Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận môn kinh tế môi trường xử lý nước thải sinh hoạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 28 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề.
Nước là nguồn gốc sự sống của con người và muôn loài. Nước chiếm khoảng 71%
diện tích trái đất và khoảng 70% trọng lượng cơ thể người.
Hiện nay, nguồn nước sạch trên trái đất đang dần cạn kiệt do bị nhiễm bẩn nghiêm
trọng và một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm là do nguồn nước thải sinh
hoạt.
Nước thải sinh hoạt chiếm 80% trong tổng số nước thải ở các thành phố lớn. hầu
hết nước thải sinh hoạt đều thải trực tiếp nước thải vào hệ thống thoát nước không qua xử
lý. Số liệu thống kê mới đây cho thấy, trung bình một ngày Hà Nội thải 458000 m
3
nước
thải, trong đó 41% là nước thải sinh hoạt, 57% nước thải công nghiệp, 2% nước thải bệnh
viện. Chỉ có khoảng 4% nước thải được xử lý. Việc thải một lượng lớn chất thải hữu cơ ra
môi trường sẽ tạo nguồn ô nhiễm và các dịch bệnh, ảnh hưởng tới toàn cộng đồng, gây
những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường .
Từ thực trạng trên, vấn đề cấp thiết đặt ra là tìm phương án khả thi để giảm thiểu
lượng nước thải và tải lượng ô nhiễm, đồng thời tiến hành xử lý ô nhiễm nước thải sinh
hoạt trước khi thải ra môi trường.
1.2 Mục tiêu
Giới thiệu các phương pháp, nguyên tắc trong công nghệ xử ký nước thải sinh hoạt có
hiệu quả, tiết kiệm chi phí, an toàn đồng thời đưa ra những nghiên cứu và ứng dụng của
các phương pháp được ứng dụng vào thực tế.
1.3 Phương pháp thực hiện
Trong quá trình thực hiện đề tài xử lý nước thải sinh hoạt nhóm đã tham khảo các nguồn
tài liệu từ sách giáo trình , các bài báo cáo khoa học, các quy trình công nghệ về xử lý
nước thải, các công cụ tìm kím đáng tin cậy và sử dụng các phần mềm hỗ trợ việc tính
toán để đưa ra số liệu hợp lý.
II. TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1 Giới thiệu đối tượng nghiên cứu


2.1.1 Định nghĩa nước thải sinh hoạt
Nước thải sinh hoạt là nước được thải bỏ sau khi sử dụng cho các mục đích
sinh hoạt của cộng đồng: tắm, giặt giũ,tẩy rửa, vệ sinh cá nhân,vệ sinh nhà cửa…
Chúng thường được thải ra từ các căn hộ, nhà dân, cơ quan, trường học, bệnh viện,
chợ, và các công trình công c

ng khác. Như vậy, NTSH được
hình
thành trong quá trình
sinh hoạt của con người. Lượng nước thải sinh hoạt của một khu dân cư phụ thuộc vào
dân số, vào tiêu chuẩn cấp nước và đặc điểm của hệ thống thoát nước. Tiêu chuẩn
cấp nước sinh hoạt cho một khu dân cư phụ thuộc vào khả năng cung cấp nước
của các nhà máy nước hay các trạm cấp nước hiện có. Các trung tâm đô thị thường có
tiêu chuẩn
cấp
nước cao hơn so với các vùng ngoại thành và nông thôn, do đó lượng
nước thải sinh hoạt tính trên một đầu người cũng có sự khác biệt giữa thành thị và
nông thôn. N
ướ
c thải sinh hoạt ở các trung tâm đô thị thường thoát bằng hệ thống
thoát nước dẫn ra các sông rạch, còn các vùng ngoại thành và nông thôn do không có
hệ thống thoát nước nên nước thải thường được tiêu thoát tự nhiên vào các ao hồ hoặc
thoát bằng biện pháp t

th

m.
2.1.2 Thành phần, cấu tạo
Bảng 1 - Giá trị các thông số ô nhiễm làm cơ sở tính toán giá trị tối đa cho phép trong
nước thải sinh hoạt(QCVN 14 : 2008/BTNMT)

TT
Thông số
Đơn vị Giá trị C
A B
1. pH

5 - 9 5 - 9
2. BOD
5
(20
0
C) mg/l 30 50
3. Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) mg/l 50 100
4. Tổng chất rắn hòa tan mg/l 500 1000
5. Sunfua (tính theo H
2
S) mg/l 1.0 4.0
6. Amoni (tính theo N) mg/l 5 10
7. Nitrat (NO
3
-
)(tính theo N) mg/l 30 50
8. Dầu mỡ động, thực vật mg/l 10 20
9. Tổng các chất hoạt động bề mặt mg/l 5 10
10. Phosphat (PO
4
3-
)
(tính theo P)
mg/l

6
10
11.
Tổng Coliforms
MPN/
100 ml
3.000 5.000
Trong đó:
- Cột A quy định giá trị C của các thông số ô nhiễm làm cơ sở tính toán giá trị
tối đa cho phép trong nước thải sinh hoạt khi thải vào các nguồn nước được dùng cho
mục đích cấp nước sinh hoạt (có chất lượng nước tương đương cột A1 và A2 của Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt).
- Cột B quy định giá trị C của các thông số ô nhiễm làm cơ sở tính toán giá trị
tối đa cho phép trong nước thải sinh hoạt khi thải vào các nguồn nước không dùng cho
mục đích cấp nước sinh hoạt (có chất lượng nước tương đương cột B1 và B2 của Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt hoặc vùng nước biển ven bờ).
Thành phần của nước thải sinh hoạt gồm 2 loại:
 Nước thải nhiễm bẩn do chất bài tiết của con người từ các phòng vệ sinh
 Nước thải nhiễm bẩn do các chất thải sinh hoạt: cặn bã từ nhà bếp, các chất rửa trôi,
kể cả làm vệ sinh sàn nhà.
Nước thải sinh hoạt chứa nhiều chất hữu cơ hàm lượng chất hữu cơ cao (55-65%
tổng lượng chất bẩn),
chứa
nhiều vi sinh vật, vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ cần thiết
cho
các
quá trình chuyển hóa chất bẩn trong
NT
. Chất hữu cơ chứa trong nước thải bao
gồm các hợp chất như protein (40-50%);hydrat cacbon(40-50%). Nồng độ chất hữu cơ

trong nước thải sinh hoạt dao động trong khoảng 150-450mg/l theo trọng lượng khô. Có
khoảng 20-40% chất hữu cơ khó bị phân huỷ sinh học. Các hợp chất hữu cơ có thể tồn
tại dưới các dạng hòa tan, keo, không tan, bay
hơi,
không bay hơi, dễ phân hủy, khó
không hủy, Phần lớn các chất hữu cơ trong nước đóng
vai
trò là cơ chất đối với vi
sinh vật. Nó tham gia vào quá trình dinh dưỡng và tạo năng lượng
cho
vi sinh
vật.
Ơ
những khu dân cư đông đúc, điều kiện vệ sinh thấp kém, nước thải sinh hoạt không được
xử lý thích đáng là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Ngoài ra còn có cả các thành phần vô cơ như: H
2
S, Sunfit, ammonia, Nitơ,… vi
sinh vật và vi trùng gây bệnh rất nguy hiểm.
2.1.3 Tác hại đến môi trường
Tác hại đến môi trường của nước thải sinh hoạt do các thành phần ô nhiễm tồn tại trong
nước thải gây ra.
COD,BOD: sự khoáng hóa, ổn định chất hữu cơ tiêu thụ một lượng lớn và gây
thiếu hụt oxy của nguồn tiếp nhận dẫn đến ảnh hưởng đến hệ sinh thái môi trường nước.
nếu ô nhiễm quá mức, điều kiện yếm khí có thể hình thành. Trong quá trình phân hủy yếm
khí sinh ra các sản phẩm như H
2
S,NH
3
,CH

4
,… làm cho nước có mùi hôi thúi và làm giảm
pH của môi trường.
SS: lắng đọng ở nguồn tiếp nhận, gây điều kiện yếm khí.
Nhiệt độ: nhiệt độ của nước thải sinh hoạt thường không ảnh hưởng đến đời sống
của thủy sinh vật nước.
Vi trùng gây bệnh: gây ra các bệnh lan truyền bằng đường nước như tiêu chảy, ngộ
độc thức ăn, vàng da,…
Ammoniac, P: đây là những nguyên tố dinh dưỡng đa lượng. nếu nồng độ trong
nước quá cao dẫn đến hiện tượng phú dưỡng hóa ( sự phát triển bùng phát của các loại
tảo, làm cho nồng độ oxy trong nước rất thấp vào ban đêm gây ngạt thở và diệt vong các
sinh vật, trong khi đó vào ban ngày nồng độ oxy rất cao do các quá trình quang hợp của
tảo thải ra).
Màu: gây mất mỹ quan.
Dầu mỡ: gây mùi, ngăn cản khuếch tán oxy lên bề mặt.
2.2 Các phương pháp xử lý
2.1.1 Xử lý cơ học
Xử lý cơ học là nhằm loại bỏ các tạp chất không hòa tan chứa trong nước thải và
được thực hiện ở các công trình xử lý: song chắn rác, bể lắng cát, bể lắng, bể lọc các loại
a) S

on g

ch ắ

n

r á

c


h o

ặ c

l ư

ớ i

ch ắ

n

r á

c
Song chắn rác (SCR), lưới chắn rác làm nhiệm vụ giữa lại các chất bẩn kích
thướclớn có nguồn góc hữu cơ.
Loại bỏ tất cả các tạp vật có thể gây sự cố trong quá trính vận hành hệ thống
XLNT
như: tắc ống bơm, đường ống hoặc ống
dẫn
Trong XLNT đô thị người ta dùng song chắn để lọc nước và dùng máy nghiền
nhỏ
các
vật bị giữ lại, còn trong XLNT công nghiệp người ta đặt thêm lưới
chắn.
SCR được phân loại theo cách vớt
rác:
+SCR vớt rác thủ công, dùng cho trạm xử lý có công suất nhỏ dưới 0,1

m
3
/ngày
+SCR vớt rác cơ giới bằng các bằng cào dùng cho trạm có công suất lớn hơn 0,1
m
3
/ngày
Rác được vớt 2-3lần trong ngày và được nghiền để đưa về bể ủ bùn hoặc xả
trực
tiếp
phía trước thiết
bị.
Bể lắng cát được thiết kế trong công nghệ xử lý nước thải nhằm loại bỏ các tạp chất vô
cơ, chủ yếu là cát chứa trong nước thải.
b) B



lắn g

c á

t
Trong XLNT, quá trình lắng được sử dụng để loại các tạp chất ở dạng huyền phù
thô
ra
khỏi nước thải. Theo chức năng, các bể lắng được phân thành: bể lắng cát , bể
lắng sơ cấp,
bể
lắng thứ cấp.Yêu cầu: có hiệu suất lắng cao và xả bùn dễ

dàng.
Cũng có thể sử dụng bể lắng như công trình xử lý cuối cùng, nếu điều kiện vệ
sinh
nơi
đó cho
phép.
Bể lắng sơ cấp: đặt trước công trình xử lý sinh học dùng để gữi lại các chất hữu

không tan trong NT trước khi cho NT vào các bể xử lý sinh học và loại bỏ các chất
rắn có
khả
năng lắng (tỉ trọng lớn hơn tỉ trọng của nước) và các chất nổi (tỉ trọng bé
hơn tỉ trọng
nước).
Nếu thiết kế chính xác bể lắng sơ cấp có thể loại bỏ 50 -70% chất
rắn lơ lửng, 25 - 40%
BOD

của
NT.
Bể lắng thứ cấp: đặt sau công trình xử lý sinh
học.
Căn cứ vào chiều nước chảy phân biệt các loại: bể lắng ngang, đứng,
radian
2.2.2 Xử lý sinh học
Cơ sở của phương pháp xử lý sinh học nước thải là dựa vào vào khả năng oxy hóa
các liên kết hữu cơ dạng hòa tan và không hòa tan của vi sinh vật- chúng sử dụng các liên
kết đó như là nguồn thức ăn của chúng
 Các công trình xử lý sinh học có nguồn gốc tự nhiên:
Hồ sinh vật, hệ thống xử lý bằng thực vật nước(lục bình,lau, sậy,rong-tảo, ), cánh

đồng tưới, cánh đồng lọc, đất ngập nước,
 Các công trình xử lý sinh học trong điều kiện nhân tạo : Bể lọc sinh học các loại,
quá trình bùn hoạt tính, lọc sinh học tiếp xúc dạng trống quay(RBC), hố sinh học
thổi khí, mương oxy hóa,
a) Đĩa quay sinh học(RBC)
Được áp dụng đầu tiên ở Cộng Hòa Liên Bang Đức 1960, sau đó ở Mỹ và Canada
để khử BOD và Nitrat rất hiệu quả.
RBC gồm hàng loạt đĩa tròn, thẳng bằng polystryren(PS) hoặc PVC lắp trên một
trục bằng thép có đường kính 3,5m. Các đĩa được đặt ngập một phần trong nước thải và
quy từ từ với vận tốc 1-3 vòng/phút. Trong quá trình vận hành, các vi sinh vật sẽ sinh
trưởng gắng kết trên bề mặt đĩa và hình thành lớp màng mỏng nhày trên bề mặt ướt của
đĩa (1-4mm).khi đĩa quay, lần lượt làm cho lớp màng vi sinh vật tiếp xúc với chất hữu cơ
trong nước thải và với không khí để hấp thụ oxy. Đĩa quay cũng là cơ chế để tách các chất
rắn thừa ra khỏi bề mặt các đĩa nhờ lực ly tâm.
b) XLNT bằng bùn hoạt
tính
Các vi sinh vật thường tồn tại ở trạng thái huyền phù. Bể được sục khí để đảm
bảo
yêu
cầu oxy và duy trì bùn hoạt tính ở trạng thái lơ lửng. Huyền phù lỏng của các
vi sinh vật
trong
bể thông khí được gọi chung là chất lỏng hỗn hợp và sinh khối
(MLSS).
Khi NT đi vào bể thổi khí (bể aeroten), các bông bùn hoạt tính được hình thành

hạt
nhân của nó là các phần tử cặn lơ
lửng.
Các loại vi khuẩn hiếu khí đến cư trú, phát triển dần cùng với các động vật

nguyên
sinh,
nấm, xạ khuẩn,… tạo nên các bông bùn màu nâu sẫm, có khả năng hấp thụ
các chất hữu cơ
hòa
tan, keo và không hòa tan phân tán
nhỏ.
Vi khuẩn và vi sinh vật sống dùng chất hữu cơ và chất ding dưỡng (N, P) lam
thức
ăn
để chuyển hóa chúng thành các chất trơ không hòa tan và thành tế bào
mới.
Dẫn đến trong bể aeroten lượng bùn hoạt tính tăng dần lên, sau đó được tách ra
tại
bể
lắng đợt 2, một phần được quay trở lại đầu bể aeroten để tham gia xử lý NT theo
chu trình
mới
Quá trình cứ tiếp diễn đến khi chất thải cuối cùng không thể là thức ăn
của các vi sinh vật
được

nữa.
Nếu trong NT đậm đặc chất hữu cơ khó phân hủy, cần có thời gian để chuyển
hóa
thì
phần bùn hoạt tính tuần hoàn phải được tách riêng và sục khí oxy cho chúng
tiêu hóa thức
ăn
đã hấp thụ. Quá trình này gọi là tái sinh bùn hoạt tính.Như vậy quá

trình XLNT bằng bùn
HT
bao gồm các giai đoạn
sau:
+Khuấy trộn tạo điều kiện tiếp xúc NT với bùn
HT
+Cung cấp oxy để vi khuẩn và vi sinh vật oxy hóa chất hữu

+Tách bùn HT ra khỏi
NT
+Tái sinh bùn HT tuần hoàn và đưa chúng về bể
aeroten
Yêu cầu chung về vận
hành:
+Các bể aeroten phải đảm bảo bề mặt tiếp xúc lớn giữa không khí, NT và
bùn.
+Không khí được cấp vào NT bằng: nén khí qua bộ phận khuếch tán ngập
trong
nước
bằng sục khí hoặc dùng khuấy cơ học thổi vào chất lỏng bằng thông khí cơ
học.
+NT đưa vào DO ≥ 2mg/l,
SS


150mg/l (đối với hàm lượng sản phẩm dầu mỏ
thì ≤ 25mg/l), pH 6,5-9, nhiệt độ 6-30
o
C, độc tố: GHCP, khoáng hòa tan: đầy đủ, BOD
(chất hữu


dễ bị phân hủy), nồng độ các chất dinh dưỡng khác: đảm
bảo.
Phân loại bể
aeroten:
+Theo chế độ thủy động lực có: bể aeroten đẩy, khuấy trộn, trung
gian
+Theo phương pháp tái sinh bùn hoạt tính: loại có tái sinh tách riêng, loại không

tái
sinh tách
riêng
+Theo tải lượng bùn: loại tải trọng cao, trung bình,
thấp
+Theo số bậc: 1 bậc, 2 bậc, nhiều
bậc
+Theo chiều dẫn NT vào: xuôi chiều, ngược
chiều
2.2.3 Xử lý hóa học(Khử trùng nước thải)
Khử trùng nước thải là giai đoạn cuối cùng của công nghệ xử lý nước nước thải
nhằm loại bỏ các vi trùng vá virus gây bệnh trước khi xả vào nguồn nước.
Để khử trùng nước thải có thể sử dụng clo và các hợp chất chứa clo, có thể tiến
hành khử trùng bằng ozon, tia hồng ngoại, ion, bạc, nhưng cần nhắc kỹ về mặt kinh tế.
K h



t r ùn

g






c

t h



i b

ằ n

g

c



l

o

Rẻ tiền, đơn giản, hiệu quả
cao
Thường dùng: clo lỏng, natri hypoclorit lỏng NaClO, canxi hypoclorit
rắn
CaCl

2
(ClO)
2
.H
2
O
Tổng lượng Cl
2
, ClO
-
trong nước gọi là lượng clo hoạt
tính.
Khử trùng được tiến
hành theo các
bước:
-Xáo trộn hóa chất khử trùng với NT trong các bể trộn 1-2
phút
-Thực hiện phản ứng tiếp xúc hóa chất khử trùng với NT trong các bể tiếp xúc và
máng
dẫn NT ra nguồn với thời gian 15-20 phút, phụ thuộc vào các điều kiện xáo trộn
và phản
ứng.
Tuy nhiên, nếu trong NT chứa nhiều chất hữu cơ chúng sẽ kết hợp với clo tạo
các
sản
phẩm độc hại, dễ gây hại cho nguồn nước đặc biệt đối nguồn nước cấp cho
mục đích
sinh

hoạt.

-Khử trùng bằng clo nước: để định lượng clo, xáo trộn clo với hơi nước công
tác,
điều
chế và vận chuyển đến nơi sử dụng người ta thường dùng cloratơ (cloratơ
hoạt động liên
tục
đều, cloratơ hoạt động liên tục tỷ lệ với lưu lượng nước, cloratơ
chân không). Nguyên tắc
hoạt
động của cloratơ: các banlon clo sử dụng để trên cân để
theo dõi lượng clo tiêu thụ. Đối với
clo
hơi khi nén vào banlon có thể bị lẫn bụi vì vậy
trước khi qua lưu lượng kế, clo cần được
khử
bụi, lưu lượng được điều chỉnh bằng lưu
lượng kế và hóa lỏng bằng nước sạch. Thường
dùng
cloratơ chân không có áp lực thấp
hơn áp suất không khí do đó hơi clo không bay ra
ngoài.
Các banlon clo được cung
cấp từ các nhà máy sản
xuất.
-Khử trùng NT bằng clorua vôi: thường có 1 hay 2 thùng hòa trộn, hai thùng
dịch

máy bơm định
lượng.
-Thùng hòa trộn làm nhiệm vụ: trộn clorua vôi với nước kỹ thuật để đạt được

dung
dịch
clorua vôi dạng sữa 10 -15%. Bùn cặn từ thùng này được xả ra ngoài và
vận chuyển đi
làm
khô. Sữa clorua vôi tiếp tục được pha loãng trong thùng dung dịch
đến nồng độ dưới 2,5%
sau
đó được máy bơm định lượng cấp về máng
trộn.
-Các thùng pha clorua vôi có thể làm bằng composit, gỗ, bêtông có bọc
nhựa,
dung
dịch clo được khuấy trộn bằng cánh khuấy và trục chịu hóa
chất.
Áp dụng: các trạm XLNT công suất < 1000
m3/ngày
2.2.4 Quy trình công nghệ
Nước thải từ khu dân cư trước khi đi vào bể lắng cát thổi khí được cho
qua
song chắn rác. Khi qua song chắn rác, các thành phần như nhánh cây, gỗ, nhựa, giấy,
lá cây, rễ cây, giẻ rách, bị giữ lại và được thu gom b

ng thủ công cho vào thùng chứa
rác.
Bể lắng cát có nhiệm vụ tạo thời gian lưu và thu giữ các hạt cát sỏi có kích
thước lớn hơn 0,2mm. Tại bể lắng cát, các chất vô cơ có trọng l
ượ
ng lớn sẽ bị tách ra
khỏi nước, và được xả vào sân phơi cát. Sau đó nước th


i được dẫn đến bể điều hòa lưu
lượng với hệ thống sục khí để chống kh

năng lắng cặn tại b

.
Sau đó nước thải được bơm đến bể aeroten, tại bể aeroten nước thải được xử
lý bằng quá trình sinh học lơ lửng.
Nước sau khi ra khỏi bể aeroten, được dẫn đến bể lắng đợt 2. Bể lắng đợt 2 được
xây dựng theo mô hình bể lắng ly tâm có thời gian lưu nước từ 1,5-3 giờ. Dưới tác dụng
của trong lực và lực ly tâm các hạt bông bùn hoạt tính sa lắng xuống đáy. Một phần bùn
hoạt tính được trở lại bể aeroten, phần bùn dư được đưa ra sân phơi bùn. Bùn được tách
nước và đưa đi làm phân bón cây. Sau đó nước thải được khử trùng bằng clo tại bể tiếp
xúc.
Nước thải sau khi qua hệ thống có các chỉ tiêu thõa mãn với yêu cầu xả thải và
được xả vào nguồn nước mặt của địa phương.
III. CÁC NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG
3.1 Các nghiên cứu
3.1.1 Đề tài: Hiệu suất xử lý nước thải sinh hoạt của hệ thống đất ngập nước kiến tạo nền
cát vận hành với mức tải nạp thủy lực cao.
• Đề tài do: Ngô Thụy Diễm Trang, trường Đại học Cần Thơ và Hans Brix, trường
Đại học Aarhus – Đan Mạch thực hiện.
• Nơi nghiên cứu: Tại khu 1, đại học Cần Thơ.
• Thời gian thực hiện: Hệ thống hoàn thành trong năm 2002.
• Nội dung:
Tầm quan trọng của việc sử dụng hệ thống bãi lọc trồng sậy qui mô nhỏ trong
việc xử lý nước thải sinh hoạt phi tập trung ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, Việt Nam, với
kết quả là nước thải đầu ra của hệ thống có chất lượng tốt. Hệ thống đất ngập nước kiến
tạo nền cát trồng sậy có dòng chảy ngầm ngang (HSSF CWs) được xây dựng tại khu 1,

Đại học Cần Thơ. Hệ thống được vận hành với hai mức tải nạp thủy lực (HLRs) là 31 và
62 mm/ngày. Khả năng xử lý TSS, lân hòa tan (PO
4
-P) và lân tổng (TP) là rất hiệu quả
và không đổi cho cả hai mức HLRs với hiệu suất xử lý trung bình tương ứng khoảng 94,
99 và 99%, trong khi đó hiệu suất xử lý nhu cầu oxy sinh học (BOD
5
), nhu cầu oxy
hóa học (COD), tổng đạm Kjeldahl (TKN) và đạm amôn (NH
4
-N) giảm khi HLR tăng,
và có giá trị trung bình nằm trong khoảng tương ứng là 47-71, 68-84, 63-87 và 69-91%.
Kết quả cho thấy bằng cách sử dụng HSSF CWs trong việc xử lý nước thải sinh hoạt là
phương pháp khả thi. Chất lượng nước thải đầu ra của hệ thống ở mức HLR cao62
mm/ngày (tương đương 1200 L/ngày) đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho phép xả thải vào
nguồn nước mặt.
• Phương pháp nghiên cứu: Lý luận khoa học và nghiên cứu thực tiễn.
• Mục tiêu:

Đề
tài này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu suất xử lý nước thải sinh hoạt
của
h

thống với lưu lượng nạp vào cao hơn thông qua chất lượng nước thải đầu ra so
v
ới
tiêu chuẩn QCVN 24:2009/BTNMT (thay thế cho TCVN 5945:2005) (Loại A:
cho
phép thải vào nguồn tiếp nhận là nguồn nước dùng cho mục đích sinh hoạt;

Lo
ại
B:
cho phép thải vào nguồn tiếp nhận là nguồn nước dùng cho mục đích khác).
T

đó làm
cơ sở cho việc thiết kế hệ thống ĐNN khi áp dụng ở diện rộng hơn hay
cho
những
nghiên cứu tiếp theo trên cùng hệ
thống.
• Sản phẩm: Xử lí nước thải sinh hoạt phi tập trung bằng hệ thống Đất ngập nước
(ĐNN) kiến tạo theo phương ngang (HSSF) ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
• Mô tả hệ
thống
Hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt bằng đất ngập nước kiến tạo dòng chảy
ng

m
theo phương ngang (HSSF) được thiết kế phục vụ nghiên cứu tốc độ dòng
ch

y
trong hệ thống do Dự án VLIR – A2 tài trợ. Hệ thống bao gồm các bể liên tiếp:
(1)
bể vào (bể điều lưu) (2,0m x 1,6m x 2,2m: dài x rộng x cao) chứa nước thải
đầu
vào
được bơm vào từ thùng nhựa thu gom 500L từ các hộ gia đình, bơm qua 1

tấ
m
lưới lọc
rác; (2) bể lọc than đước (0,6m x 1,6m x 1,3m) để lọc giữ lại các chất
r

n,
khử mùi, một
số chất ô nhiễm và vi sinh có trong nước thải; (3) bể lọc xơ
d
ừa
(0,4m x 1,6m x
1,05m) được ngăn cách với bể xử lý phía sau bằng một lưới
thép,
trong bể có kẹp xơ
dừa để ngăn cát tràn ngược về phía trước và ngăn không
cho
các mảnh vụn của than
cũng như các mảnh vụn hữu cơ có kích thước lớn đi vào
b

xử lý; (4) bể cát có trồng
Sậy Phragmites sp. (25 cây/m
2
) là phần chính của
h

thống có kích thước dài x
rộng (12,0m x 1,6m) và chiều cao ở đầu khu đất


1,75m, chiều cao ở cuối khu đất
là 2m, đáy bể được đặt nghiêng hướng bể đầu
ra
với độ dốc i = 1%; và (5) cuối cùng là
bể đầu ra (1,0m x 1,6m x 1,2m). Đầu ra
đặ
t
ở cuối hệ thống với 2 vòi chảy tràn đặt
cách đáy hệ thống 1,3m. Ngoài ra, có
mộ
t
vòi xả đặt cách đáy hệ thống là 0,6m để
lấy mẫu nước ra và một van xả
đáy.
• Vận hành hệ
thống
Hai lưu lượng đã được áp dụng là 0,6 và 1,2 m
3
/ngày tương ứng với mức tải
n

p
thủy lực (HLR) là 31 và 62 mm/ngày. Mức tải nảp thủy lực thấp (31 mm/ngày)
s

được vận hành đầu tiên, nước thải được bơm vào bể điều lưu. Lượng nước
th
ải
được
chia làm 2 lần bơm sáng và chiều. Trong bể điều lưu có lắp một dây

th
ướ
c,
mỗi lần
bơm nước thải vào, van ở bể điều lưu được khóa lại, và bơm một thể
tích
nước có chiều
cao 11cm đối với nghiệm thức 600L, và 22 cm với nghiệm
t
h
ức
1200L (trong suốt
bài viết sẽ sử dụng NT 600L và NT 1200L). Khi đủ lượng
thì
mở van cho nước chảy
vào hệ thống. Hệ thống được vận hành liên tục 15 ngày
cho
mỗi lưu lượng nhằm ổn định
hệ thống trước khi thu mẫu. Việc thu mẫu nước
tiế
n
hành 2 ngày 1 lần liên tục trong 10
ngày cho mỗi
NT.
Hệ thống đất ngập nước kiến tạo, đơn vị kích thước: m
• Kết quả và ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu:
Khả năng xử lý TSS, PO
4
-P và TP là rất hiệu quả và không đổi cho cả hai mức lưu
lượng (600 và 1200 L/ngày); đạt hiệu suất xử lý trung bình tương ứng là 94, 99 và 99%.

Hiệu suất xử lý BOD
5,
COD, TKN, NH
4
-N giảm ở mức lưu lượng cao (1200L/ngày), với
giá trị trung bình tương ứng là 47-71%, 68-84%, 63-87%, 69-91%.
Hệ thống đất ngập nước kiến tạo chay ngầm ngang có trồng Sậy trong nghiên cứu
này cho kết quả khả thi trong việc xử lý nước thải sinh hoạt phi tập trung ở điều kiện nông
thôn đồng bằng sông Cửu Long.
Hệ thống này có chức năng như bể lọc sinh học hiệu quả, dễ vận hành, ít tốn công
bảo trì, mức tải nạp thủy lực cao. Chất lượng nước thải đầu ra của hệ thống ở mức tải nạp
thủy lực 62mm/ngày đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho phép xả vào nguồn nước mặt.
3.1.2 Đề tài: Nghiên cứu khả năng áp dụng công nghệ mương oxy hoá trong việc xử lý
nước thải sinh hoạt ở thành phố Đà Nẵng.
• Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đặng Thị Phương Hà.
• Cơ quan chủ trì: Phòng Kế hoạch – Đầu tư Sở Giao thông vận tải TPĐN.
• Thời gian thực hiện: 9/2010-12/2010.
• Mục tiêu:
Nghiên cứu khả năng áp dụng công nghệ mương oxy hóa trong việc xử lý nước
thải sinh hoạt ở Đà Nẵng, đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, phù hợp với các quy định
hiện hành và mang tính khả thi cao.
• Phương pháp nghiên cứu: Lý luận khoa học và nghiên cứu thực tiễn.
• Sản phẩm: Báo cáo “Nghiên cứu khả năng áp dụng công nghệ mương oxy hóa
trong việc xử lý nước thải sinh hoạt ở thành phố Đà Nẵng”.
• Giới thiệu về mương oxy hóa:
Mương oxy hóa là 1 dạng khác của quá trình xử lý sinh học bùn hoạt tính sử
dụng thời gian lưu thủy lực kéo dài (SRTs) để loại bỏ các chất hữu cơ bị phân hủy trong
nước thải. Công nghệ này dựa trên sự phát triển sinh học dạng “lơ lửng” gọi là “bùn hoạt
tính” duy trì trong môi trường giàu oxy. Sự phát triển sinh học này rất nhanh giúp phá
hủy chất hữu cơ có trong nước thải đầu vào. Sự phá hủy các chất hữu cơ bằng bùn

hoạt tính gây ra khối lượng tế bào chết lớn, làm tăng khối lượng chất rắn bùn hoạt tính.
Nước thải sau khi lưu tại mương oxy hóa khoảng 24h, hỗn hợp gồm nước thải và bùn
hoạt tính – thường được gọi là chất lỏng hỗn hợp được chuyển tới bể lắng bậc hai để
phân tách khỏi nước thải đầu ra đã qua xử lý và bùn kết. Một phần bùn thải này được tái
tuần hoàn đến đầu dẫn nước thải vào bể mương oxy hóa và trở lại thành bùn hoạt tính,
phá hủy thêm tải lượng BOD5 hữu cơ. Phần còn lại của bùn lắng này được thải ra một
quy trình làm sánh rồi đến công đoạn tháo nước trong quá trình đưa bùn thải còn lại ra
khỏi công trường nhà máy. Điểm khác của quy trình xử lý oxy hóa là không đòi hỏi bể
lắng bậc 1. Nước thải thô đầu vào có thể được dẫn thẳng đến các bể mương oxy hóa để
xử lý.
Mô tả quy trình mương oxy hóa:

Nước từ trạm bơm → Bể tiếp nhận → Lưới chắn rác → Bể sục khí liên tục (Bể
phản ứng) → Bể lắng cuối → Bể khử trùng → Xả.

Bùn từ bể sục khí liên tục (bể phản ứng) + bể lắng thứ cấp → Bể chứa bùn
thải → Máy tách nước→ Sân chứa bùn → Bãi chôn lấp.

Một phần bùn của bể lắng 2 sẽ được tuần hoàn trở lại bể sục khí liên tục để
tăng hiệu suất khử BOD cho bể.
Hình 4-1. Quy trình công nghệ mương oxy hóa bằng hình
Hình ảnh về mương oxy hóa trên thực tế
Với Đà Nẵng, công nghệ mương oxy hóa được xác định là phương án công nghệ
tốt nhất trong xây dựng qui trình xử lý bậc hai sau này. Mương oxy hóa được kiến nghị
áp dụng vì những lý do sau:
 Thông thường có yêu cầu kiểm soát quy trình dễ hiểu và rõ ràng.
 Bể sục khí kéo dài (mương oxy hóa) tự nó là quy trình ổn định miễn là
thiết bị được bảo dưỡng đúng cách, hệ thống lập trình và quản lý được người bán cung
cấp chăm sóc và đáng tin cậy để vận hành hệ thống và người bán được thông báo kịp
thời, tốt nhất là thông báo tự động.

 Phù hợp với nhiều loại dòng chảy và tải lượng vì có thời gian lưu thủy
lực dài.
 Thông thường có thể tiếp cận thiết bị từ bề mặt bể mà không cần ngưng
hoạt động quy trình trong các hoạt động sửa chữa/thay thế và bảo hành thông thường.
 Dễ thích ứng với việc thay đổi quy trình để đạt hiệu quả nitrat hóa/khử
nito mà không cần nâng cấp hạng mục tốn kém.
 Ít mùi, thể tích không khí xử lý ít.
 Không cần xử lý bậc một, không cần làm ổn định bùn, tạo thuận lợi xử lý
cấp 3 trong tương lai.
Nhược điểm chính của công nghệ mương oxy hóa là yêu cầu về diện tích mặt bằng
khá lớn
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là rất lớn. Việc nghiên cứu, xem xét công nghệ
Mương oxy hóa có thích hợp trong việc xử lý nước thải sinh hoạt với nồng độ BOD khá
thấp như hiện nay (theo kết quả của các nghiên cứu gần đây) ở thành phố Đà Nẵng là hết
sức cấp thiết, góp phần hỗ trợ chủ đầu tư đưa ra quyết định chính thức trong viêc lựa
chọn công nghệ xử lý nước thải phù hợp cho tương lai.
3.2. Các ứng dụng của xử lý nước thải sinh hoạt trong thực tế.
3.2.1. Công ty phát triển công nghệ và phát
triển môi trường Á Đông (Asiatech)
Hệ thống XLNT sinh hoạt khu dân cư Hòa Lợi Hệ thống XLNT sinh hoạt khu dân cư Việt Sing
Asiatech là công ty môi trường đi đầu với việc áp dụng công nghệ mới vào thực
tiễn như: AAO&MBR, AO&MBR, AAO&MBBR, MBBR, MBR, UNITANK, SBR,
UF… tiết kiệm được ½ diện tích sử dụng, nước thải sau xử lý hoàn toàn đạt tiêu chuẩn xã
thải do nhà nước ban hành.
Hình ảnh chi tiết hệ thống XLNT sinh hoạt KDC Hòa Lợi


3.2.2. Mô hình xử lý nước thải bằng bể Bastaf tại Vĩnh Phúc.
Xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc có tổng diện tích đất tự nhiên là

327.34 ha, trong đó đất nông nghiệp là 239.21 ha, đất phi nông nghiệp là 88.13 ha với hơn
1.200 hộ gia đình, trong đó số nhân khẩu là 5.577 người. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế
thì vấn đề ô nhiễm môi trường đang trở nên rất bức xúc do các loại chất thải chăn nuôi,
nước thải và rác thải sinh hoạt.
Vị trí tuyến cụm dân cư xây dựng bể thuộc một phần của thôn 1, 4 và thôn 5, nằm
cách trung tâm huyện Vĩnh Tường 4 km. Trong đó, dân số khu vực xây dựng bể xử lý
nước thải tại Vĩnh Sơn tính đến ngày 31/6/2009 (theo kết quả điều tra của Trung tâm
TN&BVMT Vĩnh Phúc) là 800 người. Với số vốn nhà nước đầu tư khoảng 600 triệu
đồng, tổng số 160 hộ dân, diện tích khu vực xây dựng bể Bastaf xử lý nước thải tại tuyến
cụm dân cư xã Vĩnh Sơn 1.100 m
2
. Toàn bộ nước thải sinh hoạt phát sinh trong tuyến cụm
dân cư là 80 m
3
ngày/đêm được thu gom theo hệ thống thu gom nước thải chung và đưa
về bể Bastaf với vận tốc dòng chảy V = 0,3m/h, ở điều kiện yếm khí để xử lý. Nước thải
đi qua ngăn lắng với thời gian lưu là 1 ngày đủ để làm lắng những cặn có kích thước lớn,
tiếp sau đó nước thải được đưa qua ngăn kỵ khí, ở đây nước thải được lưu với thời gian là
3 ngày, các vi sinh vật hô hấp yếm khí, hoặc hô hấp tùy tiện sẽ sử dụng các hợp chất hữu
cơ trong nước thải làm thức ăn để tổng hợp thành sinh khối. Quá trình phân hủy này sẽ
làm cho lượng sinh khối của vi sinh vật tăng lên, bám dính lại với nhau làm tăng khối
lượng của chúng và kéo nhau cùng lắng xuống, tiếp sau đó nước thải được đưa qua ngăn
lọc kỵ khí có tác dụng lọc các cặn lơ lửng có kích thức lớn, thời gian lưu trong ngăn lọc
kỵ khí 1 điều kiện yếm khí được đưa sang Ao sinh học (Ao đã cải tạo). Theo kết quả phân
tích thử nghiệm các mẫu nước thải của tuyến cụm dân cư sau khi qua xử lý bằng bể
Bastaf và Ao sinh học cho thấy, chất lượng nước thải của toàn tuyến cụm dân cư đã dần
được cải thiện. Khi triển khai nhiệm vụ “Xây dựng mô hình xử lý nước thải sinh hoạt
tuyến cụm dân cư bằng bể Bastaf”, Trung tâm TN&BVMT đã tiến hành điều tra, khảo sát
tuyến cụm dân cư xây dựng bể Bastaf, kết hợp với việc tổ chức tập huấn, tuyên truyền
cung cấp những thông tin, kiến thức về xử lý nước thải, nhằm đánh giá khả năng nhân dân

tham gia mô hình xử lý nước thải chi phí thấp. Kết quả cho thấy: Người dân tuyến cụm
dân cư đã có nhiều thay đổi trong hành vi và thói quen. Tỉ lệ hộ gia đình có nhà vệ sinh tự
hoại năm 2008 là 23,8% đến 31/6/2009 là 24,3%, số hộ dân có các biện pháp thu gom xử
lý sơ bộ n ước thải sinh hoạt tại hộ gia đình đã tăng lên. Qua các buổi tập huấn của Trung
tâm TN&BVMT, nhận thức của người dân đã có sự thay đổi, nhiều hộ đã tự nguyện xây
mới các nhà vệ sinh tự hoại, nhà tắm, hố ga tách cặn và lưới chắn rác Do nguồn kinh phí
của nhiệm vụ có hạn nên các hộ gia đình cũng đã chủ động nâng cấp, sửa chữa hệ thống
cống rãnh thoát nước, cũng như đóng góp kinh phí xây dựng hệ thống thoát nước chung
của thôn xóm. Các hoạt động này cũng thúc đẩy người dân tham gia thảo luận, đóng góp
ý kiến, tham gia hoàn thiện phương án nâng cấp cống rãnh các ngõ xóm của mình trước
khi đấu nối vào hệ thống thoát nước chung của toàn tuyến cụm dân cư. Khi thực hiện
nhiệm vụ xây dựng mô hình, người dân tham gia việc bàn bạc lựa chọn vị trí xây dựng,
cũng như tham gia quá trình giám sát xây dựng bể.
Mẫu nước
trước và sau khi xử
lý qua bể Bastaf
Ngoài ra,
một nội dung cần
nhấn mạnh về
tuyến cụm dân cư
thôn 1, thôn 4,
thôn 5, đó là sự
nhiệt tình, tinh
thần trách nhiệm,
kinh nghiệm tổ chức các hoạt động cộng đồng và vận động, tuyên truyền giáo dục nếp
sống mới theo mô hình làng văn hóa mới của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của thôn, với sự
gắn kết chặt chẽ với UBND xã Vĩnh Sơn và các đoàn thể địa phương. Ông Nguyễn Công
Võ - Giám đốc Trung tâm TN&BVMT - Sở TN&MT Vĩnh Phúc cho biết: “Thành công
của mô hình này phần lớn dựa vào sự ủng hộ của chính quyền địa phương, cụ thể, UBND
xã đã dành quỹ đất để xây dựng bể, tuyên truyền để người dân hiểu hiệu quả của mô hình,

thành lập đội vệ sinh thu gom rác, xây dựng ban hành quy định quản lý thu gom rác ”.
Có thể nói, đây là một mô hình xử lý nước thải chi phí thấp phù hợp với điều kiện
của địa phương và có thể triển khai áp dụng nhân rộng ra toàn tỉnh Vĩnh Phúc, nhằm giảm
thiểu lượng nước thải sinh hoạt phát sinh hàng ngày ra môi trường. Khi mô hình này được
triển khai nhân rộng, chắc chắn vấn đề về ô nhiễm do nước thải sẽ không còn bức xúc như
hiện nay nữa, mặt khác sẽ nâng cao nhận thức của người dân trong cộng đồng dân cư.
3.2.3. Mô hình xử lý nước thải sinh hoạt cho khu dân cư và đô thị dọc lưu vực sông Nhuệ
- Sông Đáy
Sau 2 năm xây dựng, ngày 12/1/2011, tại UBND huyện Gia Viễn, Tổng cục Môi
trường đã tổ chức nghiệm thu công trình “Xây dựng mô hình hệ thống xử lý nước thải
sinh hoạt bằng công nghệ thấm lọc cho các khu dân cư và đô thị dọc lưu vực sông Nhuệ -
sông Đáy” cho thị trấn Me (Gia Viễn - Ninh Bình) với công suất 950 m
3
/ngày. Đây là mô
hình xử lý nước thải sinh hoạt đầu tiên tại lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy được Bộ
TN&MT xây dựng thí điểm và làm cơ sở để nhân rộng cho các lưu vực sông trên toàn
quốc.
Trước tình trạng ô nhiễm môi trường ở mức báo động tại thị trấn Me, nước thải của
dân cư cùng hơn 20 cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, một bệnh viện, các trường học và
của toàn bộ các cơ quan đóng trên địa bàn thị trấn không được xử lý thải trực tiếp xuống
các ao hồ, sông Me và chảy ra sông Đáy làm tăng ô nhiễm nguồn nước của sông Đáy. Các
giải pháp tổng thể quản lý và bảo vệ môi trường là chưa hoàn chỉnh hoặc chưa có, do vậy
các cấp quản lý từ huyện tới xã rất lúng túng trong công tác quản lý môi trường. Qua
nghiên cứu tìm hiểu về các công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt trong nước cũng như
nước ngoài, Trung tâm Tư vấn và Công nghệ Môi trường (Tổng cục Môi trường) đã đề
xuất xây dựng mô hình xử lý nước thải sinh hoạt bằng công nghệ thấm lọc, với tiêu chí
giá thành rẻ, dễ vận hành, chi phí vận hành thấp, vừa xử lý nước thải vừa khôi phục cảnh
quan lưu vực sông, kết hợp làm công viên sinh thái, đảm bảo xử lý nước thải sinh hoạt đạt
tiêu chuẩn xả thải (QCVN 14: 2008/BTNMT), dễ áp dụng trong điều kiện Việt Nam, nhất
là các khu dân cư, thị trấn, thị xã dọc lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy.

Với tổng mức đầu tư hơn 10 tỷ đồng, dự án được xây dựng trên diện tích 17.030
m
2
, phục vụ dân số 5.830 người thuộc thị trấn Me, dự án đáp ứng mục tiêu đề ra là xử lý
nước thải sinh hoạt bằng công nghệ thân thiện với môi trường, vừa khôi phục cảnh quan
môi trường. Việc lựa chọn thị trấn Me làm địa điểm thực hiện dự án vì đây là nơi có tính
đại diện, điển hình rất cao cho các khu dân cư tập trung, đặc biệt là cho lưu vực sông
Nhuệ - sông Đáy và các vùng của đồng bằng Bắc bộ.
Hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt bằng công nghệ thấm lọc bao gồm: bể lắng cát,
bể điều hòa, trạm bơm, bể lắng đứng, máng tràn bậc thang, bể thu nước, bãi lọc trồng cây,
hồ sinh học và cảnh quan cây xanh. Toàn bộ nước thải của thị trấn được đấu nối về hệ
thống để xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường. Sau 2 tháng hệ thống xử lý
nước thải sinh hoạt thị trấn Me đi vào hoạt động, hiệu quả xử lý nước thải cho thấy, trong
các bãi lọc, phân hủy sinh học đóng vai trò lớn nhất trong việc loại bỏ các chất hữu cơ
hòa tan hay dạng keo có khả năng phân hủy sinh học (BOD) có trong nước thải. Các chất
rắn lắng được loại bỏ dễ dàng nhờ cơ chế lắng trọng lực, vì hệ thống bãi lọc trồng cây có
thời gian lưu nước dài. Chất rắn không lắng được, chất keo có thể được loại bỏ thông qua
cơ chế lọc; lắng và phân huỷ sinh học Đồng thời Nitơ được loại bỏ trong các bãi lọc nhờ
3 cơ chế chủ yếu: nitrat hóa/khử nitrat; sự bay hơi của amoniăc (NH
3
); sự hấp thụ của
thực vật. Trong các bãi lọc, sự chuyển hóa của nitơ xảy ra trong các tầng ôxy hóa và khử
của đất, bề mặt tiếp xúc giữa rễ và đất, và phần ngập nước của thực vật có thân nhô lên
mặt nước. Cơ chế loại bỏ phốt pho trong bãi lọc gồm có sự hấp thụ của thực vật, các quá
trình đồng hóa của vi khuẩn, sự hấp thụ lên đất, vật liệu lọc (chủ yếu là cát, sỏi) và các
chất hữu cơ, kết tủa và lắng cùng các ion Ca
2
+, Mg
2
+,Fe

3
+ và Mn
2
+. Bên cạnh đó, khi các
kim loại nặng hòa tan trong nước thải chảy qua bãi lọc trồng cây cũng được loại bỏ. Qua
kết quả phân tích của Viện Khoa học kỹ thuật quân sự, hiệu quả xử lý qua các bể lắng, hai
bãi lọc trồng cây, hai hồ sinh học và qua bãi lọc trồng cây bậc 3 có thể thấy, chất lượng
nước đầu ra rất tốt, các chỉ tiêu phân tích đều đạt QCVN14-2008 loại B.
Hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt bằng công nghệ thấm lọc tại thị trấn Me (Gia
Viễn - Ninh Bình)
Có thể nói, bãi lọc trồng cây như một giải pháp công nghệ xử lý nước thải trong
điều kiện tự nhiên, thân thiện với môi trường, đạt hiệu suất cao, chi phí thấp và ổn định,
đồng thời góp phần làm tăng giá trị đa dạng sinh học, cải tạo cảnh quan môi trường của
địa phương. Sinh khối thực vật, bùn phân hủy, nước thải sau xử lý từ bãi lọc trồng cây còn
có giá trị kinh tế cao.
Phát biểu Lễ bàn giao công trình, ông Chu Thanh Hà - PGĐ Sở TN&MT Ninh
Bình cho biết: “Đây là một công trình trọng điểm, rất có giá trị mà Bộ TN&MT đầu tư tại

×