụng:
- Với khả năng chịu được nhiệt độ cao nên PC được dùng làm bình, chai,
nắp chứa thực phẩm cần tiệt trùng.
- Màng PC có tính chống thấm khí, hơi kém, giá thành PC cao gấp ba lần
PP, PET, PP nên ít được sử dụng.
* Các loại nhựa khác:
+ Đặc tính: Nhựa hỗn hợp được sử dụng để tái chế thành các loại hạt
nhựa

+ Công dụng: Dùng để sản xuất các mặt hàng không yêu cầu khắc khe về
đặc tính nhựa như bàn ghế ngoài sân, chỗ đậu xe, chai thùng, hàng rào…
Hình 8: Một số sản phẩm từ nhựa
2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM SẠCH, SƠ CHẾ TRƯỚC KHI TÁI CHẾ
NHỰA
Ở các quốc gia công nghiệp hóa, người ta phân biệt rạch ròi công việc tái chế
sơ cấp và thứ cấp. Chất thải plastic sơ cấp được phát sinh trong quá trình sản xuất và
chế tạo sản phẩm. Đặc điểm của chất thải sơ cấp là chất lượng tốt, có độ tinh khiết
cao, phù hợp với tiêu chuẩn chế tạo sản phẩm như là nguyên liệu mới ban đầu. Các
kỹ thuật tái chế bao gồm: xay, ép đùn, tạo viên… Trong các ngành công nghiệp chế
tạo, các viên nhựa này có thể được sử dụng một mình chúng hoặc thường là trộn với
những hạt nhựa mới. Quá trình tái chế các chất thải sơ cấp thành các sản phẩm có
đặc điểm tương tự như quá trình chế tạo sản phẩm ban đầu, được gọi là tái chế sơ
cấp. Cả hai quá trình tái chế sơ cấp và thứ cấp đều phụ thuộc chặt chẽ vào vốn đầu
tư, lao động, thiết bị, năng suất sản phẩm để đảm bảo khả năng hoàn vốn cao nhất.
Các qui trình sử dụng trong công nghiệp tái chế plastic cũng giống như là các qui
trình được sử dụng trong quá trình sản xuất các sản phẩm plastic từ nhựa tinh khiết.
18
Quá trình sản xuất các sản phẩm plastic không thể không có chất thải, do đó
người ta thường tiến hành các hoạt động tái chế sơ cấp ngay từ những ngày đầu
thành lập các nhà máy sản xuất. Các chất thải plastic từ các nguồn công nghiệp và
thương mại thường dùng để tái chế dễ dàng hơn plastic có nguồn gốc từ gia đình, ở
đấy chúng hỗn tạp hơn và dễ bị nhiễm bẩn hơn. Công việc phân loại plastic trước khi
tái chế thường gặp nhiều khó khăn nhưng rất quan trọng. Hiện nay, cũng đã có nhiều
công nghệ phục vụ cho công tác phân loại và làm sạch nhưng chúng hoạt động
không thành công lắm. Công nghệ tái chế sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu chất thải
plastic được phân loại trước khi thu gom. Các công nghệ tái chế vẫn đảm bảo tính
khả thi về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế vì nhiều lý do, công nghệ tái chế plastic
phải mất nhiều thời gian để thiết lập hơn các hoạt động tái chế vật liệu như giấy và
thủy tinh.

Ở các quốc gia có nền kinh tế kém hơn, các nhà máy plastic lớn thường
không tái chế chất thải plastic từ rác thải đô thị. Dây chuyền sản xuất của họ nhạy
cảm với độ nhiễm bẩn của plastic và độ đồng đều của các hạt nhựa, điều đó sẽ làm
giảm chất lượng sản phẩm của họ. Tuy nhiên các nhà máy lớn này có xu hướng tái
chế lại chính chất thải plastic của họ. Điều này đảm bảo chất lượng về vệ sinh hơn.
Các nhựa tái chế sẽ được trộn với nhựa mới theo một tỷ lệ nào đó tùy yêu cầu của
nhà sản xuất.
Tuy nguồn nguyên liệu sản xuất có sự khác nhau giữa các nước phát triển và
đang phát triển có đôi chút khác nhau nhưng quá trình sản xuất vẫn áp dụng một
công nghệ chính
Hình 9: Sơ đồ quy trình sơ chế trước khi tái chế
19
Làm sạch sơ bộ
Chất thải
công nghiệp
Chất thải đô
thị
Chất thải
nông nghiệp
Chất thải
thương mại
Xay nhỏ
Phân loại sơ bộ
Thu gom
Tạo hạt & đóng gói
Phân loại & làm
sạch
Chi tiết
2.3.1. Thu gom:
Nhựa được thu gom từ chất thải công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và đô

thị. Cụ thể như:
- Rác thải công nghiệp: Nhiều xí nghiệp đã vứt bỏ lớp màng phủ Polyethylene của
hàng hóa, nhưng đây chính là nguồn nguyên liệu tốt để tái chế. Bởi vì chúng khá
dày, hoàn toàn tinh khiết và là nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào.
- Rác thải nông nghiệp: Các khu vực trồng trọt, nuôi trồng thủy sản cung cấp một
lượng lớn rác thải nhựa từ các tấm phủ, thùng nhựa, ống dẫn nước và các ống
phun nước…
- Rác thải thương mại: Các phân xưởng, cửa hàng, siêu thị, nhà hàng, khách sạn
là những nơi cung cấp số lượng rác thải nhựa khá ổn định và tương đối sạch ít lẫn
tạp chất.
- Rác thải đô thị: Chất thải nhựa được thu gom ở khu vực dân cư, hộ gia đình,
đường phố, công viên, các bãi rác; sẽ rất khó cho việc thu gom, phân loại, làm
sạch và xử lý nếu chúng bị lẫn với chất thải nguy hại, trừ khi chúng được thu
gom trực tiếp tại nhà.
Các rác thải này được các người mua bán ve chai thu mua từng nhà sau đó tập
trung tại những đại lý thu mua phế liệu. Các công ty tái chế nhựa đến các đại lý thu
mua phế liệu mua lại các nguyên liệu này về để tái chế.
2.3.2. Phân loại sơ bộ:
Trước hết các chất thải nhựa cần được thu thập bởi các công ty tái chế, một
khi nhựa đến nhà máy tái chế giai đoạn đầu tiên là phân loại nhựa trong các loại hình
cụ thể, chủ yếu dùng phương pháp thủ công, nhựa tái chế là phức tạp hơn so với kim
lọai hoặc thủy tinh tái chế. Nếu không, nó có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng
như sản phẩm tạo ra xấu, kém chất lượng và những thuộc tính cơ học yếu kém.
Nhiều loại nhựa trông có vẻ giống hệt nhau nhưng mỗi loại nhựa lại thể hiện nhiều
đặc tính vật lý và hóa học khác nhau tùy thuộc vào chất phụ gia được thêm vào, do
đó lý do tại sao các công ty tái chế nhựa cần phải phân loại thành nhiều thành phần
khác nhau. Có nghĩa là các loại nhựa khác không được xử lý mà sẽ được bán cho các
nhà máy khác hoặc được chôn lấp, tùy theo chính sách của công ty.
2.3.3. Làm sạch sơ bộ:
Sau khi các chất thải nhựa đã được xác định và tách biệt bằng nhiều hình thức

thì quá trình làm sạch có thể bắt đầu. Công đoạn này rất quan trọng, bởi vì phế liệu
nhựa sạch sẽ có giá cao hơn và chất lượng sản phẩm tạo ra sẽ tốt và đẹp hơn. Nhựa
có thể được làm sạch ở nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình tái chế như: trước,
sau hoặc ngay khi phân loại. Nhựa cứng thường được rửa sạch lần nữa sau khi chúng
được cắt nhỏ.
20
Phế liệu nhựa có thể được rửa bằng tay hoặc bằng máy. Máy rửa gồm một bể
nước có gắn bộ cánh khuấy chạy với tốc độ chậm. Nhựa được ngâm trong bể nước
nhiều giờ, trong khi các cánh khuấy hoạt động liên tục. Chất bẩn (chủ yếu là đất cát)
sẽ lắng xuống và nhựa sạch được vớt lên. Nếu phế liệu bị dính dầu mỡ thì có thể rửa
bằng nước nóng với xà bông, thuốc tẩy hoặc với NaOH.
Phế liệu nhựa có thể được phơi khô bằng tay hoặc sấy khô bằng máy. Nếu
phơi bằng tay thì nhựa được trải ra sân phơi dưới nắng và được trở mặt đều đặn. Loại
nhựa tấm có thể treo thành từng hàng. Như vậy sẽ có thể giảm được diện tích sân
phơi so với việc phải trải ra.
Đối với nhựa phế liệu (PE) đã được cắt nhỏ thì có thể dùng máy sấy. Thời
gian sấy khô sẽ nhanh hơn và phế liệu không bị nhiễm bẩn trở lại so với việc phơi
ngoài trời. Phần nhựa cứng thì không thể sấy bằng máy mà phải trải ra phơi cho ráo
nước. Thời gian phơi tùy thuộc vào gió và nhiệt độ của khu vực phơi.
2.3.4. Xay nhỏ:
Kỹ thuật bằm nhỏ là kỹ thuật chia nhỏ vật liệu bằng nhiều cách nhằm làm
tăng thêm số lượng nguyên liệu tái chế và thuận lợi cho việc vận chuyển và dễ dàng
đưa vào các thiết bị máy móc.
Nhựa thô sau khi phân loại sẽ được cho vào máy bằm để bằm nhỏ ra. Nguyên
liệu được đổ vào một cái phễu ở phía trên máy bằm, lưỡi cắt xoay đều và cắt ra
thành nhiều mảnh nhỏ. Sau đó, chúng sẽ được qua một vỉ lọc và rớt xuống thùng
chứa đặt phía dưới.
Hình 10: Mô hình nguyên lý máy xay nhựa
Tùy theo loại và chất lượng nguyên liệu thô (HDPE dạng tấm, sợi LDPE) mà
chúng được trộn lẫn và bằm nhỏ. Hai loại PE này được trộn lẫn để tạo ra một đặc

21
tính vật lý khác cho sản phẩm. Sau quá trình đẩy và tạo hạt, tính dẻo và những đặc
tính khác của nguyên liệu thể hiện ở những hạt nhựa dẻo và dai.
Các loại nhựa mềm (túi xách, drap trải giường ) không thích hợp để đưa vào
các thiết bị máy móc như máy bằm, máy đùn. Vì vậy phải kết tụ chúng trước khi cắt,
bằng cách làm cho nó nóng lên bằng nhiệt sau đó cho nó đông lại. Quá trình này sẽ
cải thiện chất lượng của sản phẩm cuối cùng. Ngoài ra, nó còn làm tăng tỷ trọng của
nguyên liệu và có thể tạo thêm nhiều nguyên liệu để cho vào máy đùn, vì vậy để tăng
năng suất nguyên liệu kết tụ phải sạch, vì các tạp chất sẽ ảnh hưởng đến tính chất của
nhựa và hiển nhiên độ dẻo của nhựa sẽ không đạt yêu cầu. Chất bẩn cần được lấy ra
trong suốt quá trình này.
2.3.5. Phân loại và làm sạch lần cuối:
Hiện nay tại nước ta, nhựa chủ yếu được phân loại bằng phương pháp thủ
công. Tuy nhiên phương pháp phân loại này tốn nhiều nhân công, không phù hợp
với quy mô công nghiệp và đem lại hiệu quả thấp. Ví dụ như các loại bao bì, nhãn
mác, nắp chai,… trộn lẩn trong nhựa rất khó làm sạch.
Để giải quyết vấn đề đó, đã có nhiều nghiên cứu, nhiều phương pháp phân
loại và làm sạch theo quy mô công nghiệp được đua vào áp dụng, như phương pháp
cơ học, phương pháp nhiệt, phương pháp thủy lực…. Trong số đó phương pháp thủy
lực được áp dụng khá rộng rải tại các nước tiên tiến vì đem lại hiệu quả cao.
Cụ thể: Hổn hợp nhựa sau khi được làm sạch và phân loại sơ bộ sẽ được băm
nhỏ, sau đó cho vào bể thủy lực (tuyển nổi theo tỉ trọng). Do sự khác nhau về tỉ trọng
giữa các loại nhựa, nên ta có thể điều chỉnh tỉ trọng của nước, để thu được loại nhựa
nhẹ hơn nổi trên bề mặt, bằng cách cho vào trong bể một số chất làm tăng hoặc giảm
tỉ trọng của nước.
Hình 11: Mô hình nguyên lý phân loại nhựa bằng phương pháp thủy lực
 Ví dụ: Để tách nhựa PS từ hổn hợp gồm PETE, PS, PVC. Dùng bể có
dung tích 2m
3
, và hóa chất dùng để nâng tỉ trọng của nước là NaCl có tỉ khối là

2,165kg/l. Tính khối lượng NaCl cần dùng?
22
Giải:
Do PS có tỉ trọng (1.05 ) nhỏ hơn PVC (1.4), PETE(1.38) nên ta điều chỉnh tỉ
trọng của nước trong đạt giá trị 1,1 kg/l, khi đó ta sẻ thu được PS nổi trên bề mặt bể:
Ta có: Ddd = = = 1.1 kg/l
 2,165(2000 + x) = 1.1(2,165 .2000 + x)
 4330 + 2,165x = 4763 + 1,1x
 1,065x = 433
x = = 406,6 kgNaCl
2.3.6. Tạo hạt và đóng gói:
Nhựa cứng sau khi nghiền nhỏ và nhựa xốp là nguyên liệu của quá trình đùn
và tạo hạt để sản xuất hạt nhựa. Hạt nhựa này sẽ trở thành nguyên liệu đầu vào của
các quá trình ép thành sản phẩm.
Khi được nung chảy, nhựa được ép qua một máy đùn, một loại máy ép nhựa
thành những sợi như sợi bún hay những hạt nhỏ và được định hình thành hạt nhựa.
Điều này được thực hiện cách làm nóng chảy và đùn ra, đầu tiên thông qua một
buông có nhiệt độ cao để loại bỏ bất kỳ bẩn rắn hoặc các hạt kim loại làm cho nhựa
tinh khuyết một lần nũa. Trước khi nguyên liệu ra khỏi khuôn, chúng được đưa qua
vỉ lưới lọc để loại bỏ những mảnh cứng. Khi các sợi nhựa ra khỏi khuôn, chúng đi
qua một bể nước lạnh để rắn lại. Trục lăn sẽ đưa vật liệu vào khuôn cắt để cắt thành
các viên nhỏ, hình bầu dục dùng làm nguyên liệu sản xuất. Hạt nhựa sẽ tự động được
trút vào bao đặt trên một cái cân.
23
Hình 12: Mô hình nguyên lý máy tạo hạt
Hạt nhựa này có thể đem đi bán cho các nhà sản xuất khác. Ví dụ: hạt nhựa
này được kéo thành sợi để sản xuất những sản phẩm như vải len nhân tạo, làm thảm
hay sản phẩm giả gỗ dùng trong công nghiệp, xây dựng, hay làm ngói, gạch …
Một số phương pháp sản xuất được sử dụng cho các qui trình nhỏ để sản xuất
ra những sản phẩm cuối cùng, bao gồm:

• Ép đùn ( các loại ống dẫn)
• Ép phun ( các sản phẩm thông dụng)
• Công nghệ thổi ( các loại chai)
• Cán tấm ( các loại túi xách bằng nhựa)
Tất cả những phương pháp trên đều phụ thuộc vào nguồn điện. Chỉ có
phương pháp ép đùn là có chi phí thấp, khá đơn giản, có thể làm thủ công khi gặp sự
cố về điện.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ NHỰA.
3.1. CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ NHỰA PHẾ LIỆU
Qui trình tái chế nhựa phế liệu: chủ yếu gồm 4 giai đoạn chính:
• Giai đoạn 1: Phân loại
Thường được tiến hành bằng thủ công, nhằm phân loại, làm sạch từng loại PE,
PP, PVC, PS riêng biệt. Mức độ phân loại ở mỗi nơi rất khác nhau phụ thuộc vào
yêu cầu của nhà sản xuất mà họ bán. Phế liệu có thể được phân loại ở bất kỳ giai
đoạn nào trong quá trình tái chế, theo màu, theo loại… Phế liệu được phân loại bằng
tay, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, bởi vì tiền công thấp và cần nhiều lao động.
24
Hình13: Phân loại nhựa thủ công
• Giai đoạn 2: Xay bằm và phơi khô
Phế liệu sau khi được phân loại, làm sạch sẽ được đưa vào máy xay để xay nhỏ
và đưa qua một bể nước để ngâm và rửa sạch chất bẩn. Sau đó được đem phơi khô
tại các bãi đất trống rồi đóng lại thành bao và chuyển đến các cơ sở tạo hạt.
Hình 14: Máy nghiền nhựa
• Giai đoạn 3: Tạo hạt, ó keo
Tại đây, các mẫu nhựa phế liệu được đưa vào một bộ phận để xay nhuyễn và
pha màu theo yêu cầu sản xuất. Tiếp theo, các mẫu nhựa được làm nóng chảy trong
25

×