Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Lịch sử mỹ thuật thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.98 KB, 21 trang )

LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH THẾ GIỚI.
Tìm hiểu lòch sử nghệ thuật là việc làm tất yếu của mỗi người làm nghệ
thuật. Nó giúp họ hiểu được bản chất của nghệ thuật, biết được vò trí của
nền nghệ thuật đương thời, thông qua dòng chảy của nó. Từ đó, rút ra được
những bài học cho mình, đònh hướng cho sáng tác. Nhưng đây là công việc
đòi hỏi có nhiều kiến thức, óc suy luận, khả năng vận dụng lý luận vào thực
tiễn… Với khả năng hạn chế của mình, tôi chỉ muốn điểm lại những biến
động thông qua những giai đoạn lớn của mỹ thuật thế giới, nhằm ôn lại và tự
kiểm tra kiến thức, giúp mình phần nào nhìn lại những sáng tác, giảng dạy
của mình, đònh hướng cho công việc tới.
Do đặc điểm đòa lý, và có thể có những lý do không rõ khác, văn hóa
thế giới chia làm 2 khu vực khá rõ rệt. Văn hóa phương Đông và phương
Tây phát triển theo những con đường khác nhau, trên những thế giới quan
khác nhau. Và vì vậy, nền nghệ thuật thế giới chia làm 2: nghệ thuật phương
Đông và nghệ thuật phương Tây. Có rất nhiều quan điểm về việc chia khu
vực Đông – Tây, nhưng theo tôi, nếu căn cứ vào sự phát triển có tính kế
thừa, chung nhau những cội nguồn văn hóa, “đòa giới” của văn hóa phương
Tây gồm những nước châu u, Tây Á, Bắc Phi. Nền văn hóa phương Đông
gồm những nước từ n Độ và các nước lân cận đổ về phía Đông đến Nhật
Bản, các nước Đông Nam Á. Sự hình thành của chúng dường như xuất phát
từ 2 trung tâm: Phương Tây lấy Bắc Phi làm gốc, phương Đông dường như
có cội nguồn quanh dẫy Himalaya. Tất nhiên, sử liệu thiếu thốn, đến nay
chúng ta khó khẳng đònh được điều gì, chỉ dựa vào biểu hiện bên ngoài để
ức đoán.
Tuy vậy, trong bài này, tôi xin mạnh dạn chia làm 2 mảng để trình bày:
Phần 1: Nghệ thuật phương Tây từ thời nguyên thủy đến nay (chủ yếu
nhấn mạnh những nền văn minh phát triển rực rỡ nhất và thời cận, hiện
đại).
Phần 2: Nghệ thuật phương Đông (chủ yếu là những nền văn minh lớn
như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản; do sử liệu về nền văn minh nguyên thủy
của cả khu vực này còn khá mù mờ, khó làm rõ mối liên hệ của chúng).


1
Phần I
NGHỆ THUẬT PHƯƠNG TÂY
Trong chương này tôi xin trình bày theo 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1 từ thời đồ đá đến khởi đầu thời đại đồ sắt;
Giai đoạn 2 thời cổ đại với những nền văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy
-La;
Giai đoạn 3 thời trung cổ.
Giai đoạn 4: từ thời Phục hưng đến hiện đại.
Giai đoạn I:
Theo các nhà cổ sinh học, những hóa thạch về con người đầu tiên trên
thế giới được tìm thấy ở châu Phi và quanh dẫy Himalaya. Từ đó có thể nói
đó là hai cái nôi của con người được chăng?
Ngay từ trung kỳ đồ đá, chúng ta đã thấy con người biết trang trí cho
những đồ dùng bằng đá của mình; đến hậu kỳ đồ đá, những hình vẽ trên
công cụ đá, sừng hoặc gỗ tìm thấy nhiều hơn. Những hình vẽ trên hang
động đã được tìm thấy cũng vào thời kỳ này. Chúng có vẻ xuất phát từ nhu
cầu ma thuật hơn là từ nhu cầu làm đẹp. Do nhu cầu săn bắn (kiểu lao động
đầu tiên của con người), các hình vẽ này thường miêu tả thú vật, bắt đầu từ
cách vẽ đường chu vi, dần đến tô kín hình và đề tài được mô tả rõ dần trong
hậu kỳ đồ đá. Con người cũng là 1 đề tài nhưng còn khá mờ nhạt.
Đến thời đồ đá mới, sức sản xuất tăng rõ rệt do phương thức trồng trọt
chăn nuôi xuất hiện, chế độ phụ hệ dần thay thế chế độ mẫu hệ. Các tác
phẩm tạo hình nhỏ, đồ gốm được tìm thấy nhiều hơn. Những hoa văn trang
trí đẹp trên đồ dùng hàng ngày của thời này cho thấy nhu cầu làm đẹp xuất
hiện cùng với nhu cầu tế lễ, ma thuật.
Thời đại đồ đồng ra đời cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ. Đồng và
đồng thau (tức là có kỹ thuật luyện kim) trở thành một chất liệu mới cho vũ
khí, đồ trang sức và đồ dùng. Nhiều họa tiết trang trí trên đồ dùng hàng
ngày, vũ khí có trình độ cao hơn. Xuất hiện đề tài cảnh vật, chứng tỏ trình

độ tư duy, khái quát của con người cao hơn. Những công trình kiến trúc tôn
giáo xuất hiện với qui mô và sự hoàn thiện dần được nâng cao.
Chế độ nô lệ gia trưởng, phân chia giai cấp xuất hiện, trong thời kỳ
này, đồ sắt ra đời. Những cảnh sinh hoạt, chiến trận trên những họa tiết
trang trí góp phần làm chúng ta hiểu được phần nào đời sống con người ở
thời kỳ này.
2
Giai đoạn II:
NỀN VĂN MINH AI CẬP:
Trên đồng bằng sông Nin, khoảng 4000 năm trước công nguyên xuất
hiện một nền văn minh cổâ xưa, vó đại nhất trong lòch sử nhân loại.
Chăn nuôi, săn bắt, đánh cá và trồng trọt là những phương thức lao
động chính trong thời kỳ này. Chế độ nô lệ đã phát triển ở mức độ cao, tạo
nên nguồn nhân công dồi dào, nguồn của cải tập trung, cùng sự phong phú
về vật liệu giúp Ai Cập có được những công trình kiến trúc vào loại vó đại
nhất thế giới cho đến nay. Chế độ chính trò này tồn tại khá lâu chứng tỏ sự
phù hợp của nó đối với trình độ kinh tế, sức sản xuất của thời bấy giờ. Sự
tồn tại lâu dài đó tạo nên một hệ thống tín ngưỡng phát triển một cách chặt
chẽ và tạo nên sự chuẩn hóa các hình tượng nghệ thuật. Với quan niệm
“sống gửi thác về”, người Ai Cập dồn công sức cho những đền đài, lăng mộ
nhiều hơn những công trình sinh hoạt. Vì vậy, nghệ thuật Ai cập có những
nét rất riêng, độc đáo. nh hưởng của nó khá lớn đối với các nền văn minh
khác ra đời muộn hơn.
Đầu thời đồ đồng, Ai Cập chưa thống nhất. Vẫn tồn tại đồ đá mài, bắt
đầu có những hình vẽ trên đồ gốm, đất sét miêu tả cảnh tang lễ, cảnh cúng
lễ và thuyền trên sông Nin. Dần dà, xuất hiện những vò vua (Pharaông) đầu
tiên, dần thống nhất các khu vực riêng thành những quốc gia. Các hình vẽ
trên đá chứng tỏ điều đó. Nó dùng cách diễn tả vua lớn hơn cận thần, cận
thần lớn hơn quân lính… để phân biệt tầm quan trọng của các nhân vật. Hình
người với mặt và chân nghiêng, ngực bụng chính diện, các hình vẽ mang

tính biểu tượng…Những đặc điểm tạo hình này tồn tại suốt trong nền nghệ
thuật Ai Cập.
Khoảng 3.200 đến 2.400 năm trước công nguyên, Ai Cập vào thời
vương quốc cổ đại. Đây là thời kỳ phát triển của chế độ nô lệ, Ai Cập dần
thống nhất thành một quốc gia thống nhất. Khoa học và văn hóa nghệ thuật
được nâng lên trình độ rất cao. Có những thành tựu mà đến nay vẫn vượt
sức của con người hiện đại. Thành tựu đó phần lớn dồn vào việc xây dựng
trang trí những kim tự tháp mà cho đến nay, người ta vẫn ngờ rằng chức
năng của nó còn nằm ngoài là những lăng mộ của các Pharaông. Hàng
triệu phiến 2 đến 3 tấn được chuyển đến từ rất xa, đưa lên những tầm cao
với sự chính xác không tưởng nổi (cạnh đáy dài hơn 200m mà sai số chỉ 20
cm). Sự song song gần như tuyệt đối giữa những kim tự tháp cách rất xa
nhau, những lỗ rất nhỏ đi qua bao phiến đá xếp, đến nay vẫn dẫn ánh sáng
từ một ngôi sao nhất đònh tới phòng đặt quan tài vào đúng ngày giờ đònh
sẵn… chứng tỏ trình độ toán học, thiên văn học, khả năng điều hành một
3
lượng người lao động khổng lồ, kỹ năng xây dựng tuyệt vời của người ngày
xưa, khi mà công việc và dụng cụ của họ hoàn toàn thủ công.
Với một thời gian lâu dài tồn tại một cách khá ổn đònh, quyền lực của
tôn giáo, của các chủ nô (Pharaông) trở nên gần như tuyệt đối, các phong
tục, tập quán gần như không đổi tạo nên những quy đònh nghiêm nhặt cho
đời sống và nghệ thuật, sự hiện thực của các tác phẩm tạo hình không được
chú trọng bằng ý nghóa tượng trưng của nó. Vì vậy, tính ước lệ của các tác
phẩm tạo hình rất cao và đôi khi, nó trở nên thành những tín hiệu hầu như là
những chữ cái vậy. (Điều này ta cũng bắt gặp ở văn minh Ấn Độ cổ đại).
Nhưng chúng được rèn giũa qua năm tháng, trở nên tinh tế dần và trở
thành những kiệt tác, sinh động, phong phú, tránh được sự khô khan, sơ sài
dễ gặp ở phong cách này. Những bức bích họa, những tác phẩm điêu khắc
chủ yếu ca ngợi công đức, chiến tích của các Pharaông. Nhưng thông qua
đó, chúng ta cũng tìm hiểu được những sinh hoạt của người cổ đại Ai Cập.

Nó như những bài ca về chiến đấu, lao động, những buổi hành lễ, các tập
tục… của nền văn minh sông Nin.
Nghệ thuật tạo hình của Ai Cập thường dùng để hỗ trợ cho những kiến
trúc lăng mộ đền đài. Chúng được sáng tạo đểâ ca ngợi sự vónh hằng, tôn
vinh uy quyền tuyệt đối của thánh thần, vua chúa. Chúng thường được diễn
tả bằng thủ pháp trang trí với những công thức nhất đònh: vua chúa, thần
thánh có những tư thế không đổi, với tỷ lệ lớn, sau đó là những nhân vật
khác có động tác phong phú hơn. Những cây cối thú vật được thể hiện khá
sinh động. Hình người thường ở tư thế chính diện nhưng mặt và bàn chân
quay nghiêng, tạo cảm giác động trong cái tónh. Màu sắc ở những bích họa
thường tiết chế, nhưng hài hòa và bền chắc do kỹ thuật dùng màu thiên
nhiên là chủ yếu, ít oxy hóa. Sự cô đọng tiết chế, phù hợp với kiến trúc lăng
tẩm nhưng do khả năng nắm bắt tinh tế, sự khái quát hóa cao làm các tác
phẩm Ai Cập vẫn sinh động. Điều làm chúng ta kính phục là sự kết hợp giữa
những tính chất đối nghòch: sự tồn tại vónh hằng của các quy chuẩn với hiện
thực sinh động, lộng lẫy với tiết chế, hoành tráng mà tinh vi, cô đọng mà
vẫn sinh động, hợp lý mà không khô khan… điều đó có thể nhận thấy qua
những kiệt tác: Tượng Nhân sư, Pharaông Mentukhôtép, Nữ hoàng
Clêopatre, những đầu cột đền đài, tượng người thư lại, những bức chạm nổi,
bích họa trang trí khắp các cung điện, đền đài…
Có lẽ, xét về mặt khối lượng, văn minh cổ đại Ai Cập để lại cho đời sau
một nền văn hóa khổng lồ, thống nhất mà cho đến nay, chưa nền văn minh
nào đạt tới.
4
NỀN VĂN MINH LƯỢNG HÀ
Nếu sông Nin đóng vai trò là con sông thần thánh của văn minh Ai Cập
thì châu thổ sông Tygrơ và Ơfrát cũng là nguồn nuôi dưỡng một nền văn
minh khác: Văn minh Lưỡng Hà. Nó là cội nguồn cho những nền văn minh
Tây Á sau này.
Được bắt đầu từ văn hóa Sumerơ, trải qua nền văn hóa tcát tới

Babilon, siri văn minh Lưỡng Hà tách dần khỏi ảnh hưởng của văn minh Ai
cập, và trở thành một nền văn minh độc lập.
Điểm độc đáo của nền văn minh này là tính hiện thực của nó. Bắt đầu
bằng những công thức khô khan, dần dần thiên nhiên, con người thực trở
nên là đối tượng ca ngợi của nó. Phối cảnh bắt đầu được áp dụng để tạo ra
bối cảnh sinh động, thực hơn. Chân dung – ngay cả của các vò vua cũng
dần trở nên “ giống thực” hơn. Nếu ai đó sùng bái nghệ thuật Ai Cập sẽ cảm
thấy hình tượng trang trí của nền văn minh này rườm rà hơn, nhưng tính sinh
động phong phú của nó thì không thể chối cãi. Nếu sự tuyệt đối hóa, thần
thánh hóa, sự ca tụng đời sống vónh hằng chế ngựï nghệ thuật Ai Cập thì ở
văn minh Lưỡng Hà đời sống trần thế, tính con người được đề cao hơn.
Cũng với thủ pháp trang trí, văn minh Lưỡng Hà (mà đỉnh điểm là thời
Babilon) phong phú, rực rỡ hơn. Thủ pháp đăng đối cũng được dùng nhiều
có lễ để nhân thêm lượng họa tiết có sẵn, nó thường được áp dụng trong kỹ
thuật in ống cùng với kỹ thuật hình nổi.
Di vật còn lại không nhiều, có thể do khí hậu và sự sa mạc hóa của
vùng đất này.
5
VĂN MINH HI LẠP – LA MÃ
Vùng lục đòa quanh biển Đòa Trung Hải sản sinh một nền văn hóa cực
kỳ vó đại mà ảnh hưởng của nó với nghệ thuật châu u và thế giới sau này
vô cùng lớn lao.Văn minh Ai cập làm chúng ta khâm phục vì sự hoàn thiện
kỳ vó, nhưng khó làm chúng ta cảm thông vì tính tuyệt đối hóa đến mức thần
thánh của nó. Trong khi đó văn hóa Hi Lạp - La Mã này mang lại nguồn cảm
hứng sống sự linh động, tính nhân bản của nó.
Đặc điểm lớn của nền văn minh này là thể chế cộng hòa, dựa trên chế
độ dân chủ chủ nô của hai quốc gia HI Lạp và La Mã. Hai nền văn minh này
thường được gộp chung do chúng có nhiều điểm tương đồng về phong cách
và đòa lý. Thực ra, văn minh Hi Lạp ra đời sớm hơn, phát triển mạnh mẽ, là
nguồn cảm hứng, là phong cách chung cho cả 2 nền văn minh này. Một

điểm đáng chú ý là người La Mã tuy khuất phục được người Hi Lạp trên
phương diện hành chính, chính trò, nhưng lại chòu khuất phục người Hi Lạp
về văn hóa. Với đế chế vó đại mà họ chinh phục được, người La Mã lại có
công truyền bá nền văn minh này đến một vùng lãnh thổ rất rộng lớn. nh
hưởng của nó còn tồn tại theo thời gian tới thời cận đại (thế kỷ 16)
Với nền dân chủ chủ nô phát triển mạnh mẽ, Hi Lạp đã phát triển một
nền nghệ thuật giàu tính nhân văn, với sự tự tin vào sức mạnh con người.
Ngay cả những biểu hiện tôn giáo của họ cũng đầy chất “ dân chủ”: các vò
thần mang rất nhiều tính cách “người”, họ cũng yêu ghét, sai lầm, sự vó đại
đi cùng sự tầm thường, và thậm chí nhiều khi họ cũng thua con người, nhất
là khi họ phải đối mặt với những vấn đề tình cảm. Trong thần thoại của họ
xuất hiện khá nhiều Á thần: Hecquin, Pecxe, Asin… như là sự hòa trộn
những phẩm chất “ người” với thần linh. Trong sự tự hào với giá trò của mình
như thế, các tác phẩm của Hi lạp thường miêu tả vẻ đẹp của con người với
cơ thể cường tráng, khả ái trong sức sống cuồn cuộn. Tất nhiên sự trang
nghiêm trong những công trình tôn giáo không thể thiếu, nhưng cuộc sống
với nét hồn nhiên của nó cũng được tôn vinh. Thần rượu nho (thần
Bacquýt), thần mục đồng (Poăng), thần mùa Xuân, các vò thần nghệ thuật…
được ca ngợi như những thần mang lại niềm vui sống cho con người. Các
đền đài được dựng lên như sự biết ơn sự bảo hộ của các thần cho cuộc
sống hơn là những đài tưởng niệm, những sự chuẩn bò cho cuộc sống vónh
hằng như ta gặp ở văn hóa Ai Cập. Vì vậy nó mang nhiều vẻ thanh nhã hơn
là trang nghiêm, vững chãi.
Từ nền văn hóa sớm nhất (văn hóa giê), ảnh hưởng phần nào của
nền văn minh Ai Cập, tính hiện thực bắt đầu tràn dần vào tác phẩm tạo
hình, thay thế cho những đònh chế nghiêm nhặt qua các thời kì Hôme, cổ
đại, cổ điển và Hêlinít. Cùng với các thời kỳ đó, những cuộc chiến tranh
6
thắng lợi càng hình thành và củng củng cố vững chắc chế độ chiếm hữu nô
lệ theo khuynh hướng dân chủ chủ nô. Các thành bang thành lập độc lập,

tạo cho sự phát triển thương mại, cùng với nó là sự giao lưu nghệ thuật.
Những phát hiện khoa học, cùng với sự ra đời của các trường phái triết học
tạo nên sự nghiên cứu một cách chủ động, sâu sắc thiên nhiên, con người.
Có thể thấy sự cân đối về tỷ lệ, hợp lý về động tác, sự duyên dáng, sức
sống của các tượng trong thời này là bằng chứng cho sự hiểu biết sâu sắc
thiên nhiên, sự tự hào làm Người của những con người thời kỳ này. Bên
cạnh những tác phẩm ca ngợi thần linh, vua chúa, ta thấy nhiều tượng tròn
và phù điêu ca ngợi vẻ đẹp hình thể , sức sống, tài năng của con người.
Tượng người ném đóa, phóng lao, người đưa thư… là những ví dụ. Các vò thần
cũng được “ người hóa”, nếu không nói ra chúng ta không thể phân biệt
tượng thần Venus (Milo)với một người đàn bà đẹp; bỏ đôi cánh đi, tượng
thần chiến thắng nào khác một người đẹp vươn người khỏi mặt nước, thần
Hécmét là một thanh niên duyên dáng với đôi giày có cánh…
Bên cạnh những đền đài, điện thờ như đền Pacthenon, Olempiơ, đền
thờ Athena… chúng ta bắt gặp khá nhiều công trình kiến trúc cộng đồng:
những nhà tắm công cộng, quảng trường, nhà hát ngoài trời, sân đấu, nơi
dân chúng họp mặt, bàn bạc, giải trí.
Các nghệ sỹ cũng trở nên độc lập hơn khi họ tách mình ra khỏi những
người thợ thủ công. Tự hào với vai trò của mình, chữ ký của người sáng tác
trong nhiều tác phẩm còn thấy rõ. Vì vậy ngày nay, tên tuổi của những nghệ
sỹ như: Clichi, rotim, Amadix, Exeki…(gốm); Phidi, Itcơtin, Calicrat,
Mnhexiclơ, Milet,… (kiến trúc), Crity, Nhexiot, Piphagor, Miron, Crexisley,
Policlet, Nhikhi, Pracxiten, Xcôpacxơ, Lixipơ,… (tranh tượng) còn lại với
chúng ta ngày nay.
Trên kia ta có nói nghệ thuật Hi Lạp và La Mã có những nét tương
đồng, nhưng nếu phân tích kỹ ra chúng ta thấy nghệ thuật Hi Lạp mang
nhiều tính chất “dân chủ” hơn, “nhân bản” hơn. Con người với cuộc sống của
hó hiện diện nhiều hơn trong các tác phẩm của nền văn minh này. Chính nó
là cội nguồn, là xương sống cho nền văn minh chung. Người La Mã sau khi
thôn tính đất đai của người Hi Lạp, đã thừa hưởng thành tựu của nền văn

minh này, họ bò nền văn minh này “ thuần phục”. Cùng với việc bành trướng
thành một đế quốc rộng lớn vào thời Alexandre đại đế, La Mã đã đem vẻ
đẹp của văn minh Hi Lạp tới khắp đế chế của mình. Tuy vậy, với bản chất
hiếu chiến, nghệ thuật của họ dần trở nên khô khan, mang nhiều vẻ sùng
bái cá nhân hơn. Ca ngợi uy quyền của các lãnh tụ, phục vụ cho uy thế của
nhà nước La Mã dần làm mất đi tính hiện thực, sức sống của nghệ thuật.
(tất nhiên không thể nói những tác phẩm mang tính hiện thực cao như
Valentinhan nằm trong số đó)
7
Giai đoạn 3:
NGHỆ THUẬT THỜI TRUNG CỔ
Đây là thời kỳ ra đời phát triển và diệt vong của chủ nghóa Phong kiến,
trùng với sự ra đời của Kitô giáo.
Nổi bật lên là nền nghệ thuật Bidanxơ. Sau đế quốc La Mã, thống trò
một vùng rộng lớn của châu u, một số nước ở Tiểu Á, Bắc Phi là đế quốc
Bidăngtanh mà trung tâm là Côngxtăngtinôpôn. nh hưởng của nó bao trùm
một số nước Nam u, tiểu Á, đến tận nước Nga và Ucrain cổ. Đây là thời kỳ
chiến tranh liên miên. Chế độ phong kiến cát cứ dần biến mất, nhường chỗ
cho chính quyền phong kiến tập trung. Vai trò của nhà thờ dần được khẳng
đònh, đôi khi chiếm đòa vò độc tôn. Nếu trước đây vào thời kỳ La Mã suy tàn,
Kitô giáo đóng vai trò an ủi nhân dân, đoàn kết họ lại bằng tình thương thì
bây giờ nó lại cùng với giai cấp phong kiến thống trò nhân dân.
Vì vậy, kiến trúc thời này chủ yếu là kiến trúc quân sự và kiến trúc nhà
thờ. Qua chến tranh, loại công trình quân sự không còn được nhiều, chỉ còn
tồn tại những tầng hầm. Trong khi đó, nhà thờ tồn tại đến ngày nay thể hiện
từng bước phát triển của nó. Từ sơ sài, dần dần nhà thờ được xây dựng và
trang hoàng lộng lẫy, vó đại như nhà thờ Thánh Xôphia ở Công xtantinôpôn,
Aticơ Đgiami, Calenđarơ Đgiami… Hình thành kiểu nhà thờ mái “củ hành”, 4
tháp trấn 4 góc quanh một gian trung tâm tròn.
Nghệ thuật tạo hình khá cầu kì, ảnh hưởng nền văn hóa Lưỡng Hà. Nổi

lên kiểu trang trí bằng Mozaich (ghép đá, sứ) lộng lẫy, tinh vi.
Hình thành lối tranh vẽ Icôn, phát triển từ lối vẽ Chúa, các thánh trong
các hầm mộ thời La Mã, do các nghệ nhân thể hiện. Do đó tính chuyên
nghiệp không cao và đề cao sự khắc khổ, tuẫn đạo trong thời kỳ Kitô giáo
còn hoạt động bí mật, bò săn đuổi, những tranh này thường không tuân thủ
tỷ lệ thật, thiếu tính hiện thực. Tuy vậy, dần dần khi thế lực đạo Thiên Chúa
nắm vò trí thống trò, các thế lực nhà thờ lại càng củng cố lối vẽ này nhằm đề
cao tính thần thánh của các nhân vật và trở thành 1 phong cách vẽ ước lệ.
Các nghệ sỹ thời kì này đã nâng cao tính khái quát, siêu thực của nó, và
dần trở nên 1 phong cách hoàn chỉnh, trang trọng và gây ấn tượng. Những
thân người kéo dài, những vạt áo song song, mắt to nhìn đăm đăm vào
người xem như đòi hỏi 1 điều gì đó, cùng với những mảng màu vàng kim
trang trí cho hào quang trên nền màu ấm sậm, cá họa tiết trang trí nặng nề,
…tất cả tạo cho ta cảm giác bò trấn áp trong 1 không khí siêu nhiên, sùng
kính.
Nói chung nghệ thuật Bidăngxơ mang màu sắc “kể chuyện” tôn giáo,
tước bỏ cái xung quanh để nhấn mạnh vai trò cái chính, sự trang hoàng lộng
lẫy, có tính áp đặt lên người xem vẻ kỳ dò, vó đại.
8
Trong khi đó, ở một số nước Tây u hình thành những phong cách
nghệ thuật khác. Các quốc gia ở đây thường không thống nhất thành lãnh
thổ rộng lớn, chiến tranh liên miên, với áp lực lớn lao của tôn giáo, vì vậy,
kiến trúc nhà thờ vẫn chiếm đòa vò chủ yếu. Phong cách của những nhà thờ
này (nhất là trong giai đoạn đầu) thường nặng nề như những pháo đài. Nghệ
thuật được hình thành từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu xuất phát từ văn hóa
bản đòa. Dần dần, hình thành phong cách kiến trúc Rômăng, với những vòm
của tròn, cửa sổ hẹp như những lỗ châu mai, mặt bằng phát triển theo chiều
rộng… Phong cách này trông khá nặng nề, nhưng thân thuộc với con người.
Sau đó, nghệ thuật Gôtích ra đời với những nhà thờ vút lên cao như khẳng
đònh vò trí của nó trong đời sống xã hội. Những hình mũi tên chóa lên tua tủa,

tạo cảm giác sắc lạnh. Nhưng chúng được làm dòu lại với phần trang trí rất
công phu, tỷ mỷ, với hệ thống tượng tròn rất phong phú; những contrefort
giằng tường, nối các phần công trình tạo cảm giác vững chãi kéo lại sự
chênh vênh do chiều cao mang lại.
Tuy vậy, kiến trúc Gôtích vẫn làm con người có cảm giác bò nhỏ bé với
cái siêu nhiên, tạo sự thuần phục với thần quyền.
Tóm lại, nghệ thật thời trung cổ đề cao vò trí của giai cấp thống trò cùng
với vai trò của đạo Thiên Chúa trong đời sống. Nền quân chủ phong kiến,
uy thế nhà thờ càng phát triển, nghệ thuật càng trở nên công cụ phục vụ
đắc lực cho chúng. Những công thức được áp đặt làm cho nghệ thuật dần
trở nên khô cứng, xa rời thực tế, dần mất tính người. Nhưng với vai trò phục
vụ cho giai cầp lãnh đạo, nghệ thuật trung cổ cũng góp một tiếng nói nào đó
về phong cách, kó thuật thể hiện trong dòng nghệ thuật chung của nhân loại.
Chủ nghóa phong kiến ngày càng trở nên suy thoái phản động, đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự khẳng đònh vai trò của thương mại…,
kinh tế tư bản chủ nghóa dần lớn mạnh, yêu cầu giải phóng cho con người
về đòa vò xã hội, về tư tưởng dần trở nên bức thiết. Sự đè nén của giai cấp
phong kiến, chức sắc giáo hội càng làm sâu sắc hơn mâu thuẫn giữa cái
mới và cái cũ, làm nảy sinh nhiều cuộc đấu tranh về chính trò, tư tưởng, báo
hiệu một giai đoạn mới trong lòch sử thế giới: sự ra đời của chủ nghóa Tư
bản.
9
Giai đoạn 4:
Đây là giai đoạn phát triển phức tạp, nhanh chóng nhất trong xã hội
loài người từ trước đến nay. Chúng bắt đầu từ việc tập trung tư bản, tiến tới
hình thành nền đại công nghiệp, thúc đẩy sức sản xuất, phát triển khoa học
hiện đại, ra đời chủ nghóa tư bản, đồng thời hình thành mâu thuẫn nội tại của
chính chế độ chính trò này. Chủ nghóa xã hội khoa học ra đời với sứ mệnh
giải quyết mâu thuẫn đó, thúc đẩy xã hội loài người tiến bộ trong sự chống
đối mạnh mẽ của chủ nghóa tư bản vẫn đang trong thời kỳ sung sức. Nghệ

thuật cũng bò xáo trộn ngày càng nhanh cùng với sự phát triển xã hội.
Bước đột phá là thời kỳ “Phục hưng”
THỜI PHỤC HƯNG
Sự phát triển về kinh tế, sức sản xuất, khoa học và ý thức xã hội là cơ
sở cho chủ nghóa tư bản ra đời. Với yêu cầu về lao động tập trung, có tay
nghề, sự giải phóng con người ra khỏi lề thói, sự áp bức của chủ nghóa
phong kiến là tất yếu. Những thành quả về khoa học kỹ thuật, những khám
phá mới về vũ trụ, thiên nhiên, đòa lí… làm con người tự tin hơn với tri thức và
sức mạnh của mình, dần thoát khỏi sự áp đặt tư tưởng của phong kiến, thần
quyền trong “đêm dài trung cổ”.
Trong giai đoạn đầu, tuy chưa làm thành cuộc cách mạng tư sản,
nhưng ý thức đó đã nhen nhóm với ý thức đòi tự do tư tûng, tự do cá nhân,
tự do sống, tự hào với vai trò làm Người,… với hình thức quay về với những
giá trò dân chủ từng có trong thời cổ đại, phủ nhận sự hà khắc của chế độ
phong kiến, thần quyền. Chủ nghóa Nhân văn xuất hiện. Đây là bước ngoặt
tiến bộ lớn lao nhất trong lòch sử loài người. Nền nghệ thuật Phục hưng ra
đời, phát triểntrên cơ sở đó.
Nghệ thuật phục hưng chủ yếu bắt nguồn từ Italia. Do sự suy yếu của
chế độ phong kiến trước sự hình thành sớm yếu tố tư bản chủ nghóa ở đây,
cộng với những lợi thế về yếu tố đòa lý, thuận lợi cho việc bang giao làm
công thương nghiệp phát triển.
Nhitcôlô Pidanô, Đgiôvanni .P, Cavalini,… và điển hình là Đgiốtto là
những người khai phá nền nghệ thuật Phục hưng. Tuy còn phần nào mang
tính kòch, sự diễn đạt còn tiếp nối nghệ thuật thời trung cổ nhưng tính
“Người”, khung cảnh thiên nhiên đã bắt đầu xuất hiện và được khẳng đònh,
làm nên tính hiện thực trong tác phẩm. Cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15,
Đônatelô, Môdát trô, Bốttixenli, …đã tạo nên những yếu tố căn bản của nghệ
thuật Phục hưng: dứt khoát từ bỏ sự rườm rà, những yếu tố quy ước để quay
về với hiện thực, với tính con người. Những hình tượng khỏa thân xuất hiện,
vẻ thơ mộng, kiều diễm, cá tính của con người được tô đậm. Những yếu tố

đó được những nghệ sỹ của cuối thế kỷ 15, thế kỷ 16 phát triển một cách
10
rực rỡ với những tên tuổi vó đại: Lêônacđô đơ Vinxi, Mikenlănggiơ, Raphaen,
Đgiócgiôn, Tixiêng…
Trong khi đó ảnh hưởng của nghệ thuật Phục hưng cũng lan rộng sang
các nước châu u khác. El Grếccô ở Tây Ban Nha, anh em Van ch,
Vâen, Bruêghen… ở Hà Lan, Điurê ở Đức, Phucơ, Chiê ở Pháp là những
đại diện tiêu biểu.
Những hiểu biết phối cảnh, giải phẫu, về sáng tối, màu sắc dần được
khám phá và nâng lên thành những đònh luật. Sơn dầu được tìm ra làm hình
thành loại tranh treo, thích hợp với tranh trong nhà, linh động hơn trong việc
miêu tả chất liệu và không khí thực, dần thay thế cho nê họa chỉ thích hợp
với tranh tường bò “đóng đinh” trong nhà thờ. Việc rất nhiều nghệ só đồng
thời cũng là các nhà khoa học càng làm phong phú, sâu sắc trong việc
khám phá các quy tắc, đònh hình những chuẩn mực nghệ thuật… Có lẽ trong
lòch sử nghệ thuật loài người, không có thời kì nào nghệ thuật lại phát triển
với tốc độ nhanh chóng, rộng rãi như vậy. Đó chính là điều kiện cho các
nghệ sỹ thể hiện tính hiện thực, vẻ đẹp của thiên nhiên, sự tế nhò trong tình
cảm con người, tình yêu cuộc sống, sự khát khao vươn lên sự hoàn thiện…
và là điều kiện tạo nên phong cách rất riêng biệt, đặc trưng, đầy cá tính của
từng nghệ sỹ. Tất cả những điều đó làm cho nền nghệ thuật Phục hưng
phát triển rực rỡ chưa từng có. Trần nhà thờ Xitxtin, tượng Đavít … của
Mikenlănggienlô, Bữa tiệc ly, chân dung Mônalisa, Mônna,… của
Lêônacđô, Mônna (nhà thờ Xittin),… của Raphaen, Vệ nữ ngủ của
Đgiocgiôn, những chân dung trong tranh của Tixiêng, sự kì bí dữ dội của
tranh El Grếcco, sự tinh tế về phối cảnh trong phù điêu của Đuarê…, ….
không thể kể hết những kiệt tác của thời kỳ này.
Các nghệ sỹ thế kỷ 17 vẫn tiếp nối những thành quả sáng tạo của các
nghệ sỹ thời Phục hưng. Trường phái Barốccô ra đời mang vẻ trưởng giả
bằng cách nhấn mạnh các yếu tố trang trí, những đường lïn biểu cảm, hoa

mỹ. Nếu nghệ thuật Phục hưng phát hiện và nhấn mạnh tới chiều sâu trong
phối cảnh, tạo cảm giác “có trọng lượng”, thì nghệ thuật Barốc lại nhấn
mạnh đến sự chuyển động theo mặt phẳng tranh, tạo nên sự sinh động cho
tác phẩm. Phong trào vẽ tranh phổ cập rộng rãi hơn với chất liệu sơn dầu,
những tác phẩm trên giá có thể đến tay người người thích hội họa, thậm chí
ở Hà Lan còn có chợ tranh, số lượng tranh chân dung nhiều hơn. Nhiều họa
só được trọng dụng, trở thành họa só cung đình. Rubenx, Phơrăng Hanx,
Rambrăng, Vêlaxkê… là những tên tuổi lớn. Nghệ thuật phóng khoáng,
mang nhiều niềm cảm hứng với cuộc sống, tâm trạng, phong cách của từng
nghệ sỹ được thể hiện rõ ràng hơn.
Cuối thế kỷ 17, chủ nghóa cổ điển, mang nhiều tính triết lý, lý tưởng
chiếm lónh dần môi trường nghệ thuật. Chúng là sự ca ngợi cái thuần khiết,
11
cao q, vẻ đẹp lý tưởng. Đề tài thần thoại, trích trong kinh thánh để ca ngợi
sự anh hùng, lòng dũng cảm. Pútxanh là một đại diện lớn. Nghệ thuật mang
tính hàn lâm ra đời. Nhưng cùng với sự phủ nhận hiện thực, quay về với
những đề tài cổ điển với phong cách đònh sẵn, nó cũng mang lại sự khô
cứng trong nghệ thuật
Sang thế kỷ 18, trung tâm văn hóa nghệ thuật chuyển về Pháp, cụ thể
là Paris. Chế độ chuyên chế phong kiến dần tan rã là điều kiện chín mùi cho
cách mạng tư sản đang tới gần.
Hội họa đã dần tới những ngôi nhà của các tầng lớp khác giai cấp quý
tộc. Oáttô, Sácđanh, Guông, Tiepôlô, Hônbein, Hoga, và rất nhiều họa sỹ
tên tuổi khác đang tìm tòi hướng đi mới cho nghệ thuật.
Thế kỷ 19 là giai đoạn phát triển cao của chủ nghóa tư bản, nhưng nó
mang đầy mâu thuẫn nội sinh. Sự áp bức của tư sản làm phong trào đấu
tranh của những người vô sản dâng cao. Vẫn có những họa sỹ làm rạng rỡ
phong cách cổ điển như Đavis, Giera, Grô… nhưng cũng có những họa sỹ
khác tìm kiếm sự lãng mạn như sự phủ đònh tính duy lý, nâng cảm xúc tình
cảm lên một tầm cao mới như Giericô, Sacxericô, Ingrơ…; trong khi đó ở Tây

Ban Nha, Gôia lại tìm kiếm chất liệu sáng tạo trong hiện thực, và ở Anh, Đức
phát triển thể loại phong cảnh mang tính lãng mạn.
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ sôi động nhất trong nền mỹ thuật cận đại.
Chủ nghóa hiện thực có chỗ đứng vững chắc và ngày càng phát triểnvới
trường phái Bácbidông với Côrô, Đômiê,… Aivadốpxki, Sítxkin, Lêvitan
(Nga),chủ yếu vẽ đề tài phong cảnh. Mile, Cuốcbê, Rêpin, Kramscôi,
Suricốp,…dần đưa nghệ thuật của mình vào đời sống với những sinh hoạt đời
thường.
Nhưng có lẽ bước ngoặt lớn nhất trong phương pháp sáng tác của thời
kì này là những tìm kiếm của trường phái ấn tượng mà mở đầu là Pixarô,
Sitslây, tiếp sau là Manê, Đêga, Mônê, Rơnoa, … Họ là những người tiên
phong đưa ánh sáng thực vào tranh, với lối vẽ trực tiếp ngoài trời, và tìm ra
nguyên tắc của ánh sáng tác động vào các vật thể một cách đầy đủ đến
mức ngày nay vẫn chưa có sự khám phá khác đáng kể hơn. Có thể nói đối
tượng vẽ của họ là ánh sáng, vì vậy, với 1 đối tượng cụ thể, trong khi mải
miết rượt đuổi ánh sáng, họ có thể vẽ rất nhiều tác phẩm, như Những đống
rơm của Mônê, Nóc nhà thờ Cathêrina… của Mônê. Với lối vẽ này, các vật
thể đều có giá trò như nhau và như vậy, họ tách xa lối sáng tác Hàn lâm
cứng nhắc với những giá trò lý tưởng đã trở nên khô cứng. Thay vào đó, họ
nhấn mạnh đến cá tính của người sáng tác, thông qua cách thụ cảm cái
đẹp, cảm xúc, lý tưởng thẩm mỹ của anh ta. Chủ nghóa tự do cá nhân trong
sáng tác được triệt để tôn trọng.
12
Chưa thỏa mãn với sự thể hiện ánh sáng, một số họa sỹ còn tìm cách
thể hiện không khí thật vào tranh. Sinhắc , Sôrat tìm lối vẽ với những vết
màu nhỏ, tạo cho người xem cảm giác có một làm hơi nước, sương nhẹ
trong tranh. Nhưng lối vẽ quá cầu kỳ làm mất cảm xúc tự nhiên nên cũng
không có nhiều người theo. Người ta gọi đây là lối điểm miêu hay Hậu ấn
tượng.
Nhưng dù sao, dù với kỹ thuật vẽ ánh sáng tinh luyện làm nên những

tác phẩm gây xúc động, chủ nghóa ấn tượng cũng chưa thoát khỏi việc kể lại
cho người xem một thời khắc của hiện thực. Những họa sỹ kế thừa họ muốn
tìm những phong cách mới thể hiện mãnh liệt tình cảm, nhận thức, tư tưởng
của mình. Vangốc đem tâm hồn đầy lòng yêu thương, đau khổ vào chất
chứa trong tranh, chủ nghóa biểu hiện ra đời, Munchơ là người tiếp nối, và ở
Đức, trường phái này khá phát triển. Không tin tưởng vào cuộc sống trưởng
giả, muốn đi về cội nguồn của cuộc sống, Gôganh tìm ý nghóa của cuộc
sống trong nền văn hóa sơ khai ở Tahiti, và những tác phẩm của ông mang
đầy chất biểu tượng. Tìm những nguyên lý của nghệ thuật, cố gắng hiện
thực hóa các vật thể theo những nguyên tắc nghiêm nhặt, tìm cái bản chất
tạo hình của đối tượng, Xêdan đã đặt nền móng cho những trường phái hội
họa sau này, nhất là chủ nghóa lập thể…
Vào những năm đầu thế kỷ 20, cùng với sự khủng hoảng liên tiếp về
kinh tế của chủ nghóa tư bản, sự phi lí khủng khiếp của đại chiến thế giới lần
thứ nhất đem lại, các giá trò đạo đức bò đổ vỡ, con người muốn thay đổi cái
cũ, tạo cái mới tốt đẹp hơn. Nhưng trong cơn khủng hoảng về chính trò, tư
tưởng, nhiều nghệ sỹ lao vào “đập phá” vô điều kiện, cho rằng “cái cũ” là
toàn bộ những gì đã có, còn “cái mới” là cái chưa từng có. Phái Đa đa là một
bằng chứng. Họ quên rằng sự phát triển xã hội loài người là một tiến trình
liên tục, nó gạn lọc những tinh túy của cái cũ, làm nền tảng cho cái mới,
“bắn vào quá khứ bằng súng lục, tng lai bắn vào ta bằng đại bác”. Nghệ
thuật hiện đại châu u lao vào cuộc tìm kiếm những phương pháp mới chưa
từng có nhằm thỏa mãn tâm trạng, quan điểm sống của mình. Chưa bao giờ
các trường phái nghệ thuật ra đời nhiều và nhanh như vậy. Tuy vậy, trong
cuộc tìm kiếm với mức độ cố gắng gần như điên cuồng đó, không phải
không có những thành tựu về nghệ thuật, mở ra những hi vọng mới.
Chủ nghóa hồn nhiên đưa người xem vào thế giới hoang dã, ngây thơ,
trong sáng. Những bức tranh của Rútxô dường như đưa ta về với một quá
khứ đã mất, với một cái nhìn thơ ngây.
Chủ nghóa Vò lai là sự cổ vũ cho tiến bộ vật chất. Họ cho rằng đặc trưng

của đời sống hiện đại là tốc độ, vì vậy, trong tranh họ cố gắng đưa cho
người xem cảm giác về sự chuyển động, về thế giới cơ khí, tranh của họ
13
miêu tả 1 thế giới vắng bóng tình cảm con người. Bốcxiôni, Banla… là những
đại biểu tiêu biểu. Việc nhấn mạnh tính cơ giới tuy có vẻ “thời đại“ nhưng nó
không thể hiện được hết bản chất của cuộc sống con người hiện đại, do đó
trường phái này tàn rất sớm.
Với sự tương phản trong màu sắc, tạo nên những bảng màu tươi sáng,
ngây thơ , chủ nghóa Dã thú (một tên gọi khá hài hước, không hoàn toàn
phù hợp với tính chất của phong cách này) đem lại sự trong sáng nhẹ nhõm
trong cảm xúc của người xem. Nó bác bỏ quan niệm “ phủ ánh sáng lên vật
thể” của trường phái ấn tượng. Tuy vậy, nó tương đối cực đoan nên không
đủ thể hiện các cung bậc cảm xúc, vì vậy không phát triển. Nhiều họa sỹ
nổi tiếng theo trường phái này dần từ bỏ nó, trừ một đại diệnthiên tài: Hăngri
Matíts. ng nói : “Tôi muốn các bức tranh tự tỏa ra ánh sáng”, và nói: “ tôi
muốn bức tranh của tôi như một cái ghế êm ái mà người ta có thể rũ bỏ sự
mệt mỏi trong đó”…
Chủ nghóa Lập thể ra đời như một tuyên ngôn tách hội họa ra khỏi “cái
được nhìn thấy”, cố gắng tìm về bản thể của sự vật. Họ phát triển quan điểm
của Xêdan: mọi vật thể đều được cấu tạo bằng những khối cơ bản. Tranh
của họ là sự phân tích, tổng hợp các khối tạo nên vật thể, rồi dần thể hiện
những vật thể như những biểu tượng về nó. Việc làm này đóng góp rất
nhiều cho hội họa hiện đại bởi sự tìm kiếm bản chất ngôn ngữ của hội họa,
phân biệt rõ ràng vai trò của đề tài với chủ đề. Phécnăng Lêgiê đã nói: “một
cái đinh vít cũng có vẻ đẹp như một đóa hoa hồng”. Tuy vậy, sự duy lý, sự
tách khỏi những cái nhìn quen mắt về hiện thực cũng dễ làm người xem mất
cảm xúc một cách trực tiếp. Pôn Kli gọi họ là “những triết gia của hội họa”.
Đó là Picatxô, Phécnăng Lêgiê, Hoan Gri, Brắcơ, …
Tách khỏi hiện thực ý thức được, tiến vào chiều sâu của tiềm thức, chủ
nghóa Siêu thực đem đến cho người xem một cảm giác mơ hồ, rờn rợn. Nó

khai thác nỗi trống vắng, sự phi lý, cái ngẫu nhiên của ý tưởng trong tâm
hồn con người khi xa rời ý thức. Nhìn chung trường phái này thường miêu tả
nỗi buồn sâu sắc của con người khi trốn tránh đời sống hiện thực. Tâm
trạng này khá phổ biến trong đời sống hiện đại, khi mà các lý tưởng bò gãy
đổ, các giá trò bò đảo lộn. Đali, Chirôcô, Ernét, Pôn Cli, Magréttơ, …là những
người tiên phong trong trường phái này.
Cực đoan hơn cả có lẽ là chủ nghóa Trừu tượng. Tách khỏi sự gợi ý của
đề tài, từ đó tách khỏi các đối tượng vật thể, chủ nghóa trừu tượng chỉ sử
dụng những phương tiện thuần khiết của ngôn ngữ hội họa làm công cụ
diễn tả tâm trạng. Với các đại diện như Cenxki, Đềlônê, Hoan Mirô, Gorki,
Zalenxki, Pônlốc, Malêvích, Môngđrian,… họ đã tuyệt đối hóa ngôn ngữ hội
họa, dùng nó thay thế cho thiên nhiên, hay như cách họ nói: “tạo nên một
14
thiên nhiên thứ 2”. Đây là 1 trường phái tập hợp nhiều nghệ sỹ và lâu dài
hơn cả trong suốt thế kỷ 20.
Một số trường phái khác cũng ra đời ở các nước Tây u như côn Pari
của Phrăng Mác, Tân hiện thực (thực chất là khai thác phong cách Barốc)
của Klim, chủ nghóa Biểu hiện, Pop Art, Opt Art, … nhưng ảnh hưởng không
lớn lao như những trường phái trên. Trong khi đó, cũng có các họa só cũng
vẫn khẳng đònh mình một cách độc lập như Butêrô, Bônác…
Nhìn chung, ta thấy nghệ thuật tạo hình Tây u tách dần khỏi sự phản
ánh hiện thực, thậm chí quay lưng lại với nó, tạo nên một ốc đảo riêng cho
những nghệ sỹ và một giới hâm mộ. Tuy vậy, không thể nói nó không phản
ánh trung thực tâm trạng hoang mang, xót xa, cự tuyệt của con người trước
hiện thực mà con người ngày càng bò vật chất hóa, càng lao tới trong cơn lốc
của cuộc sống hiện đại đến đánh mất bản thể của mình. Pôn Kli nói: “chỉ
trong một xã hội yên ổn, thanh bình, hội họa hiện thực mới có cơ sở để phát
triển”
Hình như để cụ thể quan niệm trên, chủ nghóa Hiện thực xã hội chủ
nghóa ra đời trong bối cảnh cách mạng vô sản thành công ở nước Nga, lan

truyền sang các nước Đông u, Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba,…Với sự tin
tưởng vào một xã hội công bằng, tốt đẹp, không có áp bức, các nghệ sỹ của
trường phái này phát triển những thành quả của các nghệ sỹ hiện thực tiền
bối trên nền tảng nghệ thuật dân tộc, tiếp nhận những tinh hoa của các
trường phái hiện đại để thể hiện một cách sinh động thực tại. Tuy nó không
gây cho người xem cảm giác thật mới mẻ bằng những khám phá về thủ
pháp, chủ nghóa Hiện thực XHCN lại là nguồn động viên con người sống cho
một lý tưởng cao đẹp, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Nó là vũ khí đấu
tranh, góp phần đưa nghệ thuật tới quần chúng nhân dân lao động, nó thực
sự là nền nghệ thuật vì cuộc sống, vì con người,. Vì vậy, nó mang ý nghóa
nhân văn sâu sắc. Và do đó, dù ra đời trong những hoàn cảnh hết sức khó
khăn, nó cũng phát triển rất mạnh mẽ. nh hưởng của nó lan rộng trong thế
giới những người bò áp bức, những người tìm giá trò cuộc sống trong chế độ
cộng sản.
Nghệ thuật tranh hoành tráng Mêhicô cũng là đóng góp quan trọng
trong nền nghệ thuật hiện thực. Sikeyrốt, Rivêra, Ôrốxcô đã nối tiếp thành
công nghệ thuật tranh tường dân gian, đưa nghệ thuật tranh tường Mêhicô
tới đỉnh cao. Những tác phẩm của các ông trở thành những biểu tượng cho
nền hội họa Mêhicô.
15
Phần 2:
NGHỆ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG
Trong khi nghệ thuật tạo hình phng Tây phát triển theo một dòng
chảy tương đối thống nhất, nghệ thuật tạo hình phương Đông lại tách ra, đi
con đường riêng của mình.
Thuật ngữ “phương Đông” ở đây (như trên đã nói) dùng để chỉ những
nước từ Ấn Độ đổ về phía Đông, với các nền nghệ thuật có ảnh hưởng lớn
như n Độ, Trung Quốc, Nhật Bản. Các nước nhỏ hơn, do điều kiện đòa lý
nên không tỏa rộng ảnh hưởng tới nền nghệ thuật thế giới. Chúng chung
nhau một đặc điểm là từ rất sớm, nghệ thuật không dừng lại ở việc miêu tả

tự nhiên, mà cảm nhận nó, dùng nó làm phương tiện chuyên chở tư tưởng,
tình cảm, triết lý sống. Vì vậy phương châm của nó là bắt đầu từ cảm xúc,
thông qua đơn giản hóa, khái quát hóa, vận dụng sự triệt để sự gợi cảm của
ngôn ngữ tạo hình lay động người xem.
Nghệ thuật n Độ
Đây là nền nghệ thuật lâu đời. Nó hình thành từ 3.000 năm trước công
nguyên. Trong thời cổ đại, các kiến trúc cổ đã chứng tỏ trình độ tổ chức đô
thò cao. Đạo Bàlamôn, Hồi giáo, Phật giáo là những đạo chính, ảnh hưởng
tới nền văn hóa nước này.
Kiến trúc và điêu khắc nước này khăng khít với nhau, thậm chí có lúc
kiến trúc và điêu khắc là một (như đền Calasa). Không như ở phương Tây,
điêu khắc đóng vai trò phụ, trang trí cho kiến trúc, điêu khắc của n Độ có
vai trò riêng. Do phục vụ cho các tôn giáo khác nhau nên có nhiều nét khác
nhau cho từng loại kiến trúc. Những kiến trúc tiêu biểu như Lingaragia,
Canđavira Mahêô, Tiruvannamalai, Triđambarama, đền ở Mura, các
lăng mộ, tu viện, nơi hành lễ của đạo Phật. Nhiều trường phái kiến trúc,
điêu khắc với các quy chuẩn khác nhau, và một số đã ảnh hưởng tới một số
nước khác. Những tượng thần Siva ba đầu, những tiên nữ múa (Apsara)… với
phong cách n Độ được thấy khắp nơi ở châu Á.
Hội họa Ấn Độ cũng phát triển rất cao. Những bích họa bằng tempera
ở tgiăng ta cho chúng ta thấy một trình độ mỹ thuật rất cao, nó thể hiện
một cách sống động những huyền thoại về Phật Thích ca, đồng thời thể
hiện đời sống sinh hoạt của người n. Tính hiện thực đậm nét với phong
cách trang trí, bố cục hoàn chỉnh với những chi tiết tinh vi. Nghệ thuật
Môgôn tiếp nối hội họa tgiăng ta, tuy là hội họa cung đình nhưng rất phóng
khoáng, sinh động miêu tả sinh hoạt trong hoàng cung hoặc minh họa lòch
sử các triều đại vua. Bỏ qua quy đònh của Hồi giáo là không vẽ thú vật, các
trang trí chung quanh chủ đề chính được thể hiện bằng chim thú, hoa lá,
thậm chí có những cuốn sách về thú và hoa lá.
16

Đứng tách riêng ra là một dòng nghệ thuật dân gian: Ragipút. Cuộc
sống đời thường, thần thoại n, sử thi là đề tài của dòng này. Với sự phóng
khoáng như những tiền bối tgiăng ta, họ miêu tả cuộc sống với phong cách
hiện thực.
Nghệ thuật Trung Quốc
Trung quốc là một quốc gia có nền văn hóa rất lâu đời bắt nguồn từ
sông Hoàng hà và sông Dương tử. Chia ra các thời kỳ:
Thời nguyên thủy với văn hóa Gôbi, Lưỡng Thiều, Long Sơn di vật chủ
yếu là đồ đá và đồ gốm. Điều làm người ta ngạc nhiên là tính trau chuốt cao
và những kiến thức sâu sắc về khoa học tự nhiên được thể hiện trong các di
vật như kim châm cứu bằng đá (thạch châm), đồ nghiền thuốc bằng đá…
Thời chiếm hữu nô lệ từ thời nhà Hạ tới thời Xuân Thu chiến quốc. Đây
là thời đại đồ đồng và sắt.
Thời phong kiến từ nhà Chu đến nhà Thanh.
Sáng tạo đạo Lão, đạo Nho, Trung quốc còn phát triển đạo Phật (chủ
yếu là thiền tông). Có thể nói đây đất nước chứa đựng nhiều đạo phái giàu
tính tư tưởng nhất thế giới. Nhiều ý kiến lý giải về quan điểm của các đạo
này, nhưng điểm chung là sự hòa đồng con người với thiên nhiên được nhấn
mạnh, vai trò chủ động của con người trong việc giải phóng mình bằng cách
thuận theo tự nhiên là tư tưởng chủ đạo. Sự phong phú trong quan điểm tư
tưởng dẫn đến hình thành nhiều phong cách kiến trúc và tạo hình. Nghệ
thuật tạo hình cũng có những điểm khá khác biệt với những nền văn hóa
khác: hội họa được coi như một thú tiêu khiển bắt buộc đối với người có học
(cùng với nhạc, đánh cờ, làm thơ), chứng tỏ quan niệm về việc hình thành
nhân cách, giá trò con người phải gắn liền với văn hóa.
Kiến trúc Trung Quốc rất phát triển. Sự có kế hoạch trong xây cất được
được hình thành rất sớm. Những quy hoạch đô thò vuông vắn, chứa đựng
những công trình có cấu trúc phong phú, có bản vẽ thiết kế và mô hình cụ
thể. Nhiều công trình vó đại như cung A phòng, Vò ương, đài Bá lương, các
tháp Hựu quốc, tháp Thích ca, chùa Trung Ngạc,… và công trình lớn nhất thế

giới: Vạn lý trường thành là niềm tự hào của dân tộc Hoa.
Tượng cũng chiếm vò trí quan trọng trong văn hóa Trung Quốc. Con
người, những linh thú và những con vật mang tính tiểu tượng như hổ,
phượng, hạc, hươu… là đề tài của họ. Điểm đặc biệt là có những công trình
qui mô rất lớn như tượng Phật ở Lạc Sơn cao 70 m, đạo quân hàng vạn
tượng tuỳ táng với vua Tần thủy hoàng,… chứng tỏ trình độ tổ chức, khả
năng nghệ thuật rất cao của họ.
Hội họa, như đã nói trên, là bộ môn nghệ thuật rất phổ biến ở Trung
Quốc. Cùng với việc dùng chữ tượng hình, thư pháp (nghệ thuật viết chữ)
17
cũng được liệt vào thú chơi hội họa. Việc chế tạo ra giấy, lụa góp phần rất
nhiều cho việc phổ cập hội họa. Việc viết chữ bằng bút lông, mực xạ là điều
kiện để tranh thủy mạc trở thành quốc họa. Bên cạnh những họa sỹ có tên
tuổi, có người là quan đại thần, rất phổ biến các họa sỹ tài tử. Đã có những
tổng kết mang tính khoa học cho phương pháp sáng tác như Họa phẩm lục
của Tạ Hách, nhấn mạnh đến việc quan sát, rung động trước thực tế. Phát
triển nhiều luật phối cảnh nhằm thể hiện những chủ đề khác nhau. Tranh
sinh hoạt, những tranh phong cảnh, sơn thủy, tranh động vật, nhân vật… là
những tác phẩm mang tính hiện thực. Sự truyền cảm của thủ pháp nghệ
thuật được đề cao. Thần thái của một bức tranh được coi là nội dung tác
phẩm. Phương châm “ý tại, ngôn ngoại” thường được áp dụng. Vì vậy, cá
tính, sự độc đáo của các họa sỹ được nhấn mạnh. Những tên tuổi như Lưu
Bao, Thái Ung, Triệu Kỳ, Cố Khải Chi, Tăng Dao, Lý Tư Huấn, Ngô Đạo Tử,
Vương Duy, Quách Hy, Mễ Phất, Vương Phất, Mã Thất, Nhiệm Bá Niên, Tề
Bạch Thạch, Từ Bi Hồng,… làm rạng danh cho nền hội họa nước này.
Nhìn chung hội họa Trung Quốc luôn lấy thiên nhiên, con người làm đối
tượng, nhưng không dừng ở đó, mà thông qua đó, họ gửi gắm ý đồ, tư
tûng, tình cảm. Vì vậy hiện thực trong tranh họ không trần trụi mà nó là
phương tiện thể hiện nhân cách, tâm sự của người vẽ. Đề tài thường mang
tính biểu tượng, các họa sỹ lược bỏ những chi tiết thừa, chắt lọc những nét

gợi cảm nhất, biểu trưng nhất của sự vật mà nghệ sỹ phát hiện được. Vì vậy
chúng ta có thể thấy đề tài, thậm chí thủ pháp thường cố đònh, có khuôn
phép, nhưng tranh các họa sỹ Trung Quốc thật đa dạng phong phú, thể hiện
nhiều cung bậc tình cảm. Những thành tựu đó ảnh hưởng rất lớn đến những
nước Đông khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Từ thế kỷ 19, hội họa Trung Quốc tiếp xúc với nghệ thuật phương Tây
nên có nét đổi mới, nhưng không bò mất đi bản sắc Trung Quốc mà chỉ
phong phú thêm bằng những thủ pháp, kỹ thuật mới.
Nghệ thuật Nhật Bản
Nằm trên tuyến đường giao thông biển về phía châu Á, Nhật bản giao
lưu với rất nhiều nước trên thế giới. Tuy vậy, điểm đặc biệt của văn hóa đất
nước này là tiếp thu rất nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng không bao giờ
nhạt nhòa bản sắc dân tộc. Tuy tiếp thu ảnh hưởng Phật giáo, Đạo giáo,
Nho giáo từ Trung Quốc, Thiên chúa Giáo từ phương Tây, nhưng Thần đạo
(Sintô giáo), loại đạo giáo bản đòa vẫn luôn thống trò trong tâm hồn người
Nhật. Có lẽ do đặc điểm đòa lý rất đặc biệt: một rẻo đất dài gồm khá nhiều
đảo lớn, động đất thường xảy ra, đất trồng trọt canh tác ít, chiến tranh cát cứ
diễn ra liên miên,… dẫn tới sự bấp bênh trong cuộc sống, làm họ tôn trọng
tới từng giây phút sống, từng tặng vật nhỏ của thiên nhiên. Sự khắc khổ, tiết
18
kiệm, thực tế, đức hi sinh, thái độ trách nhiệm, tôn trọng tôn ty trật tự,lòng tự
trọng, dũng cảm chiến đấu để giành cuộc sống… là những đức tính không
thể thiếu để tồn tại trên mảnh đất này, đã làm thế giới khâm phục. Có lẽ
không có đất nước nào trên thế giới có nhiều đạo như ở đất nước này: hiệp
sỹ đạo, kiếm đạo, cung đạo, trà đạo, hoa đạo… hình như mọi hành động
trong cuộc sống đều được nâng lên thành triết lý, thành một cách nhận thức
đời sống. Điều đó thể hiện rất rõ trong nền nghệ thuật Nhật Bản. Sự hài hòa
với thiên nhiên, tính tiết chế cao đến mức tránh miêu tả, chỉ gợi mở trở thành
nét chủ đạo của nền nghệ thuật này.
Do động đất thường xuyên, kiến trúc cổ Nhật Bản chủ yếu bằng gỗ.

Sự phổ biến kiến trúc gỗ là điều tất yếu trong điều kiện động đất, giặc giã,
dẫn tới sụp đổ, hỏa hoạn… vì có thể giảm tai nạn, khôi phục nhanh chóng.
Điểm độc đáo là sự linh hoạt trong việc sử dụng không gian kiến trúc với
những bức tường giấy, cửa kéo, nền nhà giật cấp… Kết cấu cũng rất đặc
biệt: với những công trình có chiều cao, sự liên kết gữa các bộ phận từ mái
đến cột tạo nên một sự giao động tắt dần làm triệt tiêu chấn động. Điểm
này cũng thể hiện trong những công trình bằng đá: không xây bằng mạch
vữa như hầu hết các công trình đá khác trên thế giới mà bằng hệ thống
mộng đá, làm cho tường dù lung lay trong những cơn động đất vẫn đứng
vững.
Nghệ thuật làm vườn cũng rất độc đáo với việc đưa thế giới vào một
không gian hẹp bằng biểu tượng núi, biển, sông hồ bằng cỏ, sỏi. Nghệ thuật
thu nhỏ cây (Bonsai), nghệ thuật cắm hoa cũng giúp người ta có thể thưởng
ngoạn đồng thời học hỏi ở thiên nhiênbằng sự liên tưởng.
Khoảng từ thế kỷ thứ 9, hội họa Nhật Bản tách ra khỏi sự ảnh hưởng
của nghệ thuật Trung Quốc. Cùng với những tranh có đề tài tôn giáo, răn đe
mang tính đạo đức, những tranh sinh hoạt (đặc biệt là về tầng lớp nô tỳ),
chim thú hoa quả… cũng ra đời, thể hiện tính hiện thực cao.
Ngoài tranh lụa, tranh sơn mài, đặc biệt Nhật Bản có nền nghệ thuật
khắc gỗ rất độc đáo với sự đơn giản trong cách diễn tả mà biểu cảm sâu
sắc bằng phương tiện tạo hình. Không diễn tả ánh sáng như lối tả vờn khối
châu u. Những đường nét, mảng miếng mang tính tạo hình cao. nh hưởng
của phong cách này không những chỉ ở các nước châu Á mà còn làm các
họa sỹ châu u ngưỡng mộ, học tập, nhất là các họa sỹ phái ấn tượng.
Đánh dấu cho những giai đoạn sáng tạo nghệ thuật Nhật Bản là những
họa sỹ Môtômítsu, Tôbasôgô (họa phái Casuga, tk 9 – 12); Môtônôbư,
Sếtsu, Côranh (trường phái Canô, tk 12 – 14); Trường phái Tôga được biểu
dương với Mítsưnôbư, Mítsưsighê…; Matabay, Mônôrabư, Masanôbư,
Harưnôbư khởi đầu nghệ thuật tranh khắc gỗ để Kiđônaga, Utamarô,
Hirôsighê, Hôcusai… phát huy chúng lên đỉnh cao.

19
Tóm lại nghệ thuật tạo hình Nhật Bản cho chúng ta học tập ở đó sự tiết
chế, tính biểu trưng, sự vận dụng triệt để các yếu tố tạo hình để thông qua
thực tế biểu thò tư tưởng, tình cảm.
20
KẾT LUẬN
Qua lòch sử hội họa, chúng ta có thể nhận thấy những sự trùng lặp ở
các nền nghệ thuật qua các thời đại đáng để chúng ta suy nghó.
Điểm thứ nhất là những nền nghệ thuật phát triển mạnh thường mang
tính nhân văn, ca ngợi cuộc sống con người. Chúng thường gắn liền với
những thời gian lòch sử mà ở đó, chế độ chính trò phù hợp với sự phát triển
của xã hội. Có lẽ điều đó làm con người tự tin hơn vào sức mạnh của chính
mình, tin tưởng vào cuộc sống.
Điểm thứ 2 là tính hiện thực của các nền nghệ thuật phát triển cao
thường là sự tinh lọc đời sống, thông qua sự quan sát, khái quát, trở thành
sự cảm thông của nghệ sỹ với cuộc đời.
Thứ 3 là là tác phẩm nghệ thuật trở thành lớn lao khi con người vượt
lên sự miêu tả thiên nhiên một các sơ sài, mà thông qua thiên nhiên, tác
phẩm mang tính tư tưởng, gợi cảm bằng cảm xúc, với những đặc trưng của
ngôn ngữ tạo hình. Nghệ sỹ lớn là những người cảm thông với đời sống của
dân tộc, thời đại. Những khám phá của họ trên bình diện kỹ thuật hay triết lý
sống đều phục vụ đắc lực cho cộng đồng, dù có khi có thể vượt lên, đi trước
thời đại. Điều đó tạo nên sự độc đáo của tác phẩm, làm nghệ thuật thực sự
là phương tiện nhận thức của mọi người…
Từ những nhận thức trên, tôi nghó, mỗi người làm nghệ thuật đều phải
tự rèn luyện để mình có tình yêu cuộc sống, kính trọng những thành quả của
dân tộc, của quá khứ, phát triển năng lực quan sát, trí tưởng tượng, khả
năng khái quát, lòng dũng cảm sáng tạo để có những phẩm chất nghệ sỹ,
để tác phẩm của anh ta thực sự là những đóng góp cho cuộc sống.


21

×