Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Nghiên cứu kế toán trách nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.79 KB, 41 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
TIỂU LUẬN:
NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : GS.TS. ĐOÀN NGỌC PHI ANH
NHÓM THỰC HIỆN
: My Style
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2014
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trên thế giới, kế toán trách nhiệm có vị trí và vai trò quan trọng trong việc
quản lý Doanh nghiệp, là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ công cụ quản
lý kinh tế, tài chính và có vai trò quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động
kinh tế, tài chính trong Doanh nghiệp, đồng thời cung cấp thông tin để thực hiện
mục tiêu quản trị DN nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, Kế toán quản trị sử dụng
hệ thống kế toán trách nhiệm để phân loại cấu trúc tổ chức thành các trung tâm
trách nhiệm, trên cơ sở đó đánh giá kết quả của từng bộ phận dựa trên trách
nhiệm được giao cho bộ phận đó - đây cũng là một trong những vũ khí bí mật của
các Doanh nghiệp nếu muốn thành công.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, kế toán trách nhiệm là một lĩnh vực khá mới
mẻ. Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dụng kế toán trách nhiệm là một yêu cầu cấp
thiết, đặc biệt là đối với các tổ chức, Doanh nghiệp quy mô lớn, phạm vi hoạt
động rộng, cơ cấu tổ chức gắn với trách nhiệm của nhiều đơn vị, cá nhân.
Trong quá trình hội nhập hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình
tích cực theo xu thế kinh tế của thế giới, đặc biệt là sự kiện Việt Nam trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Do đó, để hòa nhập với sự phát
triển chung này đòi hỏi các Doanh nghiệp Việt Nam phải tìm ra hướng đi tích
cực, có chiến lược kinh doanh cũng như cách thức quản lý tốt mới có thể cạnh
tranh được với các Doanh nghiệp nước ngoài đang ồ ạt tiến vào thị trường Việt
Nam. Vì vậy, các Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng


nâng cao năng lực quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. Để
đáp ứng yêu cầu thị trường ngày càng mở rộng, các nhà quản trị phải có những
chiến lược hoạch định một cách lâu dài và khoa học. Nền tảng cơ bản nhất để
Doanh nghiệp giữ vững vị thế và từng bước phát triển trên thị trường là Kế toán
quản trị.
Tuy nhiên, hiện nay kế toán quản trị nói chung và kế toán trách nhiệm ở
nhiều Doanh nghiệp Việt Nam chưa được quan tâm, thể hiện như cơ cấu tổ chức
quản lý của Doanh nghiệp còn nhiều mặt chưa hợp lý. Doanh nghiệp có thực hiện
2
phân cấp quản lý, hệ thống báo cáo còn sơ sài, không mang tính thường xuyên,
nhân viên quản lý không có tính trách nhiệm cao trong công việc cũng như đối
với bộ phận mà mình quản lý Điều này làm cho việc đánh giá thành quả của
từng đơn vị đối với mục tiêu chung của Doanh nghiệp là thiếu tính chính xác,
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của Kế toán trách nhiệm trong sự phát triển
của Doanh nghiệp, nhằm hạn chế được những khuyết điểm trong việc điều hành
và sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp hiện nay. Nhóm I đã chọn đề tài
"Nghiên cứu kế toán trách nhiệm" để nghiên cứu, tìm hiểu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về kế toán trách nhiệm;
- Tìm hiểu việc tổ chức, vận dụng kế toán trách nhiệm của các Doanh
nghiệp tại Việt Nam để nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp.

CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Hệ thống kế toán trách nhiệm
3
2.1.1. Khái niệm kế toán trách nhiệm
Kế toán trách nhiệm (KTTN) liên quan đến các khái niệm và công cụ mà các
kế toán viên sử dụng để đo lường sự thực hiện của các cá nhân và các bộ phận
nhằm thúc đẩy những nổ lực hướng về mục tiêu chung của tổ chức [

1
]. Đây là
phương pháp kế toán thu thập, ghi nhận, đo lường, báo cáo kết quả của từng bộ
phận để đánh giá thành quả của từng bộ phận nhằm kiểm soát hoạt động và chi
phí của các bộ phận trong tổ chức. Thực hiện phối hợp giữa các bộ phận để thực
hiện mục tiêu chung của đơn vị.
Qua khái niệm có thể rút ra kết luận về bản chất của KTTN:
Thứ nhất, KTTN là một nội dung cơ bản của KTQT và là quá trình thu
thập và báo cáo các thông tin tài chính và phi tài chính của đơn vị, được dùng để
kiểm soát các quá trình hoạt động và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng bộ
phận trong một tổ chức;
Thứ hai, thực chất KTTN chính là quá trình phân định, thiết lập những
quyền hạn, trách nhiệm cho mỗi bộ phận, cá nhân và một hệ thống chỉ tiêu, công
cụ báo cáo kết quả của mỗi bộ phận. KTTN "cá nhân hóa" các thông tin kế toán
thông qua trách nhiệm cá nhân về các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận hay
đầu tư;
Thứ ba, KTTN chỉ có thể thực hiện được khi trong đơn vị có cơ cấu tổ
chức quản lý được phân quyền rõ ràng. Hệ thống KTTN trong các tổ chức khác
nhau được xây dựng đa dạng phù thuộc vào cơ cấu tổ chức quản lý, mức độ phân
quyền và mục tiêu cũng như quan điểm, phong cách của người lãnh đạo…
2.1.2. Vai trò của kế toán trách nhiệm
KTTN là một phương pháp phân chia cấu trúc của một tổ chức thành những
trung tâm trách nhiệm khác nhau để đo lường biểu hiện của chúng. Nói cách
khác, KTTN là một "công cụ" để đo lường về kết quả hoạt động của một khu vực
nào đó trong tổ chức, qua đó giúp nhà quản trị kiểm soát và đánh giá trách nhiệm
1
[] Hilton, 1991
4
quản trị ở từng cấp quản trị khác nhau. Vai trò của KTTN được thể hiện ở những
khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, KTTN giúp xác định sự đóng góp của từng đơn vị, bộ phận vào
lợi ích của toàn bộ tổ chức.
Thứ hai, KTTN cung cấp một cơ sở cho việc đánh giá chất lượng về kết quả
hoạt động của những nhà quản lý bộ phận.
Thứ ba, KTTN được sử dụng để đo lường kết quả hoạt động của các nhà
quản lý và do đó, nó ảnh hưởng đến cách thức thực hiện hành vi của các nhà quản
lý này.
Thứ tư, KTTN thúc đẩy các nhà quản lý bộ phận điều hành bộ phận của
mình theo phương cách phù hợp với những mục tiêu cơ bản của toàn bộ tổ chức.
2.1.3. Đặc điểm của kế toán trách nhiệm
- KTTN trong mối quan hệ với kế toán quản trị (KTQT): KTTN là một bộ
phận của KTQT, về cơ bản cũng có đầy đủ nội dung của KTQT, thực hiện đầy đủ
chức năng của KTQT, thể hiện trách nhiệm của nhà quản trị ở các bộ phận đối
với mục tiêu cuối cùng của tổ chức.
- KTTN là một nhân tố trong hệ thống kiểm soát quản trị: KTTN thực hiện
quá trình kiểm soát của KTQT vì doanh thu và chi phí được tập hợp và trình bày
theo từng trung tâm trách nhiệm, qua đó nhà quản trị dễ dàng nhận biết nguyên
nhân gây nên những hậu quả bất lợi về tăng chi phí và giảm doanh thu so với dự
toán là thuộc trách nhiệm của bộ phận nào.
- Tính hai mặt của KTTN: hệ thống KTTN gồm hai mặt là trách nhiệm và
thông tin.
2.2. Nội dung cấu thành kế toán trách nhiệm
Có thể xác định các nội dung cơ bản cấu thành KTTN bao gồm:
+ Sự phân cấp trong quản lý
+ Các trung tâm trách nhiệm
5
2.2.1. Sự phân cấp quản lý – cơ sở hình thành kế toán trách nhiệm
2.2.1.1. Khái niệm
Phân cấp quản lý là sự phân cấp quyền cho cấp dưới, dẫn đến sự phân định
rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm trong quản lý cho cấp dưới dựa trên cơ sở

cấu trúc phân quyền mà nhà quản trị đã lựa chọn.
Các nhà quản lý nhận thấy rằng hệ thống kế toán trách nhiệm chỉ phát huy
tác dụng và hoạt động có hiệu quả nhất trong những tổ chức thực hiện sự phân
cấp trong quản lý. Hầu hết các tổ chức có qui mô lớn đều thực hiện phân cấp
quản lý. Sự phân cấp quản lý xảy ra khi các nhà quản lý của các đơn vị và các bộ
phận trong tổ chức được trao quyền tự do trong việc ra quyết định. Theo đó, để
thực hiện các chức năng quản lý của mình, người quản lý cấp cao phải thể hiện
được đúng đắn quyền lực của mình, phải gây được ảnh hưởng và sức thuyết phục
đối với nhân viên, đồng thời phải tiến hành phân cấp, ủy quyền cho cấp dưới
nhằm giúp cấp dưới có thể điều hành các công việc thường xuyên tại bộ phận mà
họ quản lý.
Để hiểu được các mục đích của hệ thống kế toán trách nhiệm, cần thiết phải
xem xét các lợi ích và chi phí của việc phân cấp quản lý.
 Lợi ích của việc phân cấp quản lý:
- Ra quyết định tốt nhất là ở ngay cấp phát sinh vấn đề. Nhà quản lý các bộ
phận và các bộ phận trong tổ chức là những chuyên gia trong lĩnh vực họ quản lý.
Do vậy, họ sẽ quản lý bộ phận của họ hiệu quả hơn.
- Việc cho phép các nhà quản lý các bộ phận được ra các quyết định giúp họ
được tập luyện khi họ được nâng cấp trong tổ chức. Do vậy, họ sẽ có sự chuẩn bị
về khả năng ra quyết định khi họ được giao trách nhiệm lớn.
- Bằng việc trao một số quyền ra quyết định cho nhiều cấp quản lý, các nhà
quản lý cấp cao đỡ phải giải quyết rất nhiều vần đề xảy ra hàng ngày và do đó có
thời gian tập trung lập các kế hoạch chiến lược.
6
- Giao trách nhiệm và quyền được ra quyết định thường làm tăng sự hài lòng với
công việc và khuyến khích người quản lý nổ lực hết mình với công việc được giao.
- Sự phân cấp quản lý cung cấp một căn cứ tốt hơn để đánh giá sự thực hiện
của người quản lý.
 Chi phí của việc phân cấp quản lý:
- Các nhà quản thường có xu hướng tập trung vào hoàn thành công việc của

bộ phận mình quản lý, hơn là hướng đến mục tiêu chung của tổ chức.
- Các nhà quản lý có thể không chú ý đến hậu quả công việc của bộ phận
mình lên các bộ phận khác trong tổ chức.
- Lãng phí nguồn lực hoặc trùng lắp công việc
2.2.1.2. Vai trò của phân cấp quản lý đối với việc hình thành kế toán trách
nhiệm
Phân cấp quản lý gắn liền với nội dung kế toán trách nhiệm. Qua phân cấp
quản lý sẽ xác định được quyền hạn và trách nhiệm ở mỗi cấp rõ ràng, nên có cơ
sở cho việc đánh giá kết quả hoạt động của từng bộ phận, tìm ra nguyên nhân và
hướng khắc phục. Phân cấp quản lý vừa là tiền đề vừa là động lực thúc đẩy sự
hình thành kế toán trách nhiệm.
2.3. Các trung tâm trách nhiệm
2.3.1. Khái niệm
Hệ thống kế toán trách nhiệm được xây dựng trên cơ sở xác định trách
nhiệm của mỗi đơn vị, bộ phận trong tổ chức. Mỗi đơn vị hoặc bộ phận của tổ
chức có một nhà quản lý chịu trách nhiệm về những kết quả tài chính cụ thể của
đơn vị hoặc bộ phận. Một đơn vị hoặc bộ phận như vậy gọi là một trung tâm
trách nhiệm.
2.3.2. Bản chất của trung tâm trách nhiệm
Mức độ hoàn thành của trung tâm trách nhiệm thường được đánh giá dựa
trên hai tiêu chí: hiệu quả và hiệu suất. Như vậy, để đánh giá được hiệu quả và
7
hiệu suất của trung tâm trách nhiệm, vấn đề đặt ra là phải lượng hóa được đầu
vào và đầu ra của các trung tâm trách nhiệm. Trên cơ sở đó sẽ xác định được các
chỉ tiêu cụ thể để đánh giá kết quả hoạt động của từng trung tâm cụ thể.
2.3.3. Các loại trung tâm trách nhiệm
Các đơn vị hoặc bộ phận trong một tổ chức có thể phân loại thành một trong
bốn loại trung tâm trách nhiệm:
 Trung tâm chi phí (Cost Centers)
Trung tâm chi phí là một loại trung tâm trách nhiệm thể hiện phạm vi cơ

bản của hệ thống xác định chi phí, là điểm xuất phát của các hoạt động như: (1)
Lập dự toán chi phí; (2) Phân loại chi phí thực tế phát sinh; (3) So sánh chi phí
thực tế với định mức chi phí tiêu chuẩn. Trung tâm chi phí gắn liền với cấp quản
lý mang tính chất tác nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc gián tiếp
phục vụ kinh doanh (như phân xưởng sản xuất, các phòng ban chức năng). Theo
đó, người quản lý chỉ chịu trách nhiệm hoặc chỉ có quyền kiểm soát đối với chi
phí phát sinh ở bộ phận mình, không có quyền hạn đối với việc tiêu thụ và đầu tư
vốn. Trung tâm chi phí được chia thành 2 dạng: Trung tâm chi phí tiêu chuẩn và
Trung tâm chi phí dự toán.
 Trung tâm doanh thu (Revenue Centers)
Trung tâm doanh thu là trung tâm trách nhiệm mà người quản lý chỉ có trách
nhiệm với doanh thu cần tạo ra, không chịu trách nhiệm với lợi nhuận và vốn đầu
tư. Trung tâm doanh thu có quyền quyết định công việc bán hàng trong khung giá
cả cho phép để tạo ra doanh thu cho DN.
Trung tâm này thường được gắn với bậc quản lý cấp trung hoặc cấp cơ sở,
đó là các bộ phận kinh doanh trong đơn vị như các chi nhánh tiêu thụ, khu vực
tiêu thụ, cửa hàng tiêu thụ, nhóm sản phẩm
Trung tâm này phải có chính sách bán hàng, không chỉ dựa trên tình hình thị
trường mà còn dựa trên giá thành, chi phí và các mục tiêu lâu dài của công ty.
8
 Trung tâm lợi nhuận (Profit Centers)
Trung tâm lợi nhuận là loại trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị phải chịu
trách nhiệm với kết quả sản xuất và tiêu thụ của trung tâm. Trong trường hợp này
nhà quản lý có thể ra quyết định loại sản phẩm nào cần sản xuất, sản xuất như thế
nào, mức độ chất lượng, giá cả, hệ thống phân phối và bán hàng. Nhà quản lý
phải quyết định các nguồn lực sản xuất được phân bổ như thế nào giữa các sản
phẩm, điều đó cũng có nghĩa là họ phải đạt được sự cân bằng trong việc phối hợp
giữa các yếu tố giá cả, sản lượng, chất lượng và chi phí.
Loại trung tâm trách nhiệm này thường được gắn ở bậc quản lý cấp trung, đó
là giám đốc điều hành trong công ty, các đơn vị kinh doanh trong tổng công ty

như các công ty phụ thuộc, các chi nhánh, Nếu nhà quản lý không có quyền
quyết định mức độ đầu tư tại trung tâm của họ thì tiêu chí lợi nhuận được xem là
tiêu chí thích hợp nhất để đánh giá kết quả thực hiện của trung tâm này.
 Trung tâm đầu tư (Investment Centers)
Đây là loại trung tâm trách nhiệm gắn với bậc quản lý cấp cao như Hội đồng
quản trị công ty, các công ty con độc lập, Đó là sự tổng quát hóa của các trung
tâm lợi nhuận trong đó khả năng sinh lời được gắn với các tài sản được sử dụng
để tạo ra lợi nhuận đó. Một trung tâm trách nhiệm được xem là một trung tâm
đầu tư khi nhà quản trị của trung tâm đó không những quản lý chi phí và doanh
thu mà còn quyết định lượng vốn sử dụng để tiến hành quá trình đó.
Bằng cách tạo mối liên hệ giữa lợi nhuận và tài sản sử dụng để tạo ra lợi
nhuận đó, chúng ta có thể đánh giá lợi nhuận tạo ra có tương xứng với đồng vốn
đã bỏ ra hay không. Thông qua đó cũng hướng sự chú ý của nhà quản lý đến mức
độ sử dụng hiệu quả vốn lưu động đặc biệt là các khoản phải thu và hàng tồn kho
được sử dụng tại trung tâm.
2.4. Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán trách nhiệm
Thông tin KTTN là một bộ phận thông tin quan trọng của KTQT và do vậy
đối tượng sử dụng thông tin KTTN cũng gồm các nhà quản trị cấp thấp, cấp trung
9
và cấp cao nhằm đánh giá trách nhiệm quản trị của từng bộ phận cấu thành từng
cấp quản lý cụ thể:
2.4.1. Đối với nhà quản trị cấp cao
KTTN cung cấp thông tin cho việc thực hiện chức năng tổ chức và điều hành
của DN. KTTN xác định các trung tâm trách nhiệm, qua đó nhà quản lý có thể hệ
thống hóa các công việc của từng trung tâm mà thiết lập các chỉ tiêu đánh giá.
KTTN giúp nhà quản trị đánh giá và điều chỉnh các bộ phận cho thích hợp.
2.4.2. Đối với nhà quản trị cấp trung
KTTN cung cấp thông tin cho việc thực hiện chức năng kiểm soát tài chính
và kiểm soát quản lý. Thông qua KTTN, nhà quản trị có thể phân tích, đánh giá
chi phí, doanh thu và lợi nhuận thực hiện của từng bộ phận. Báo cáo trách nhiệm

phản hồi cho người quản lý biết thực hiện kế hoạch của các bộ phận ra sao, nhận
diện các vấn đề hạn chế để có sự điều chỉnh các chiến lược mục tiêu sao cho kết
quả kinh doanh là tốt nhất. Đây có thể xem là nguồn thông tin quan trọng để nhà
quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng doanh thu, giảm chi phí một cách
hợp lý, và cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận.
2.4.3. Đối với nhà quản trị cấp thấp
KTTN khuyến khích nhà quản lý hướng đến mục tiêu chung của tổ chức.
Mục tiêu chiến lược của DN được gắn với các trung tâm trách nhiệm. Khi KTTN
có thể kiểm soát được công tác tài chính và công tác quản lý sẽ điều chỉnh hoạt
động hướng đến các mục tiêu chung của DN. Đồng thời, bản thân các giám đốc
trung tâm trách nhiệm được khích lệ hoạt động sao cho phù hợp với các mục tiêu
cơ bản của toàn DN.
2.5. Hệ thống báo cáo thực hiện
2.5.1. Khái niệm về báo cáo thực hiện
Để cấp quản lý cao nhất trong một tổ chức có thể nắm được toàn bộ tình
hình hoạt động của tổ chức, định kỳ các trung tâm trách nhiệm từ cấp thấp nhất
10
phải báo cáo dần lên các cấp cao hơn trong hệ thống về những chỉ tiêu tài chính
chủ yếu của trung tâm trong một báo cáo gọi là báo cáo thực hiện (performance
report).
Một báo cáo thực hiện trình bày các số liệu dự toán, số liệu thực tế và số
chênh lệch những chỉ tiêu tài chính chủ yếu phù hợp theo từng loại trung tâm
trách nhiệm. Thông qua các báo cáo thực hiện, nhà quản lý (bằng cách sử dụng
phương pháp quản lý theo ngoại lệ) sẽ kiểm soát được các hoạt động của tổ chức
một cách hiệu quả (Hilton, 1991).
2.5.2. Các loại báo cáo thực hiện
Đối với trung tâm chi phí : Báo cáo tình hình thực hiện chi phí – bao gồm
tất cả các chi phí có thể kiểm soát của trung tâm theo dự toán và thực tế. Mỗi cấp
độ trung tâm chi phí đều gắn liền với người kiểm soát như người quản đốc phân
xưởng, giám đốc nhà máy, giám đốc công ty,…

Đối với trung tâm doanh thu : Báo cáo tình hình thực hiện doanh thu – bao
gồm tất cả các doanh thu phát sinh theo dự toán và thực tế của trung tâm doanh
thu đó.
Đối với trung tâm lợi nhuận : Báo cáo thu nhập theo số dư đảm phí
Đối với trung tâm đầu tư : Báo cáo thu nhập theo số dư đảm phí
2.5.3. Sự vận động thông tin trong hệ thống kế toán trách nhiệm
Trình từ báo cáo thông tin trong hệ thống kế toán trách nhiệm bắt đầu từ cấp
quản lý thấp nhất trong tổ chức cho đến cấp quản lý cao nhất. Mức độ chi tiết của
báo cáo giảm dần theo sự gia tăng của các cấp quản lý trong tổ chức.
2.6. Ảnh hưởng về thái độ của nhà quản lý
Hệ thống kế toán trách nhiệm có thể ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và thái
độ của các nhà quản lý. Ảnh hưởng có thể là ích cực hoặc tiêu cực tuỳ thuộc vào
cách sử dụng hệ thống kế toán trách nhiệm.
Hệ thống kế toán trách nhiệm có hai mặt đó là thông tin và trách nhiệm. Ảnh
11
hưởng đến hành vi của nhà quản lý của hệ thống kế toán trách nhiệm tuỳ thuộc
vào khía cạnh nào được nhấn mạnh (Huỳnh Lợi, Nguyễn Khắc Tâm, 2001).
Khi hệ thống kế toán trách nhiệm nhấn mạnh đến khía cạnh thông tin, thì sẽ
ảnh hưởng tích cực lên hành vi của nhà quản lý. Việc nhấn mạnh đến việc cung
cấp thông tin cho các nhà quản lý để giúp họ nắm bắt được tình hình hoạt động
của tổ chức, cũng như hiểu được nguyên nhân của việc hoạt động kém hiệu quả
tạo sẽ điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động trong tương lai. Nếu sử dụng đúng,
hệ thống kế toán trách nhiệm ít chú trọng đến trách nhiệm. Nếu nhà các nhà quản
lý cảm thấy rằng họ bị phê bình và khiển trách vì hiệu quả thực hiện công việc
của họ không tốt, họ thường có xu hướng đối phó theo cách không tích cực và có
khi hoài nghi về hệ thống. [
2
]
Nói chung, khi vận dụng hệ thống kế toán trách nhiệm, cần tập trung vào vai
trò thông tin của hệ thống. Điều này sẽ ảnh hưởng tích cực đến hành vi và thái độ

của nhà quản lý, khuyến khích họ cố gắng cải thiện hiệu quả hoạt động.
2.7. Đánh giá hiệu quả của các trung tâm trách nhiệm
2.7.1. Trung tâm chi phí
 Đối với trung tâm chi phí định mức
- Về mặt hiệu quả: đánh giá thông qua việc hoàn thành kế hoạch sản lượng
sản xuất trên cơ sở đảm bảo đúng thời hạn và tiêu chuẩn kỹ thuật quy định
- Về mặt hiệu năng: đo lường thông qua so sánh giữa chi phí thực tế và chi
phí dự toán, phân tích biến động và xác định các nguyên nhân chủ quan, khách
quan tác động đến tình hình thực hiện định mức chi phí.
- Đối với trung tâm chi phí định mức,
* Biến động về lượng = (Lượng thực tế - Lượng định mức) X Giá định mức
* Biến động về giá = (Giá thực tế - giá định mức) X Lượng thực tế
 Đối với trung tâm chi phí linh hoạt
2
[] Hilton, 1991
12
- Về mặt hiệu quả: nhà quản trị trước hết đánh giá trung tâm có hoàn thành
nhiệm vụ được giao hay không thông qua việc so sánh giữa đầu ra và mục tiêu
đạt được của trung tâm.
- Về mặt hiệu năng: đánh giá thành quả của trung tâm dựa vào việc đối
chiếu giữa chi phí thực tế phát sinh và dự toán ngân sách đã được phê duyệt.
Thành quả của nhà quản trị bộ phận này sẽ được đánh giá vào khả năng kiểm soát
chi phí của họ trong bộ phận.
- Đối với trung tâm chi phí tùy ý
* Chênh lệch chi phí = Chi phí thực tế - Chi phí dự toán
* Tỷ lệ % chi phí thực tế so với chi phí dự toán = (CP thực tế/CP dự toán)*100%
2.7.2. Trung tâm doanh thu
- Về mặt hiệu quả: đánh giá thông qua đối chiếu giữa doanh thu thực tế với
doanh thu trên dự toán. Xem xét tình hình thực hiện dự toán tiêu thụ, qua đó phân
tích sai lệch doanh thu do ảnh hưởng của các nhân tố có liên quan như đơn giá

bán, khối lượng và cơ cấu sản phẩm tiêu thụ.
- Về mặt hiệu năng: kiểm soát sự gia tăng chi phí trong mối quan hệ với
doanh thu, đảm bảo tốc độ tăng của doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng của chi phí.
- Dựa vào những chỉ tiêu cơ bản sau:
* Chênh lệch doanh thu = Doanh thu thực tế - Doanh thu dự toán
* Tỷ lệ % DT thực tế so với DT dự toán = (DT thực tế / DT dự toán)*100%
2.7.3. Trung tâm lợi nhuận
- Về mặt hiệu quả: đánh giá thông qua việc đảm bảo mức lợi nhuận bằng
cách so sánh giữa lợi nhuận đạt được thực tế với lợi nhuận ước đoán theo dự
toán, đảm bảo sự gia tăng tốc độ lợi nhuận cao hơn tốc độ gia tăng về vốn. Qua
đó xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan làm biến động lợi nhuận.
- Về mặt hiệu năng: đánh giá dựa trên các chỉ tiêu như lợi nhuận trước thuế,
13
số dư đảm phí bộ phận, tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn
được cấp.
- Thể hiện tập trung qua 2 chỉ tiêu cơ bản sau:
* Chênh lệch lợi nhuận = Lợi nhuận thực tế - Lợi nhuận dự toán
* Tỷ lệ % LN thực tế so với LN dự toán = (LN thực tế / LN dự toán)*100%
2.7.4. Trung tâm đầu tư
- Về mặt hiệu quả: đánh giá giống trung tâm lợi nhuận.
- Về mặt hiệu năng: đánh giá dựa trên các chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
đầu tư (return on investment - ROI) và thu nhập thặng dư (residual income – RI)
- Mục tiêu cuối cùng của DN là tối đa hoá lợi nhuận và sử dụng
vốn đầu tư có hiệu quả.
- Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (ROI) = LN / Vốn đầu tư
- Lãi thặng dư - RI (Residual Income)
- Giá trị kinh tế gia tăng EVA = LN sau thuế - CP vốn
= Vốn x (ROI – T.suất chi phí vốn)
CHƯƠNG III:
NHỮNG ỨNG DỤNG KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM TẠI VIỆT NAM

14
Ở Việt Nam, kế toán quản trị (KTQT) là một thuật ngữ tương đối mới mẻ, chỉ
được chứng minh cụ thể nhất trong Luật Kế toán vào ngày 17/06/2003.
KTQT là lĩnh vực chuyên môn của kế toán nhằm nắm bắt các vấn đề về thực
trạng, đặc biệt thực trạng tài chính của doanh nghiệp (DN). Qua đó, phục vụ công
tác quản trị nội bộ và ra quyết định quản trị. Thông tin của KTQT đặc biệt quan
trọng trong quá trình vận hành của DN, đồng thời phục vụ việc kiểm soát, đánh
giá DN đó. Thông tin mà KTQT cần nắm bắt bao gồm cả thông tin tài chính và
thông tin phi tài chính. Có thể nói, bản chất của thông tin trong KTQT là thông
tin quản lý, không phải thông tin tài chính đơn thuần. Trước khi tập hợp thông tin
KTQT phải biết rõ mục đích của thông tin đó. Bên cạnh đó, KTQT trong DN
cũng có những mục tiêu rất rõ ràng:
Một là, biết được từng thành phần chi phí, tính toán và tổng hợp chi phí sản
xuất, giá thành cho từng loại sản phẩm, từng loại công trình dịch vụ.
Hai là, xây dựng được các khoản dự toán ngân sách cho các mục tiêu hoạt động.
Ba là, kiểm soát thực hiện và giải trình các nguyên nhân chênh lệch giữa chi
phí theo dự toán và thực tế.
Bốn là, cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà quản lý để có các quyết
định kinh doanh hợp lý, nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đạt được mục tiêu
mà DN đề ra, từ đó làm tăng giá trị DN (giá trị cổ đông) và giá trị khách hàng.
Việt Nam đang từng bước tiến hành cải cách toàn diện hệ thống kế toán nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới, trong đó có việc áp dụng kế toán trách nhiệm vào các
hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ của các Doanh nghiệp tại Việt Nam.
Kế toán trách nhiệm là một nội dung cơ bản của kế toán quản trị, do vậy quá
trình hình thành và phát triển của kế toán trách nhiệm gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của kế toán quản trị. Kế toán trách nhiệm được đề cập đầu tiên
ở Mỹ vào năm 1950 trong tác phẩm "Basic organizational planning to tie in with
responsibility accounting" của Ailman, H.B.1950. Từ đó đến nay, vấn đề kế toán
15
quản trị được quan tâm nhiều với những quan điểm khác nhau bởi những tác giả

khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Hầu hết các tổ chức được cấu tạo gồm các đơn vị, bộ phận trực thuộc có chức
năng và nhiệm vụ khác nhau. Vậy, làm thế nào đánh giá hiệu quả của các cá
nhân, đơn vị, bộ phận trong tổ chức. Bất kỳ sự khác biệt nào đều được quy trách
nhiệm của các cá nhân chủ chốt có liên quan trong thiết lập các tiêu chuẩn, cho
nguồn lực cần thiết và quyền hạn để sử dụng chúng.
Kế toán trách nhiệm được hiểu là hệ thống thu thập và báo cáo các thông tin
về doanh thu và chi phí theo nhóm trách nhiệm. Các cấp quản lý sẽ phải chịu
trách nhiệm về lĩnh vực hoạt động của mình, của thuộc cấp và tất cả các hoạt
động khác thuộc trách nhiệm của họ.
Đây là một hệ thống thừa nhận mỗi cá nhân, bộ phận trong một tổ chức có
quyền chỉ đạo và chịu trách nhiệm về những nghiệp vụ riêng biệt thuộc phạm vi
quản lý của mình, họ phải xác định, đánh giá và báo cáo lên trong tổ chức, thông
qua đó các cấp quản lý cao hơn sử dụng các thông tin này để đánh giá hiệu quả
của các bộ phận trong tổ chức.
Kế toán trách nhiệm liên quan đến các khái niệm và công cụ mà các kế toán
viên sử dụng để đo lường sự thực hiện của các cá nhân và các bộ phận nhằm thúc
đẩy những nỗ lực hướng về mục tiêu chung của tổ chức.
Một số nghiên cứu và ứng dụng kế toán trách nhiệm tại Việt Nam:
3.1. Kế toán trách nhiệm trong quản lý kinh tế ở doanh nghiệp [
3
]
Cùng với sự phát triển của khoa học quản lý nói chung và khoa học quản lý
kinh tế nói riêng. Đòi hỏi công tác quản lý kinh tế phải không ngừng thay đổi và
phát triển để đáp ứng nhu cầu quản lý mới. Nhu cầu quản lý mà có sự phân định
trách nhiệm rõ ràng, cụ thể đối với từng cấp quản lý. Nhu cầu quản lý này đòi hỏi
phải hình thành và xây dựng hệ thống kế toán trách nhiệm. Có nhiều quan điểm
khác nhau về kế toán trách nhiệm (KTTN)
3
[] />nghiep.aspx

16
KTTN là công cụ để kiểm soát hoạt động và chi phí của tổ chức. KTTN là sự
phát triển của hệ thống kế toán được thiết kế để kiểm soát chi phí phát sinh liên
quan trực tiếp cho các cá nhân trong tổ chức, người chịu trách nhiệm kiểm soát.
Hệ thống kiểm soát này được thiết kế cho tất cả các cấp quản lý trong đơn vị.
KTTN là một bộ phận của kế toán quản trị, nó liên quan đến việc tích lũy, báo
cáo về thu nhập, chi phí, trên cơ sở nhà quản lý có quyền đưa ra những quyết
định trong hoạt động hàng ngày.
KTTN là một trong những nội dung cơ bản trong kế toán quản trị tại Doanh
nghiệp. Nó là một trong những công cụ quản lý kinh tế tài chính có vai trò quan
trọng trong điều hành, kiểm soát cũng như đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của đơn vị.
Từ những quan điểm trên cho thấy bản chất của KTTN là mỗi bộ phận được
phân cấp quản lý trong bộ máy quản lý có quyền kiểm soát, chỉ đạo và chịu trách
nhiệm về những nghiệp vụ riêng biệt thuộc phạm vi phân cấp quản lý của mình.
Theo phạm vi phân cấp quản lý đó từng bộ phận thu thập và báo cáo thông tin về
doanh thu và chi phí lên bộ phận quản lý cấp trên. Bộ phận quản lý cấp trên sử
dụng những thông tin này để đánh giá hiệu quả của từng cấp quản lý trong bộ
máy quản lý.
Tùy thuộc vào đặc điểm cơ cấu tổ chức, mức độ phân cấp quản lý và mục tiêu
của nhà quản trị DN mà có các trung tâm trách nhiệm tương ứng. Mỗi trung tâm
sẽ xác định quyền và trách nhiệm đối với từng đối tượng cụ thể. Trung tâm trách
nhiệm trong một tổ chức có toàn quyền kiểm soát chi phí, doanh thu và các khoản
đầu tư. Các trung tâm trách nhiệm tạo ra mối liên hoàn trong hệ thống quản lý.
Căn cứ vào mức độ phân cấp quản lý, quyền và trách nhiệm của trung tâm thông
thường có bốn trung tâm trách nhiệm như: trung tâm chi phí, trung tâm doanh
thu, trung tâm lợi nhuận, trung tâm đầu tư. Căn cứ vào phân cấp quản lý, trách
nhiệm và quyền hạn của các trung tâm mà được nhà quản lý giao để xác định một
bộ phận trong một tổ chức quản lý thuộc trung tâm nào.
17

Các trung tâm trách nhiệm trong KTTN thường bao gồm:
Trung tâm chi phí: là trung tâm mà nhà quản lý chỉ chịu trách nhiệm hoặc có
quyền kiểm soát về chi phí không có quyền kiểm soát về doanh thu, lợi nhuận
hay đầu tư. Trung tâm chi phí chịu trách nhiệm về các khoản chi phí đầu vào của
DN thường được xác định theo các bộ phận chức năng như phân xưởng sản xuất,
tổ đội sản xuất,… Trách nhiệm chính của trung tâm chi phí là kiểm soát và báo
cáo về chi phí. Mỗi trung tâm chi phí có thể bố trí một hoặc nhiều đơn vị chi phí
tùy thuộc và việc cân nhắc về lợi ích và chi phí của việc vận hành và kiểm soát.
Việc đánh giá hiệu quả của trung tâm chi phí thường phân tích, so sánh giữa chi
phí định mức hoặc chi phí kế hạch với chi phí thực tế trên cả số tương đối và số
tuyệt đối. Trung tâm chi phí thường gắn liền với cấp quản lý mang tính chất tác
nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ. Trung tâm chi phí thường thực hiện các
nhiệm vụ như lập dự toán chi phí, phân loại chi phí thực tế phát sinh, so sánh chi
phí thực tế với chi phí định mức…
Trung tâm doanh thu: Là trung tâm trách nhiệm mà người quản lý chịu trách
nhiệm về việc tích lũy doanh thu và không phải chịu trách nhiệm về chi phí, lợi
nhuận và vốn đầu tư. Quyết định của người quản lý trung tâm này thường liên
quan đến công việc bán hàng, xác định giá bán tạo ra doanh thu cho quá trình
bán hàng, quá trình tiêu thụ sản phẩm… Trung tâm doanh thu gắn với cấp quản
lý cơ sở thường là bộ phận kinh doanh, trưởng chi nhánh, khu vực, cửa hàng…
Để đánh giá hiệu quả của trung tâm doanh thu người ta thường phân tích,so sánh,
đánh giá sự biến động doanh thu, chi phí bán hàng trên hai mặt số tuyệt đối và số
tương đối.
Trung tâm lợi nhuận: Là trung tâm trách nhiệm mà người quản lý chịu trách
nhiệm cho cả chi phí, doanh thu và lợi nhuận. Nhà quản lý trung tâm này có
quyền quyết định hoạt động sản xuất sản phẩm, cơ cấu chi phí, giá thành sản
phẩm, quyết định chiến lược bán hàng, xác định giá bán… để đem lại một khoản
lợi nhuận.Trung tâm lợi nhuận thường gắn với các bậc quản lý cấp trung như
giám đốc điều hành công ty, giám đốc khu vực, giám đốc các công ty phụ thuộc
18

trong Tổng công ty hoặc các chi nhánh…. Để đánh giá hiệu quả các trung tâm lợi
nhuận thường so sánh sự biến động lợi nhuận giữa thực tế với kế hoạch hoặc sự
biến động của lợi nhuận thực tế giữa các năm.
Trung tâm đầu tư: Là trung tâm chịu trách nhiệm trong việc tạo ra doanh thu,
kiểm soát chi phí, lợi nhuận và hiệu quả đầu tư. Nhà quản lý trung tâm này có
quyền quyết định toàn bộ các hoạt động trong đơn vị. Trung tâm đầu tư thường
gắn với cấp quản lý cao nhất trong công ty như Hội đồng quản trị, Tổng công
ty… Để đánh giá hiệu quả hoạt động của các trung tâm này người ta thường sử
dụng các chỉ tiêu như: tỷ suất sinh lời, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư…
Vai trò của KTTN trong quản lý kinh tế:
Một là, KTTN tạo điều kiện, thúc đẩy và khuyến khích việc phát huy năng lực
các nhàquản lý ở các cấp quản lý để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý.
Hai là, KTTN giúp nhà quản lý kiểm soát và đánh giá hiệu quả của từng bộ
phận quảnlý được phân cấp trong bộ máy quản lý.
Ba là, KTTN cung cấp thông tin cho các nhà quản lý các cấp trong việc thực
hiện tổchức và điều hành toàn DN.
Bốn là, KTTN giúp nhà quản lý xây dựng các trung tâm trách nhiệm phù hợp
với đặcđiểm tổ chức và phân cấp quản lý tạo điều kiện để nhà quản trị có thể có
hệ thốngđược các công việc của từng trung tâm, thiết kế các chỉ tiêu đánh giá
hiệu quảhoạt động. Đồng thời điều chỉnh kế hoạch của các bộ phận trong DN sao
cho phùhợp.
KTTN là một trong những nội dung cơ bản của kế toán quản trị. Càng ngày,
KTTN càng có vai trò và vị trí quan trọng trong quản lý kinh tế ở các DN trên thế
giới đặc biệt là những nước phát triển rất quan tâm đến loại kế toán này. Đối
vớiViệt nam, kế toán quản trị nói chung, KTTN nói riêng còn là một vấn đề khá
mới mẻ. Vì vậy, việc nghiên cứu và tổ chức KTTN là một yêu cầu cấp thiết đối
với các DN hiện nay. Đặc biệt là các DN có quy mô, phạm vi hoạt động rộng, cơ
cấutổ chức gắn với trách nhiệm của nhiều đơn vị, nhiều cá nhân.
19
3.2. Kế toán trách nhiệm trong các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu

trên địa bàn tỉnh Nghệ An [
4
]
Ở doanh nghiệp (DN) khi mở rộng quy mô, người lãnh đạo cấp cao sẽ thành
lập nhiều bộ phận khác nhau – gọi là trung tâm trách nhiệm ( TTTN) và bố trí
NQT chịu trách nhiệm về các vấn đề phát sinh tại khu vực đó. Những mắt xích
này thực sự phát huy tác dụng và tạo hiệu quả hoạt động khi cơ chế quản lý tài
chính được phân cấp, phân quyền cụ thể cho từng người, từng bộ phận gắn liền
với trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trong từng hoạt động. Theo cách tiếp cận
này, nhà quản trị (NQT) bộ phận càng có sự chủ động trong việc ra quyết định
điều hành thì họ càng có điều kiện để phát huy tính tư duy, sáng tạo trong công
việc; Từ đó, đưa ra những quyết định mới mẻ và đúng đắn. Có thể nói, mỗi
TTTN là một bộ phận trong một tổ chức có sự phân cấp về tài chính. Trong đó,
NQT bộ phận chịu trách nhiệm về toàn bộ vấn đề phát sinh ở bộ phận mình với
NQT cấp cao. Kế toán trách nhiệm (KTTN) theo đó được coi là một hệ thống đo
lường kết quả của từng TTTN và so sánh những kết quả này với mục tiêu được
kỳ vọng của toàn Công ty.
Cơ sở để tổ chức hệ thống KTTN là sự phân cấp, phân quyền trong quản lý.
Hầu hết, những DN có quy mô lớn hay các tập đoàn đều diễn ra sự phân cấp này
và tạo ra một mạng lưới trách nhiệm trong toàn bộ Công ty. Hãy tưởng tượng
biểu đồ tổ chức hình kim tự tháp truyền thống, đường trách nhiệm trong một tổ
chức sẽ xuất phát từ đỉnh hình kim tự tháp là nhà lãnh đạo cấp cao nhất của Công
ty, xuống cấp phó tới cấp trung gian và các cấp quản trị thấp hơn nữa. Quy mô
của Công ty càng lớn, những đường trách nhiệm này sẽ trở nên nhiều hơn và dài
hơn. Khi đó, diễn ra một sự liên kết chặt chẽ giữa cấu trúc của DN với hệ thống
KTTN: Mỗi một bộ phận (phòng, ban, trung tâm,…) trong DN sẽ được coi như
một TTTN giúp KTTN thực hiện tốt vai trò của mình.
Căn cứ vào bản chất và mức độ về trách nhiệm ra quyết định được giao cho
những NQT bộ phận có 4 loại TTTN, bao gồm:
4

[] />xang-dau-tren-dia-ban-tinh-Nghe-An.aspx
20
Trung tâm chi phí (cost centre): Là trung tâm mà NQT chỉ chịu trách nhiệm
về chi phí phát sinh.
Trung tâm doanh thu (revenue centre): Là trung tâm mà NQT chỉ chịu trách
nhiệm về doanh thu.
Trung tâm lợi nhuận (profit centre): Là trung tâm mà NQT chỉ chịu trách
nhiệm về cả doanh thu và chi phí.
Trung tâm đầu tư (investment centre): Là trung tâm mà NQT chỉ chịu trách
nhiệm về doanh thu, chi phí và đầu tư.
Thị trường kinh doanh xăng dầu ở Nghệ An khá sôi động với hệ thống các cửa
hàng bán lẻ xăng dầu khá lớn, tính đến năm 2013 có khoảng 570 cửa hàng và tàu
thuyền bán lẻ khắp các địa phương trong tỉnh. Một số DN đầu mối tham gia cung
ứng xăng dầu cho mạng lưới cửa hàng bán lẻ là Cty xăng dầu Nghệ An, xăng dầu
Quân đội, PV OIL Vũng áng Đây có thể nói là những DN có quy mô lớn, cơ
cấu tổ chức với sự phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng bộ phận trực thuộc.
Cho đến nay, tại những Cty kinh doanh xăng dầu có quy mô lớn kể trên đã
tiến hành sử dụng hệ thống phần mềm quản trị để tăng cường kiểm soát chi phí,
doanh thu phát sinh tại các cửa hàng kinh doanh bán lẻ. Song, việc tổ chức hệ
thống KTTN trong công tác quản trị mới dừng lại ở mức độ đơn giản: Cấu trúc
DN thiết lập nên các phòng, ban thực hiện các nhiệm vụ riêng biệt và tập trung
chủ yếu vào các trung tâm doanh thu (các cửa hàng). Bên cạnh đó, sự vận dụng
các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của từng bộ phận và hệ thống báo cáo KTTN còn
mờ nhạt, chưa sử dụng hết các phương pháp của hệ thống KTTN. Thậm chí, một
số đơn vị không tổ chức hệ thống KTTN. Trong đó, bao gồm DN tư nhân với một
vài cửa hàng bán lẻ.
Nguyên nhân của tình trạng trên, một phần xuất phát từ đặc điểm cơ cấu tổ
chức của các DN cũng như trình độ kế toán trong đơn vị chưa đáp ứng được điều
kiện áp dụng KTTN vào quản lý. Nhưng đa phần, là do quan điểm quản trị kinh
doanh và nhận thức của người quản lý về KTTN còn chưa cao. Ngay cả những

21
nghiên cứu trong nước về việc xây dựng hệ thống KTTN trong các DN thương
mại, cụ thể trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu cũng chưa có. Điều này, đã phần
nào gây ra sự thiếu hụt thông tin để vận dụng hệ thống KTTN trong các DN.
Để nâng cao hiệu quả tổ chức hệ thống KTTN của các Cty xăng dầu trên địa
bàn tỉnh Nghệ An nói riêng và các Cty xăng dầu trên cả nước nói chung, nhằm
tăng cường công tác quản trị nội bộ trong tình hình kinh tế hiện nay, cần triển
khai một số giải pháp:
(1) Xác định đúng các TTTN: Dựa trên cơ cấu tổ chức và chính sách phân
cấp, quản lý kinh tế để phân loại các bộ phận ( phòng, ban, cửa hàng, tổ đội, )
trong Cty thành các TTTN. Ban giám đốc hoặc Hội đồng quản trị, thường được
coi là những trung tâm đầu tư. Phòng kinh doanh và các cửa hàng bán lẻ xăng
dầu, được xem như các trung tâm doanh thu. Phòng kế toán là trung tâm lợi
nhuận. Những phòng ban còn lại, chỉ chịu trách nhiệm về chi phí liên quan đến
bộ phận mình, sẽ là trung tâm chi phí.
(2) Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tài chính và hệ thống Báo cáo kế
toán quản trị, phù hợp với mức độ phân cấp quản lý của TTTN. Chẳng hạn, để
đánh giá trách nhiệm của trung tâm đầu tư sử dụng chỉ tiêu ROI (Return on
investment) cùng việc tổ chức lập các Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo phân
tích hiệu quả sử dụng vốn trong phạm vi trung tâm. Đối với trung tâm chi phí,
cần xây dựng định mức, dự toán của từng loại chi phí. Xác định những loại chi
phí kiểm soát được và không kiểm soát được để tiến hành lập các Báo cáo tình
hình thực hiện kế toán, thực hiện dự toán; Báo cáo phân tích sự biến động của các
định mức chi phí
(3) Tổ chức hệ thống hóa thông tin quản trị tương ứng với từng loại trung tâm.
DN phải thiết lập hệ thống chứng từ, tài khoản và sổ kế toán chi tiết để theo dõi
từng loại chi phí, doanh thu, từng mặt hàng, nhóm mặt hàng, hay khu vực thị
trường kinh doanh xăng dầu, gắn với yêu cầu quản trị của từng loại TTTN ở
từng cấp.
22

(4) Tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ kế toán: Người làm kế toán
cần có trình độ nhất định để thu thập, xử lý, báo cáo; Đồng thời, sử dụng các kỹ
thuật tài chính nhằm phân tích, đánh giá tình hình hoạt động các TTTN thông qua
hệ thống chỉ tiêu đã được DN xây dựng.
(5) Cần nâng cao sự hiểu biết về tầm quan trọng của KTTN trong quản lý. Để
từ đó, giúp cho các NQT có thêm một công cụ hữu ích kiểm soát tốt chi phí cũng
như hiệu quả hoạt động của các bộ phận và áp dụng hệ thống KTTN phù hợp với
cơ cấu bộ máy DN.
3.3. Vận dụng kế toán trách nhiệm trong trường đại học [
5
]
Để có thể hội nhập sâu rộng trong lĩnh vực đào tạo, các trường đại học Việt
Nam cần đổi mới căn bản, toàn diện không chỉ ở nội dung, chương trình, phương
pháp giảng dạy mà còn phải đổi mới cả phương pháp quản lý. Kế toán trách
nhiệm (KTTN) là một công cụ hữu hiệu cần được vận dụng trong quá trình kiểm
soát chi phí và đánh giá kết quả hoạt động của các bộ phận trong trường đại học.
KTTN là một công cụ hữu hiệu cần được vận dụng trong quá trình kiểm soát
chi phí và đánh giá kết quả hoạt động của các bộ phận trong trường đại học.
Nguồn: internet
Quá trình hình thành và phát triển của KTTN gắn liền với quá trình hình thành
và phát triển của kế toán quản trị. KTTN được đề cập đầu tiên vào những năm
1950 ở Mỹ, sau đó lan rộng sang các nước Anh, Úc, Canada nơi có nền kinh tế
thị trường phát triển và yêu cầu về quản trị thông tin nghiêm ngặt. Từ đó đến nay,
KTTN được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu với các quan điểm khác nhau.
Các quan điểm về kế toán trách nhiệm:
Quan điểm 1: Kế toán trách nhiệm để kiểm soát chi phí
Từ năm 1952 John A Higgins đã nghiên cứu về KTTN là công cụ để kiểm
soát chi phí và đánh giá kết quả hoạt động cho từng cá nhân, xác định trách
5
[] />hoc/47591.tctc

23
nhiệm của người đứng đầu tổ chức. Hệ thống kiểm soát này được thiết kế cho tất
cả các cấp quản lý trong đơn vị. Đến năm 1997, nhóm tác giả Anthony
A.Athinson, Rajiv.D.Banker, Robert S và S.mark Young quan điểm KTTN là
một bộ phận của hệ thống kế toán có chức năng thu thập, tổng hợp và báo cáo các
thông tin liên quan đến trách nhiệm của nhà quản lý các cấp trong tổ chức. Qua
đó để cung cấp các thông tin liên quan đến chi phí, thu nhập, kết quả hoạt động
của từng bộ phận mà họ có trách nhiệm kiểm soát.
Tính kiểm soát trong KTTN còn được hai tác giả Prof. B.Venkat Rathnam và
Prof. K. Raji Reddy thể hiện qua khái niệm về KTTN: KTTN là một hệ thống
kiểm soát của nhà quản lý được dựa trên những nguyên tắc về ủy quyền, phê
chuẩn và xác định trách nhiệm. Sự ủy quyền được giao đến từng trung tâm trách
nhiệm, nhà quản lý phải chịu trách nhiệm theo từng phân khu, các phân khu này
có thể là các bộ phận, chi nhánh hay phòng ban…
Mục đích chính của KTTN là quá trình kiểm soát của các nhà quản lý đối với
bộ của mình. Theo nhóm tác giả Jerry J. Weygandt, Paul D, Kimmel, Donald E.
Kieso (2008), KTTN là một bộ phận của kế toán quản trị, nó liên quan đến việc
tích lũy, báo cáo về thu thập và chi phí, trên cơ sở nhà quản lý có quyền đưa ra
những quyết định trong hoạt động hàng ngày và các vấn đề đó. Chỉ cần thông qua
việc kiểm soát chi phí nhà quản lý có thể điều hành tổ chức một cách hiệu quả.
Quan điểm 2: Kế toán trách nhiệm đề cao vai trò của các trung tâm trách
nhiệm
James R.Martin định nghĩa: “KTTN là hệ thống kế toán cung cấp thông tin và
kết quả, hiệu quả hoạt động của các bộ phận, các đơn vị trong tổ chức. Đó là
công cụ đo lường, đánh giá hoạt động của những bộ phận liên quan đến đầu tư,
lợi nhuận, doanh thu và chi phí mà mỗi bộ phận đều có quyền và trách nhiệm
riêng biệt”. Với quan điểm này, tác giả đã dựa trên cơ sở phân chia tổ chức thành
những trung tâm trách nhiệm, các bộ phận được giao quyền để thực hiện một
phần hay toàn bộ công việc nào đó. Việc phân quyền trong tổ chức tạo nên sự
phân cấp và đòi hỏi cấp trên phải theo dõi và đánh giá kết quả của các cấp dưới.

24
Nhóm tác giả Clive R. Emmanuel, David T. Otley, KennethA. Merchant đã có
quan điểm về KTTN như sau: KTTN là việc thu thập và báo cáo những thông tin
tài chính về những trung tâm khác nhau trong một tổ chức. Theo quan điểm này
KTTN được xem xét từ chi phí, thu nhập, lợi nhuận đến những người chịu trách
nhiệm về các chỉ tiêu đó. KTTN phù hợp với các tổ chức mà ở đó nhà quản lý
cấp cao thực hiện chuyển giao quyền ra quyết định cho các cấp dưới.
Quan điểm 3: Kế toán trách nhiệm nhấn mạnh kiểm soát chi phí và đề cao vai
trò của các trung tâm trách nhiệm
Ngoài tính kiểm soát của KTTN các tác giả còn đề cập đến các trung tâm
trách nhiệm, sự phân cấp trong quản lý và các chỉ tiêu chi phí, doanh thu và lợi
nhuận. Charles T Horngreen định nghĩa: “KTTN là hệ thống kế toán được nhìn
nhận qua các trung tâm trách nhiệm khác nhau trong toàn bộ tổ chức và phản ánh
các kết quả hoạt động của mỗi trung tâm này bằng các chỉ tiêu về doanh thu và
chi phí". Một quan điểm khác của nhóm tác giả David F. Hawkins, Jacob Cohen,
Michele Jurgens, V.G Narayanan cho rằng KTTN không chỉ được đề cập đến các
trung tâm trách nhiệm ở góc độ về chi phí, thu nhập hay tính kiểm soát mà KTTN
còn được là một hệ thống tạo ra những thông tin tài chính và phi tài chính về
những hoạt động thực tế và lập kế hoạch của những trung tâm trách nhiệm trong
một đơn vị. Trung tâm trách nhiệm là những đơn vị thuộc tổ chức mà người đứng
đầu chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của đơn vị đó.
Như vậy, với mỗi quan điểm của các nhà khoa học, KTTN được nhìn nhận
khai thác ở các khía cạnh khác nhau. Song sự khác nhau đó không mang tính đối
nghịch mà chúng bổ trợ cho nhau tạo một cái nhìn toàn diện về KTTN. Theo
quan điểm của tác giả, KTTN được định nghĩa như sau: KTTN là công cụ đo
lường, kiểm soát và đánh giá hoạt động của những bộ phận liên quan đến đầu tư,
lợi nhuận, doanh thu và chi phí mà mỗi bộ phận đó có quyền kiểm soát và chịu
trách nhiệm trong phạm vi của mình.
Qua nghiên cứu các khái niệm có thể rút ra kết luận về bản chất của KTTN:
25

×