Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác phân tích tài chính Công ty TNHH Vận tải Hà Khánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.2 MB, 82 trang )

1

CHƢƠNG 1. CÁC VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm và vai trò của tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân doanh
nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia
mà tại đấy diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh như: Đầu tư, tiêu thụ và phân phối.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về tài chính doanh nghiệp, các nhà kinh tế đã
tìm kiếm khái niệm tài chính trên các vấn đề có tính chất nguyên lý khác nhau của họ
mà thường tập trung vào 5 nguyên tắc sau:
+ Nguồn hình thành nên tài sản của doanh nghiệp
+ Sự bảo đảm có lợi ích cho những người bỏ vốn dưới các hình thức khác nhau.
+ Khía cạnh thời hạn của các loại vốn.
+ Sự diễn giải các khái niệm về vốn như là tổng giá trị của các loại tài sản dưới
hai dạng vốn trừu tượng và vốn cụ thể.
+ Chỉ ra quá trình thay đổi của vốn trong các trường hợp tăng giảm và thay đổi
cấu trúc của nó.
Dựa vào các nguyên tắc đó ta có khái niệm tài chính doanh nghiệp là một trong
những nội dung cơ bản thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm
giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh được
biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác, trên giác độ kinh doanh vốn, hoạt động
tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối,
sử dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp bao gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước
Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà
nước, hay khi nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm nguồn tài trợ.
Trên thị trường tài chính doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn


ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu trái phiếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn. Ngược lại
doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh
nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, hoặc đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm
thời chưa sử dụng.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác
2

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh
nghiệp khác trên thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những
thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng,
tìm kiếm lao động Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác
định được nhu cầu hàng hoá dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp
hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người
quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ. Các mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàng
loạt chính sách của doanh nghiệp như : chính sách phân chia cổ tức, chính sách đầu tư,
chính sách cơ cấu vốn
1.1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có những
vai trò chủ yếu sau đây:
Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trước hết phải có một
yếu tố tiền đề đó là vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết được
thể hiện ở việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh
nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy
động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn để hoạt động của các doanh
nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.
Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm
và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính

doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư tối
ưu; huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, phân bổ hợp lý các
nguồn vốn, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả
năng sinh lời của vốn kinh doanh.
Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này của tài chính doanh
nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao
động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi phát hành cổ phiếu, hàng
hoá bán, dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân
phối quỹ tiền thưởng, quỹ tiền lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế… Ngoài ra, nếu
người quản lý biết vận dụng sáng tạo các chức năng phân phối của tài chính doanh
nghiệp phù hợp với qui luật sẽ làm cho tài chính doanh nghiệp trở thành đòn bẩy kinh
tế có tác dụng trong việc tạo ra những động lực kinh tế tác động tới tăng năng suất,
Thang Long University Library
3

kích thích tăng cường tích tụ và thu hút vốn, thúc đẩy tăng vòng quay vốn, kích thích
tiêu dùng xã hội.
Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài
chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính thực hiện mà các nhà
quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp, để từ đó có thể đánh giá khái quát và kiểm soát được các mặt hoạt động của
doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết
định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết là
phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính, sau nữa còn phụ
thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các
nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp.
1.2. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp

Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là việc xem xét đánh giá kết quả
của việc quản lí và điều hành tài chính của doanh nghiệp thông qua các số liệu trên báo
cáo tài chính, phân tích những gì đã làm được, những gì làm chưa được và dự đoán
những gì sẽ xảy ra đồng thời tìm ra nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó đề ra các biện pháp tận dụng những
điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu và nâng cao chất lượng quản lí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính là việc ứng dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích đối với các
báo cáo tài chính tổng hợp và mối liên hệ giữa các dữ liệu để đưa các dự báo và các
kết luận hữu ích trong phân tích hoạt động kinh doanh. Phân tích tài chính còn là việc
sử dụng các báo cáo tài chính để phân tích năng lực và vị thế tài chính của một Công
ty, và để đánh giá năng lực tài chính trong tương lai.
1.2.2. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh ngiệp
Phân tích tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài
chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng
trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có
nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh
nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng, kể cả các cơ quan Nhà nước và người
4

làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các
góc độ khác nhau.
Đối với nhà quản lí: Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng
đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục
sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp
không có khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng thanh
toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi, nhà quản
lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng

của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định hướng cho giám đốc tài chính
cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ
phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài chính còn là công cụ để
kiểm soát các hoạt động quản lý.
Đối với các nhà đầu tƣ: Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ
là thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều
kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của
các doanh nghiệp.
Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích
các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư
sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó
đưa ra những quyết định phù hợp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu
nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng vì
nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận
ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm
trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của
doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét
trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính.
Đối với các chủ nợ: Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng hay
các nhà cung ứng vật tư hàng hóa cho doanh nghiệp, mối quan tâm của họ chủ yếu
hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt đến số lượng
tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn
hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ
ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số vốn của chủ sở hữu,
bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro.
Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của các
Thang Long University Library
5

khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều

quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Đối với ngƣời lao động: Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của
doanh nghiệp, người được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các
thông tin tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao
động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn
mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp
nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc: Dựa vào các báo cáo tài chính doanh
nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá,
kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh
nghiệp có tuân thủ theo đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình
hình hạch toán chi phí, giá thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách
hàng
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích
các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các
phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc
độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách
chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu về
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và
đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2.3. Quy trình phân tích tài chính
Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết
minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán tài
chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, những
thông tin về kế toán và thông tin quản lý khác, trong đó các thông tin kế toán phản ánh
tập chung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt
quan trọng. Phân tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Xử lý thông tin

Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu thập
được. Xử lý thông tin là quá trình xắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định
nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã
đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và ra quyết định.
6

Dự đoán và quyết định
Mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài chính. Đối với chủ
doanh nghiệp, phân tích tài chính nhằm đưa ra các quyết định tăng trưởng, phát triển,
tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Đối với người cho vay và đầu
tư đó là các quyết định về tài trợ và đầu tư. Đối với cấp trên của doanh nghiệp là các
quyết định quản lý doanh nghiệp.
1.2.4. Thông tin sử dụng để phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn
thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài
doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp
cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
Trong những thông tin bên ngoài, cần lưu ý những thông tin chung (thông tin liên
quan đến trạng thái kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lại suất), thông tin về
ngành kinh doanh (Thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu
ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần, ) và các thông tin
pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (các thông tin mà doanh nghiệp phải báo cáo cho
các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp )
Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có
thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin
quan trọng bậc nhất. Các thông tin cơ sở được dùng để phân tích hoạt động Tài chính
trong các doanh nghiệp nói chung là các báo cáo tài chính, bao gồm:
Bảng cân đối kế toán
Là một báo cáo tài chính, mô tả tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại một thời

điểm nhất định nào đó. Nó được thành lập từ 2 phần: Tài sản và nguồn vốn. Bên tài
sản của bảng phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo
thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó là tài sản lưu động và tài sản cố
định. Bên nguồn vốn phản ảnh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp
đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn chủ sở hữu và các khoản nợ.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng quát tình hình và kết
quả kinh doanh trong một niên độ kế toán, dưới hình thái tiền tệ. Nội dung của báo kết
quả hoạt động kinh doanh có thể thay đổi nhưng phải phản ánh được 4 nội dung cơ
bản là: doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp,
lãi, lỗ. Số liệu trong báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về phương
Thang Long University Library
7

thức kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ và chỉ ra rằng, các hoạt động kinh
doanh đó đem lại lợi nhuận hay lỗ vốn, đồng thời nó còn phản ánh tình hình sử dụng
các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của
doanh nghiệp.
Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ hay báo cáo dòng tiền mặt là một loại báo cáo tài
chính thể hiện dòng tiền ra và dòng tiền vào của một tổ chức trong một khoảng thời
gian nhất định (tháng, quý hay năm tài chính).
Báo cáo này là một công cụ giúp nhà quản lý tổ chức kiểm soát dòng tiền của tổ
chức. Bảng báo cáo dòng tiền mặt thông thường gồm có:
Dòng tiền vào: Bao gồm dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ
hoạt động đầu tư tài chính hay từ các hoạt động bất thường khác.
Dòng tiền ra: Bao gồm dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, thực
hiện hoạt động đầu tư tài chính hay thực hiện hoạt động bất thường khác.
Thuyết minh BCTC
Thuyết minh BCTC được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt

động sản xuất - kinh doanh, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp trong kỳ báo cáo mà các bảng báo cáo khác không thể trình bày rõ ràng và chi
tiết. Qua đó, nhà đầu tư hiểu rõ và chính xác hơn về tình hình hoạt động thực tế của
doanh nghiệp.
Thuyết minh BCTC gồm những nội dung cơ bản sau:
- Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
- Kỳ kế toán, đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán.
- Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán áp dụng.
- Các chính sách kế toán áp dụng.
- Thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong bảng cân đối kế toán.
- Thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong báo cáo kết quả HĐKD
- Thông tin bổ sung cho khoản mục trình bày trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
1.2.5. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp
nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên
ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và
chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp, nhưng trên
thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau.
8

1.2.5.1. Phương pháp so sánh.
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng
thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính được cải thiện
hay xấu đi như thế nào để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với mức trung bình của ngành để thấy tình
hình tài chính doanh nghiệp đang ở trong tình trạng tốt hay xấu, được hay chưa được
so với doanh nghiệp cùng ngành.

- So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng tổng số ở mỗi bản báo
cáo và qua đó chỉ ra ý nghĩa tương đối của các loại các mục, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc so sánh.
- So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến động cả về số tuyệt đối và số
tương đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
Khi sử dụng phương pháp so sánh phải tuân thủ 2 điều kiện sau:
- Điều kiện một: Phải xác định rõ “gốc so sánh” và “kỳ phân tích”.
Gốc so sánh: gốc so sánh được lựa chọn có thể là gốc không gian hay thời gian,
tùy thuộc vào mục đích phân tích. Về không gian, có thể so sánh đơn vị này với đơn vị
khác, bộ phận này với bộ phận khác, khu vực này với khu vực khác…Việc so sánh về
không gian thường được sử dụng khi cần xác định vị trí hiện tại của doanh nghiệp so
với đối thủ cạnh tranh, so với số bình quân ngành, bình quân khu vực…Về thời gian,
gốc so sánh được lựa chọn là các kỳ đã qua hay kế hoạch, dự toán. Ví dụ như: Khi xác
định xu hướng và tốc độ phát triển của các chỉ tiêu phân tích, gốc so sánh được xác
định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở kỳ trước hoặc ở hàng loạt các kỳ trước. Lúc này
sẽ so sánh trị số chỉ tiêu ở kỳ phân tích với trị số chỉ tiêu ở các kỳ gốc khác nhau. Hay
khi đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, gốc so sánh là trị số kế
hoạch của chỉ tiêu phân tích.
Kỳ phân tích: là kỳ có các thông tin, số liệu sử dụng để phân tích tình hình tài
chính cửa doanh nghiệp. Các số liệu trong kỳ phân tích sẽ được đem ra so sánh với số
liệu tương ứng ở năm được chọn là gốc so sánh
- Điều kiện hai: Các chỉ tiêu so sánh (Hoặc các trị số của chỉ tiêu so sánh) phải
đảm bảo tính chất có thể so sánh được với nhau. Muốn vậy, chúng phải thống nhất với
nhau về nội dung kinh tế, về phương pháp tính toán, thời gian tính toán.
Thang Long University Library
9

1.2.5.2. Phương pháp tỷ lệ.
Phương pháp này dựa trên các ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu phải xác

định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện được áp dụng ngày
càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Vì:
- Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn là cơ
sở để hình thành những tham chiếu tin cậy nhằm đánh giá một tỷ lệ của một doanh
nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
- Việc áp dụng tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính
toán hàng loạt các tỷ lệ.
- Phương pháp này giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và
phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng
giai đoạn.
1.2.5.3. Phương pháp Dupont.
Dupont là tên của một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh ở
Mỹ. Dupont đã chỉ ra được mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số hoạt động trên
phương diện chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn. Mô hình Dupont được thể
hiện qua công thức:
Lợi nhuận ròng
=
Lợi nhuận ròng
*
Tổng tài sản
VCSH
Tổng tài sản
VCSH
Hay ROE =ROA* Đòn bẩy tài chính
Ngoài ra, mô hình Dupont còn được khai triển chi tiết qua công thức:
Lợi nhuận ròng
=
Lợi nhuận ròng

*
Doanh thu
*
Tổng tài sản
VCSH
Doanh thu
Tổng tài sản
VCSH
Hay ROE = Hệ số lợi nhuận ròng*ROA*Đòn bẩy tài chính
Mô hình Dupont tích hợp nhiều yếu tố của báo cáo thu nhập với bản cân đối kế
toán. Trong phân tích tài chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để phân tích mối
liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ
tiêu tài chính, chúng ta có thể phát hiện ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến các chỉ
tiêu phân tích theo một trình tự nhất định.
10

Phân tích báo cáo tài chính bằng mô hình Dupont có ý nghĩa lớn đối với quản trị
doanh nghiệp thể hiện ở chỗ có thể đánh giá đầy đủ và khách quan các nhân tố tác
động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó tiến hành công tác cải tiến tổ chức quản
lý của doanh nghiệp.
Tóm lại, để tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp một cách hoàn chỉnh, hiệu
quả ta cần kết hợp nhiều phương pháp phân tích khác nhau nhằm tận dụng các ưu điểm
của từng phương pháp. Có như vậy các nhà quản lý mới có thể đánh giá được hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra các quyết định đầu tư chính xác.
1.3. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1. Phân tích khái quát tình hình biến động tài sản của doanh nghiệp
Tài sản doanh nghiệp cơ bản công bố trên bảng cân đối kế toán thể hiện cơ sở vật
chất, tiềm lực kinh tế doanh nghiệp dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích
khái quát về tài sản hướng đến đánh giá cơ sở vật chất, tiềm lực kinh tế quá khứ, hiện
tại và những ảnh hưởng đến tương lai của doanh nghiệp. Xuất phát từ mục đích này,

phân tích khái quát về tình hình tài chính được thể hiện qua các vấn đề cơ bản sau:
đánh giá năng lực kinh tế thực sự của tài sản doanh nghiệp hiện tại và đánh giá tính
hợp lý của những chuyển biến về giá trị, cơ cấu tài sản.
Để nhận định được năng lực kinh tế thực sự của tài sản doanh nghiệp, trước tiên
người phân tích nên tiến hành thẩm định giá trị kinh tế thực của tài sản doanh nghiệp
nắm giữ, xem xét tình hình chuyển đổi của chúng trên thị trường. Cụ thể, việc xem xét
này thường được tiến hành theo nội dung cơ bản sau:
+ Xem xét và đánh giá các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp
hiện nay trên thị trường có giá trị kinh tế hay không, so với giá trị kế toán trên báo cáo
kế toán cao hay thấp hơn, khả năng chuyển đổi trên thị trường của các khoản đầu tư
chứng khoán ngắn hạn như thế nào. Một khi các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn
doanh nghiệp đang nắm giữ có giá trị kinh tế cao hơn giá trị kế toán, khả năng chuyển
đổi trên thị trường diễn thuận lợi thì đây là một dấu hiệu tốt về tiềm lực kinh tế các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp, dấu hiệu này ít nhất cũng tác động
tích cực đến tiềm năng kinh tế của doanh nghiệp trong kỳ kế toán tiếp theo.
+ Xem xét các khoản phải thu trên bảng cân đối kế toán có thực hay không và
tình hình thu hồi có diễn ra thuận lợi hay không. Thông thường, khi xem xét năng lực
kinh tế của các khoản phải thu chúng ta nên quan tâm đến những dấu hiệu của các con
nợ về uy tín, về khả năng tài chính. Một khi, các dấu hiệu về con nợ đều lạc quan thì
khả năng kinh tế của các khoản nợ phải thu sẽ cao, mức sai lệch giữa giá trị thực với
giá trị kế toán nhỏ và nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của doanh
nghiệp trong kỳ kế tiếp. Ngược lại, nếu những dấu hiệu về con nợ bi quan thì giá trị
Thang Long University Library
11

kinh tế của nợ phải thu thường sẽ thấp, mức chênh lệch giữa giá trị thực với giá trị kế
toán sẽ tăng cao và đôi khi nó chỉ còn tồn tại trên danh mục tài sản doanh nghiệp chỉ là
con số kế toán.
+ Xem xét các mục hàng tồn kho của doanh nghiệp có tính hữu dụng trong sản
xuất kinh doanh và có giá trị kinh tế thực sự trên thị trường hay không.

+ Xem xét tài sản lưu động khác có khả năng thu hồi hay không, có ảnh hưởng
đến chi phí, thu nhập của doanh nghiệp tương lai hay không.
+ Xem xét tài sản cố định của doanh nghiệp hiện có nguyên giá bao nhiêu, hệ số
hao mòn như thế nào, giá trị hữu dụng và giá trị kinh tế của nó trên thị trường. Nếu
một doanh nghiệp có lực lượng tài sản cố định với tổng nguyên giá lớn, hệ số hao mòn
nhỏ, tính hữu dụng và giá trị kinh tế trên thị trường cao thì doanh nghiệp có một tiềm
lực kinh tế cao. Ngược lại, nếu một doanh nghiệp có lực lượng tài sản cố định với tổng
nguyên giá lớn, hệ số hao mòn cao, tính hữu dụng và giá trị kinh tế trên thị trường thấp
thì doanh nghiệp có một tiềm lực kinh tế kém. Ngày nay, những tiến bộ khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển nhanh chóng thì giá trị tài sản cố định trên sổ sách kế toán
có xu hướng giảm thấp so với giá thị trường nên đôi khi số liệu tài sản trên bảng cân
đối kế toán thường xa rời năng lực kinh tế thực sự của nó. Nhiều lúc người phân tích
dễ bị đánh lừa bởi số liệu khổng lồ về giá trị tài sản cố định trên bảng cân đối kế toán
nhưng đó chỉ là những tài sản không còn hữu dụng mà doanh nghiệp không thể thanh
lý, nhượng bán được. Ngược lại, những tài sản cố định như quyền sử dụng đất, tài sản
vô hình lại có hướng tăng cao nếu không xem xét rõ năng lực kinh tế tài sản cố định
rất dễ đánh giá thấp tiềm năng kinh tế của doanh nghiệp với số liệu trên bảng cân đối
kế toán.
Như đã đề cập, việc phân tích khái quát tình hình biến động tài sản còn thể hiện
thông qua việc phân tích sự biến động các khoản mục tài sản. Phân tích biến động các
khoản mục tài sản nhằm giúp người phân tích tìm hiểu sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng
của tài sản qua các thời kỳ như thế nào, sự thay đổi này bắt nguồn từ những dấu hiệu
tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh doanh, có phù hợp với việc nâng
cao năng lực kinh tế để phục vụ cho chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp hay không. Phân tích biến động các mục tài sản doanh nghiệp cung cấp
cho người phân tích nhìn về quá khứ sự biến động tài sản doanh nghiệp. Vì vậy, phân
tích biến động về tài sản của doanh nghiệp thường được tiến hành bằng phương pháp
so sánh theo chiều ngang (Phân tích theo chiều ngang so sánh các khoản mục cụ thể
của báo cáo tài chính qua một số chu kỳ kế toán) và theo chiều dọc (Phương pháp này
là so sánh một số khoản mục với một khoản mục nhất định trong cùng một kỳ kế

12

toán). Quá trình so sánh tiến hành quá nhiều thời kỳ thì sẽ giúp cho người phân tích có
được sự đánh giá đúng đắn hơn về xu hướng, bản chất của sự biến động.
1.3.2. Phân tích khái quát tình hình biến động nguồn vốn
Tương tự như phân tích khái quát về tình hình biến động tài sản, việc phân tích
tình hình biến động nguồn vốn được tiến hành thông qua các vấn đề cơ bản sau: Đánh
giá tính hợp lý, hợp pháp nguồn vốn của doanh nghiệp và Phân tích sự biến động các
khoản mục nguồn vốn.
Để nhận định được tính hợp lý và hợp pháp của nguồn vốn doanh nghiệp, trước
hết nên tiến hành xem xét những danh mục nguồn vốn trên báo cáo tài chính doanh
nghiệp hiện có tại một thời điểm có thực không, nó tài trợ cho những tài sản nào,
những nguồn vốn này doanh nghiệp được phép khai thác hợp pháp hay không. Cụ thể
việc xem xét này thường được tiến hành theo nội dung sau:
+ Xem xét và đánh giá các khoản nợ ngắn hạn doanh nghiệp đang khai thác như
vay ngắn hạn, phải trả người bán, người mua trả trước, thuế các khoản phải nộp nhà
nước có phù hợp với đặc điểm luân chuyển vốn trong thanh toán của doanh nghiệp hay
do bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh hình thành.
+ Xem xét và đánh giá các khoản nợ dài hạn doanh nghiệp đang khai thác như
vay dài hạn, nợ dài hạn khác có phù hợp với mục đích sử dụng dài hạn, phù hợp với
đặc điểm luân chuyển vốn trong thanh toán dài hạn của doanh nghiệp hay do bị động
trong sản xuất kinh doanh hình thành.
+ Xem xét và đánh giá các khoản nợ khác như chi phí phải trả, tài sản thừa chờ
xử lý, nhận ký quỹ ký cược dài hạn có thực sự tồn tại và phù hợp với mục đích sử
dụng vốn hay không. Đặc biệt là chi phí phải trả cần phải được xem xét trong mối
quan hệ với kế hoạch dài hạn của chi phí này, tính hiện thực của nó trong tương lai.
Chi phí phải trả có thể làm giảm lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp và lại làm tăng
lợi nhuận trong tương lai. Vì vậy, nếu không phân tích rõ nguồn gốc thì dễ nhận xét sai
lầm về bức tranh tài chính của doanh nghiệp.
+ Xem xét và đánh giá vốn chủ sở hữu doanh nghiệp đang khai thác như nguồn

vốn kinh doanh, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, nguồn vốn đầu tư xây
dựng cơ bản có phù hợp với loại hình doanh nghiệp hay không, phù hợp với quy
định tối thiểu về mức vốn cho từng doanh nghiệp, có phù hợp với mục đích trích lập
từng loại quỹ hay không.
Phân tích biến động các mục nguồn vốn nhằm giúp người phân tích tìm hiểu sự
thay đổi về giá trị, tỷ trọng của nguồn vốn qua các thời kỳ như thế nào, sự thay đổi này
bắt nguồn từ những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh
Thang Long University Library
13

doanh, có phù hợp với việc nâng cao năng lực tài chính, tính tự chủ tài chính, khả năng
tận dụng, khai thác nguồn vốn trên thị trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay
không và có phù hợp với chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
hay không. Phân tích biến động về nguồn vốn của doanh nghiệp thường được tiến
hành bằng phương pháp so sánh theo chiều ngang và theo chiều dọc tương tự như phân
tích tình hình biến động các khoản mục tài sản.
1.3.3. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Việc phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cho thấy hiệu quả
của các chiến lược, chính sách, kế hoạch của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp được thể hiện qua một số chỉ tiêu trong và ngoài báo cáo tài chính của
doanh nghiệp như:
Doanh thu thuần: là lượng doanh thu mà doanh nghiệp thực tế nhận được có giá
trị bằng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ
doanh thu không bao gồm giá vốn hàng bán. Doanh thu thuần được so sánh qua các
năm và so sánh với mục tiêu đạt ra đầu kỳ nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng giảm của doanh thu
thuần, trong đó có nhân tố chủ quan là tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu trong kì doanh nghiệp ký được nhiều hợp đồng cung cấp hàng hóa,
dịch vụ thì doanh thu thuần sẽ tăng. Ngược lại nếu làm ăn kém hiệu quả, doanh thu
thuần của doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khách quan

ảnh hưởng đến doanh thu thuần như: sự biến động của nền kinh tế, của chính sách, luật
pháp hay sự cạnh tranh của các đối thủ. Nếu nền kinh tế có nhiều biến động tiêu cực
như: lạm phát tăng, sức mua yếu, nợ xấu nhiều, hay Nhà nước ban hành các chính
sách hạn chế hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp thì doanh thu
thuần của doanh nghiệp sẽ giảm. Ngược lại, nếu tình hình nền kinh tế tốt, các chính
sách của Nhà nước rõ ràng, ổn định và không gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị
trường thì doanh thu thuần của công ty sẽ tăng lên.
Giá vốn hàng bán: phản ánh toàn bộ chi phí mua hàng để sản xuất sản phẩm,
hàng hoá. Nếu giá vốn hàng bán tăng lên cho thấy doanh nghiệp đang mua nhiều hàng
hóa và nguyên vật liệu đầu vào hơn. Như vậy, có thể kết luận rằng doanh nghiệp đang
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc do dự đoán được nhu cầu sử dụng hàng
hóa, dịch vụ chuẩn bị tăng nên tăng cường tích trữ hàng hóa. Ngược lại giá vốn hàng
bán giảm phản ánh doanh nghiệp đang thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc
doanh nghiệp đã tìm được nguồn cung cấp hàng hóa, nguyên vật liệu có giá thành thấp
hơn. Tỷ trọng giá vốn hàng bán trên doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ cao cho
14

thấy doanh nghiệp đang tốn quá nhiều chi phí cho hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào
và ngược lại.
Chi phí ngoài sản xuất bao gồm: Chi phí bán hàng là chi phí phục vụ cho quá
trình lưu thông hàng hoá như chi phí nguyên vật liệu, chi phí khấu hao tài sản cố định,
vận chuyển, quảng cáo, tiếp thị… và chi phí quản lý doanh nghiệp. Sự tăng giảm của
chi phí phụ thuộc nhiều vào những chính sách quản lý của doanh nghiệp cũng như tình
hình biến động giá cả nguyên vật liệu trên thị trường, chi phí nhân công và các chi phí
khác như: điện, nước, chi phí thuê mặt bằng, Thông qua việc so sánh chi phí qua các
năm có thể thấy được hiệu quả sử dụng tài sản, nguồn vốn của của doanh nghiệp.
Lợi nhuận: là số tiền lãi mà doanh nghiệp có được sau khi lấy doanh thu thuần
trừ đi giá vốn hàng bán và các loại chi phí. Sự tăng, giảm của lợi nhuận qua các năm
cho thấy kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hiệu quả hay
không hiệu quả. Lợi nhuận tăng cho thấy tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu

quả, doanh nghiệp đang bán được nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn và chi phí hoạt động,
quản lý thấp hơn các năm khác. Lợi nhuận giảm lại thể hiện tình hình làm ăn khó khăn
của doanh nghiệp do hoạt động sản xuất kinh doanh yếu kém, nhu cầu thị trường giảm
hay doanh nghiệp vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của đối thủ cạnh tranh trên thị
trường. Nếu lợi nhuận lớn hơn hoặc bằng mục tiêu đặt ra từ đầu kỳ thì các chính sách
hoạt động, quản lý của doanh nghiệp đưa ra trong kỳ đã thật sự đem lại hiệu quả như
kỳ vọng ban đầu của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận thấp hơn mục tiêu đặt ra đầu kỳ thì
doanh nghiệp cần xem xét lại các chính sách của mình nhằm đưa ra biện pháp cải thiện
khả năng sinh lời.
1.3.4. Phân tích cân đối tài sản- nguồn vốn
Mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn vốn thể hiện sự tương quan về giá trị
tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mối
quan hệ cân đối này giúp nhà phân tích phần nào nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn
vốn doanh nghiệp huy động và việc sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ, sử
dụng có hợp lý, hiệu quả hay không. Mối quan hệ cân đối này được thể hiện qua tài sản
ngắn hạn như sau:
Vốn bằng tiền
Nợ ngắn hạn
Đầu tư tài chính ngắn hạn
Nợ phải thu
Hàng tồn kho
TSLĐ khác
Thang Long University Library
15

Nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn là điều hợp lý vì dấu hiệu này thể hiện
doanh nghiệp giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sử dụng
đúng mục đích nợ ngắn hạn. Đồng thời, nó cũng chỉ ra một sự hợp lý trong chu chuyển
tài sản ngắn hạn và kỳ thanh toán nợ ngắn hạn. Ngược lại, nếu tài sản ngắn hạn nhỏ
hơn nợ ngắn hạn điều này chứng tỏ doanh nghiệp không giữ vững quan hệ cân đối

giữa tài sản ngắn hạn với nợ ngắn hạn vì xuất hiện dấu hiệu doanh nghiệp đã sử dụng
một phần nguồn vốn ngắn hạn vào tài sản dài hạn. Mặc dù nợ ngắn hạn có khi do
chiếm dụng hợp pháp hoặc có mức lãi thấp hơn lãi nợ dài hạn tuy nhiên chu kỳ luân
chuyển tài sản khác với chu kỳ thanh toán cho nên dễ dẫn đến những vi phạm nguyên
tắc tín dụng và có thể đưa đến một hệ quả tài chính xấu hơn.
Ngoài ra mối quan hệ cân đối còn được thể hiện thông qua tài sản dài hạn như sơ
đồ sau:
TSCĐ
Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Đầu tư tài chính dài hạn
Xây dựng cơ bản dở dang
Ký quỹ, ký cược dài hạn
Nếu tài sản dài hạn lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ vốn chủ
sở hữu thì đó là điều hợp lý vì nó thể hiện doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích nợ dài
hạn và cả vốn chủ sở hữu, nhưng nếu phần thiếu hụt được bù đắp từ nợ ngắn hạn là
điều bất hợp lý như trình bày ở phần cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Nếu phần tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn điều này chứng tỏ một phần nợ dài hạn đã
chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Hiện tượng này vừa làm lãng phí chi phí lãi vay nợ
dài hạn vừa thể hiện sử dụng sai mục đích nợ dài hạn. Điều này có thể dẫn đến lợi
nhuận kinh doanh giảm và những rối loạn do mất cân bằng tài chính doanh nghiệp.
Ngoài ra, khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn chúng ta
cần chú trọng đến nguồn vốn lưu động thường xuyên. Nguồn vốn lưu động thường
xuyên không những biểu hiện quan hệ giữa cân đối giữa tài sản với nguồn vốn mà nó
còn có thể cho chúng ta nhận thức được những dấu hiệu tình hình tài chính trong sử
dụng tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Vốn lưu động thường xuyên được tính
bằng TSNH trừ đi nguồn vốn ngắn hạn hoặc nguồn vốn dài hạn trừ tài sản dài hạn.
Như vậy, nếu vốn lưu động thường xuyên lớn hơn không và lớn hơn nhu cầu vốn
lưu động thiết yếu, thì đây là một dấu hiệu tài chính lành mạnh và đảm bảo cân đối
giữa tài sản với nguồn vốn trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngược lại, vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn nhu cầu tài sản ngắn hạn thiết yếu

hoặc âm thì đây là dấu hiệu tài chính bất bình thường và mất cân đối giữa tài sản với
16

nguồn vốn, nếu tình trạng này kéo dài thì có thể dẫn đến tình trạng tài chính của doanh
nghiệp rối loạn nghiêm trọng hơn, doanh nghiệp mất dần đến toàn bộ vốn sở hữu và
đến bờ vực phá sản.
1.3.5. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính
1.3.5.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các
khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ, nó cho
biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có
thể chuyển thành tiền trong mỗi giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ
đó. Để phân tích đánh giá khả năng thanh toán và các khoản nợ ngắn hạn khi chúng
đến hạn thanh toán, người ta sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết khả năng chuyển đổi tài sản có tính
thanh khoản cao thành tiền để đáp ứng nhu cầu trong ngắn hạn và được xác định bằng
công thức:
Khả năng thanh toán ngắn hạn
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết các tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản
cao của doanh nghiệp có đáp ứng được nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp hay
không. Nếu chỉ tiêu này >=1 thì toàn bộ tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp được xem
là có thể chuyển đổi thành tiền để đáp ứng được nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn.
Nếu <1 thì một phần nợ ngắn hạn của doanh nghiệp đã được đầu tư vào tài sản
dài hạn là những tài sản khó chuyển đổi thành tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán và
khi điều này xảy ra doanh nghiệp được gọi là mất khả năng thanh toán về mặt kỹ thuật.
Nếu mất khả năng thanh toán về mặt kỹ thuật kéo dài sẽ dẫn đến khả năng phá sản của
doanh nghiệp.

Khả năng thanh toán nhanh phản ánh khả năng thanh toán thực sự của doanh
nghiệp trước các khoản nợ ngắn hạn, nó cho biết những chỉ tiêu có tính thanh khoản
cao nhất trong tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có đáp ứng được nhu cầu nợ ngắn
hạn hay không. Hệ số này được tính bằng công thức:
Khả năng thanh toán nhanh
=
TSNH – hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn

Thang Long University Library
17

Hệ số này Hệ số này thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, thông
thường khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ số này > 1 vì
công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần bán bớt hàng tồn kho.
Khả năng thanh toán tức thời cho biết tiền và các khoản tương đương tiền có
đáp ứng được nhu cầu thanh toán cho các khoản nợ ngán hạn của doanh nghiệp hay
không và được tính bằng:
Khả năng thanh toán tức thời
=
Tiền và các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn
Hệ số này Tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà tỷ số về khả năng thanh
toán tức thời bằng bao nhiêu là hợp lý. Thông thường, tỷ số này xấp xỉ 0,5 là tốt. Nếu
quá lớn cho thấy tài sản của doanh nghiệp tồn tại dưới dạng tiền nhiều làm cho hiệu
quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp sẽ không cao. Ngược lại, nếu tỷ số này quá nhỏ
lại phản ánh một tình hình tài chính không lành mạnh, khó khăn trong việc thanh toán
các khoản nợ phải trả ngay.
1.3.5.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý tài sản
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu

thành tiền mặt của doanh nghiệp và được xác định theo công thức:
Số vòng quay các khoản
phải thu
=
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu
Số dư bình quân các khoản phải thu được tính bắng phương pháp bình quân các
khoản phải thu trên bảng cân đối kế toán. Doanh thu thuần được tính ở đây chính là
tổng doanh thu thuần của cả ba loại hoạt động ( hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt
động tài chính, hoạt động bất thường).
Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản thu nhanh là tốt, vì doanh
nghiệp không phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu (không phải cấp tín dụng cho
khách). Ngược lại, vòng quay quá nhỏ sẽ làm giảm doanh thu do chính sách cấp tín
dụng cho khách hàng được nới lỏng hơn.
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải
thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay các khoản phải thu
càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ và ngược lại. Kỳ thu tiền trung bình được
xác định theo công thức:
Kỳ thu tiền trung bình
=
360
Vòng quay các khoản phải thu
18

Tuy nhiên trong nhiều trường hợp kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp chưa thể có
kết luận chắc chắn, mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của doanh
nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Mặt
khác dù chỉ tiêu này có thể đánh giá là khả quan thì doanh nghiệp cần phải phân tích
kỹ hơn vì tầm quan trọng của nó và kỹ thuật tính toán đã che dấu đi các khuyết tật
trong việc quản trị các khoản phải thu.

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu trong doanh
nghiệp là điều khó tránh khỏi. Nhờ các chính sách bán chịu mà doanh nghiệp có thể
thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị trường, duy trì thị trường có sẵn, nâng cao hiệu
quả sử dụng máy móc, thiết bị… Tuy nhiên việc bán chịu có thể khiến doanh nghiệp
chịu rủi ro, đó là việc giảm giá trị hàng hoá, tốc độ chu chuyển vốn chậm, rủi ro về khả
năng thu hồi nợ. Do đó doanh nghiệp cần phải quan tâm đến kỳ thu tiền trung bình và
đưa ra các chính sách nhằm rút ngắn thời gian này.
Vòng quay hành tồn kho cho biết hàng tồn kho quay vòng bao nhiêu lần trong
một kỳ, nó phản ánh mối quan hệ giữa hàng tồn kho và giá vốn hàng bán trong một kỳ
kinh doanh theo công thức:
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Tỷ số này có giá trị cao sẽ ủng hộ lòng tin của khách hàng vào khả năng thanh
toán của doanh nghiệp, nếu tỷ số thấp sẽ cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh trì trệ
và kém năng động của doanh nghiệp đó. Nhưng cũng có thể doanh nghiệp tăng mức
dự trữ nguyên vật liệu khi dự đoán trước giá sản phẩm sẽ tăng hoặc do có sự gián đoạn
trong khâu cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất. Bởi vậy khi so sánh cần có thêm
những thông tin về dự trữ nhằm đảm bảo tính chuẩn xác. Đây là một chỉ tiêu khá quan
trọng để đánh giá hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ số này đo
lường tính thanh khoản của hàng tồn kho. Nếu việc quản lý hàng tồn kho của doanh
nghiệp không hiệu quả sẽ phát sinh chi phí lưu trữ hàng tồn kho làm giá bán tăng.
Thời gian quay vòng hàng tồn kho cho ta biết trung bình kể từ khi doanh
nghiệp mua hàng đến khi bán được hàng mất bao nhiêu thời gian theo công thức:
Thời gian quay vòng hàng
tồn kho
=
360
Vòng quay hàng tồn kho

Biến động vòng quay hàng tồn kho có thể do nhiều yếu tố tác động. Việc giảm
vòng quay hàng tồn kho có thể do bán hàn chậm, quản lý hàng tồn kho kém, do chính
sách doanh nghiệp cần dự trữ nguyên liệu do dự doán hoặc biết trước là giá tăng trong
Thang Long University Library
19

tương lai,… Ngược lại, việc giảm vòng quay hàng tồn kho nhưng cải tiến áp dụng
trong khâu bán hàng, chất lưọng sản phẩm tăng lên. Việc doanh nghiệp duy trì hàng
tồn kho thấp có thể khiến vòng quay hàng tồn kho tăng lên tuy nhiên tại một số thời
điểm có thể doanh nghiệp sẽ không đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường
làm cho doanh thu bị giảm đi.
Vòng quay các khoản phải trả ngƣời bán cho biết cứ một đồng doanh nghiệp
đi chiếm dụng của các nhà cung cấp thì có bao nhiêu đồng đầu tư cho giá vốn hàng
bán. Vòng quay các khoản phải trả được tính bằng:
Vòng quay các khoản phải
trả người bán
=
GVHB
Phải trả người bán
Chỉ tiêu này càng thấp càng tốt. Việc chiếm dụng khoản vốn này có thể sẽ giúp
doanh nghiệp giảm được chi phí về vốn, đồng thời thể hiện uy tín về quan hệ thanh
toán đối với nhà cung cấp và chất lượng sản phẩm đối với khách hàng.
Thời gian trả chậm trung bình
=
360
Vòng quay các khoản phải trả người bán
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển tiền hay số ngày
bình quân cần thiết để các khoản trả người bán thực hiện một vòng quay trong kỳ.
Thời gian luân chuyển tiền càng dài càng tốt.
Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC - Cash Conversion Cycle) được hiểu là

khoảng thời gian từ khi thanh toán các khoản nợ đến khi thu được tiền và được tình
theo công thức:
CCC = RCP + ICP – PDP
Trong đó,
RCP (Receivable Collection Period) là kỳ thu tiền khách hàng
ICP (Inventory Conversion Period) là kỳ chuyển đổi hàng tồn kho
PDP (Payable Deferral Period) là kỳ thanh toán cho nhà cung cấp
Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt càng ngắn thì thì tốc độ thu hồi vốn lưu động càng
nhanh, làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Chu kỳ tiền mặt có thể được rút
ngắn bằng cách giảm thời gian chuyển đổi hàng tồn kho qua việc xử lý và bán hàng
hóa nhanh hơn hoặc bằng cách giảm thời gian thu tiền khách hàng qua việc tăng tốc
thu nợ hoặc bằng cách kéo dài thời gian thanh toán qua việc trì hoãn trả nợ cho nhà
cung cấp.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản cho biết một đồng tài sản đem lai bao nhiêu
đồng doanh thu và được tính bằng công thức:
20

Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
=
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tài sản vận động nhanh, góp phần làm tăng doanh
thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp và ngược lại. Tuy nhiên chỉ số này phụ thuộc vào
đặc diểm của ngành nghề kinh doanh, đặc điểm cụ thể của tài sản trong các doanh
nghiệp.
Hiệu số sử dụng TSNH cho biết một đồng TSNH đem lại bao nhiêu đồng doanh
thu và được tính bằng công thức:
Hiệu suất sử dụng TSNH
=
Doanh thu thuần

TSNH
Hiệu suất sử dụng TSNH càng cao, doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả.
Hiệu số sử dụng TSDH cho biết một đồng TSDH đem lại bao nhiêu đồng doanh
thu. Tương tự như hiệu suất sử dụng TSNH, hiệu suất sử dụng TSDH được tính bằng
công thức:
Hiệu suất sử dụng TSDH
=
Doanh thu thuần
TSDH
Hiệu suất sử dụng TSDH càng cao, doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả.
1.3.5.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý nợ phải trả
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cho biết trong 1 đồng vốn hình thành nên tài sản của
doanh nghiệp thì có bao nhiêu đồng được tài trợ bằng vốn nợ, qua đó xác định nghĩa
vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ. Tỷ số này được xác định bằng công thức:
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản
=
Tổng nợ phải trả
Tổng tài sản
Tổng số nợ ở đây bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn phải trả. Chủ nợ thường
thích công ty có tỷ số nợ thấp vì như vậy công ty có khả năng trả nợ cao hơn. Ngược
lại, cổ đông muốn có tỷ số nợ cao vì như vậy làm gia tăng khả năng sinh lợi cho cổ
đông. Tuy nhiên muốn biết tỷ số này cao hay thấp cần phải so sánh với tỷ số nợ của
bình quân ngành.
Tỷ số nợ càng thấp thì mức độ bảo vệ dành cho các chủ nợ càng cao trong trường
hợp doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản và phải thanh lý tài sản.
Thang Long University Library
21

Tỷ số nợ phụ thuộc rất nhiều yếu tố: loại hình doanh nghiệp, quy mô của doanh
nghiệp, lĩnh vực hoạt động, mục đích vay. Tuy nhiên thông thường, ở mức 60/40 là

chấp nhận được. Có nghĩa Hệ số nợ là 60% (Tổng tài sản có 100 thì vốn vay là 60).
Tỷ số khả năng trả lãi này cho biết một công ty có khả năng đáp ứng được
nghĩa vụ trả nợ lãi của nó đến mức nào.
Tỷ lệ khả năng trả lãi
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Chi phí lãi vay
Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ càng cao thì khả năng thanh toán lãi của công ty
cho các chủ nợ của mình càng lớn. Tỷ lệ trả lãi thấp cho thấy một tình trạng nguy
hiểm, suy giảm trong hoạt động kinh tế có thể làm giảm EBIT xuống dưới mức nợ lãi
mà công ty phải trả, do đó dẫn tới mất khả năng thanh toán và vỡ nợ.
Tỷ số trên nếu lớn hơn 1 thì công ty hoàn toàn có khả năng trả lãi vay. Nếu nhỏ
hơn 1 thì chứng tỏ hoặc công ty đã vay quá nhiều so với khả năng của mình, hoặc công
ty kinh doanh kém đến mức lợi nhuận thu được không đủ trả lãi vay.
Tỷ số khả năng trả nợ cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng có thể sử dụng
được để chuẩn bị cho mỗi đồng trả nợ gốc và lãi, được xác định bằng công thức:
Tỷ lệ khả năng trả nợ
=
GVHB + Khấu hao + EBIT
Nợ gốc + Chi phí lãi vay
Đây là chỉ tiêu mà các nhà đầu tư vào dự án của doanh nghiệp đặc biệt quan tâm.
Nói chung đến thời điểm trả nợ, nếu K > 1 thì có thể nói là khả năng trả nợ của công ty
là khá tốt, về mặt lý thuyết hệ số này càng cao cho thấy khả năng trả nợ của doanh
nghiệp các tốt. Tuy nhiên nếu hệ số này cao quá có thể cho thấy thực trạng rằng việc
quản lý và luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp là chưa tốt.
1.3.5.4. Phân tích chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời
Đối với doanh nghiệp thì mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, nhưng lợi nhuận
không phải là chỉ tiêu để chúng ta đánh giá hiệu quả của toàn bộ quá trình đầu tư - sản
xuất - tiêu thụ, khả năng quản lý các mặt của doanh nghiệp. Muốn đánh giá được tính
hiệu quả của quá trình trên thì chúng ta cần xem xét lợi nhuận trong mối quan hệ với

các yếu tố tạo ra lợi nhuận như doanh thu, vốn, Khả năng sinh lợi là kết quả của các
quyết định của doanh nghiệp, như quyết định đầu tư, quyết định nguồn tài trợ, trình độ
quản lý tất cả các hoạt động trong doanh nghiệp. Để đánh giá khả năng sinh lời ta căn
cứ vào các tỷ số sau:
22

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (ROS) cho biết một đồng doanh thu thuần từ
bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này
càng cao thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp càng cao. ROS có công thức tính là:
ROS
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) là chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá khả
năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư, nghĩa là 1 đồng tài sản bỏ ra có thể thu được
bao nhiêu đồng lợi nhuận và có công thức tính là:
ROA
=
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tổng tài sản càng tốt và đó là
nhân tố giúp nhà quản trị quyết định có nên mở rộng sản xuất kinh doanh hay không.
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) cho biết cứ 1 đồng vốn chủ sở thì
tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận và có công thức là:
ROE
=
Lợi nhuận sau thuế
VCSH
Tỷ số này phụ thuộc vào thời vụ kinh doanh. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào quy
mô và mức độ rủi ro của công ty. Để so sánh chính xác, cần so sánh tỷ số này của một

công ty với tỷ số bình quân của toàn ngành, hoặc với tỷ số của công ty tương đương
trong cùng ngành.
1.3.6. Phân tích mối quan hệ giữu các chỉ tiêu tài chính bằng phương trình Dupont
Các tỷ số phân tích theo phương pháp so sánh được trình bày ở phần trên đều ở
dạng một phân số. Điều đó có nghĩa là mỗi tỷ số tài chính sẽ tăng hay giảm tùy thuộc
vào hai nhân tố: mẫu số và tử số của phân số đó. Tuy nhiên các tỷ số tài chính còn ảnh
hưởng lẫn nhau. Hay nói cách khác một tỷ số tài chính lúc này được trình bày bằng
một vài tỷ số tài chính khác, đó chính là nguyên lý của phương trình Dupont.
Dưới góc độ nhà đầu tư cổ phiếu, một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất là hệ
số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Do vốn chủ sở hữu là một phần của tổng
nguồn vốn hình thành nên tài sản, nên ROE sẽ phụ thuộc vào hệ số lợi nhuận trên tổng
tài sản. Mối quan hệ này được thể hiện bằng mô hình Dupont như sau:
Lợi nhuận ròng
=
Lợi nhuận ròng
*
Tổng tài sản
VCSH
Tổng tài sản
VCSH
Thang Long University Library
23

Hay ROE =ROA* Đòn bẩy tài chính
Ngoài ra, mô hình Dupont còn được khai triển chi tiết qua công thức:
Lợi nhuận ròng
=
Lợi nhuận ròng
*
Doanh thu

*
Tổng tài sản
VCSH
Doanh thu
Tổng tài sản
VCSH
Việc sử dụng nợ trong đầu tư tài sản có tác dụng tăng tỷ suất sinh lời trên vốn
chủ sở hữu nếu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và có lợi nhuận trong kì kinh doanh.
Sử dụng phương trình Dupont có ưu điểm là giúp doanh nghiệp phát hiện và tập trung
khắc phục những điểm yếu của mình. Nếu ROE của doanh nghiệp thấp hơn các doanh
nghiệp cùng ngành thì chủ doanh nghiệp và các nhà phân tích có thể dựa vào phương
trình Dupont để tìm ra nguyên nhân chính xác. Ngoài ra, các chỉ số trên còn dùng để
định hướng phát triển doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó
khan mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong tương lai. Nhà phân tích tài chính có thể
kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ và phương trình Dupont để đưa ra các kết quả
phân tích chính xác nhất.
1.3.7. Phân tích lưu chuyển tiền thuần
Hầu hết các công ty chỉ tiến hành phân tích tài chính trên bảng cân đối kế toán và
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mà chưa hề tiến hành phân tích báo cáo lưu
chuyển tiền tệ. Việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ giúp các nhà quản lý thấy
rõ luồng tiền của công ty sinh ra bằng cách nào và công ty đã sử dụng chúng ra sao.
Mặt khác, dòng lưu chuyển tiền tệ đặc biệt quan trọng đối với một công ty, nó cho
phép công ty có thể mở rộng hoạt động của mình, thay thế các tài sản cần thiết, tận
dụng các cơ hội của thị trường và chi trả cổ tức cho các cổ đông. Chính vì vậy, để
hoàn thiện công tác phân tích tài chính thì việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ là
không thể thiếu.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thể hiện luồng tiền vào ra, tình hình thu chi ngắn hạn
của doanh nghiệp trong một chu kỳ kinh doanh. Báo cáo có 03 phần chính thể hiện các
dòng tiền thu/chi đến từ các hoạt động:
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh

Các luồng tiền từ hoạt động kinh doanh chủ yếu bắt nguốn từ các hoạt động sinh
lời cơ bản của doanh nghiệp. Bởi vậy, nhìn chung luồng tiền này là kết quả giao dịch
và sự kiện có tham gia vào việc xác định lãi hoặc lỗ ròng. Các luồng từ các hoạt động
kinh doanh thường có: tiền nhận được từ việc bán hàng hay cung cấp dịch vụ; tiền
nhận được từ bản quyền, phí, hoa hồng và các doanh thu khác; tiền trả cho người lao
động; tiền trả hay khoản hoàn thuế thu nhập (Trừ trường hợp chũng có thể được xác
định cụ thể là hoạt động đầu tư hay tài chính); tiền nhận hay trả từ các hợp đồng dùng
24

cho các mục đích mua bán hay thương mại; các giao dịch mua bán máy móc hay mua
bán các trái phiếu cho mục đích thương mại…cũng được xem là các luồng tiền từ hoạt
động kinh doanh. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh dương cho biết công ty đang làm
ăn có hiệu quả, có khả năng trả ngay các khoản nợ đến hạn. Ngược lại, dòng tiền từ
hoạt động kinh doanh âm tức là công ty đang làm ăn thua lỗ, lúc này doanh thu từ việc
bán hàng hóa và dịch vụ không đủ trang trải các chi phí phát sinh, ảnh hưởng lớn đến
lợi nhuận của công ty.
Dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra
liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, bao gồm:
- Các khoản chi tiền mua nhà xưởng, máy móc, thiết bị, tài sản vô hình, các tài
sản dài hạn khác liên quan đến các chi phí tăng đã được vốn hóa và các nhà xưởng,
máy móc, thiết vị tự tạo; các khoản tiền nhận từ bán các nhà xưởng, máy móc, thiết bị,
tài sản vô hình và các tài sản dài hạn khác.
- Trả tiền để mua cổ phần hay các công cụ nợ của các doanh nghiệp khác và lợi
tức trong các liên doanh; tiền thu từ việc bán cổ phần hay các công cụ nợ từ các doanh
nghiệp khác và lợi tức liên doanh
- Tiền trả hoặc thu từ các hợp đồng trong tương lai, hợp đồng kỳ hạn…
Dòng tiền từ hoạt động đầu tư âm thể hiện quy mô của công ty ngày càng được
mở rộng. Bởi vì công ty cần nhiều tiền để đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị hơn
số tiền thu được từ việc khấu hao, thanh lý và nhượng bán tài sản cố định khiến cho

doàng tiền từ hoạt động đầu tư bị âm. Ngược lại, nếu dòng tiền từ hoạt động đầu tư
dương lại cho thấy công ty đang thu hẹp quy mô.
Dòng tiền từ hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính là những nghiệp vụ làm thay đổi cơ cấu tài chính của doanh
nghiệp. Cụ thể: tăng, giảm các khoản vay; tăng giảm VCSH khi huy động, phát hành
cổ phiếu; mua lại trái phiếu, cổ phiếu; trả cổ tức, lợi nhuận giữ lại. Nếu lưu chuyển từ
hoạt động kinh doanh không đủ cho hoạt động đầu tư buộc doanh nghiệp phải điều
phối dòng tiền từ hoạt động tài chính. Đó có thể là một khoản vay sẽ được tăng lên,
phát hành thêm cổ phiếu hay là sự giảm đi hoặc thậm chí ngưng trả các khoản cổ tức.
Và các dòng thể hiện số tiền mặt có tại thời điểm đầu kỳ, dòng tiền ròng thu được
trong kỳ (từ 3 hoạt động chính trên), và số lượng tiền mặt còn lại vào cuối kỳ của báo
cáo. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp cho nhà quản trị một số thông tin quan trọng
như: Lượng tiền mặt có được hiện tại là do đâu; tiền được sử dụng chủ yếu cho những
hoạt động nào; sự khác biệt giữa lợi nhuận và lượng tiền mặt hiện có.
Thang Long University Library
25

Dòng tiền từ hoạt động tài chính dương cho thấy lượng vốn cung ứng từ bên
ngoài tăng, công ty đang tích cực huy động nguồn vốn nợ. Ngược lại, dòng tiều từ hoạt
động tài chính âm chứng tỏ công ty đang sử dụng nhiều nguồn vốn bên trong doanh
nghiệp để hoạt động hơn là huy động nguồn vốn vay bên ngoài.
Một số chỉ tiêu phân tích lƣu chuyển tiền thuần của doanh nghiệp
- Tỷ trọng dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Tỷ trọng dòng tiền từ
hoạt động kinh doanh
=
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Tổng dòng tiền vào
Tỷ số này là tỷ lệ phần trăm của dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của
một công ty so với tổng dòng tiền thu vào từ tất cả các hoạt động của công ty. Không

có một tỷ lệ phần trăm chính xác nào để tham chiếu, nhưng rõ ràng, tỷ số này càng cao
càng tốt. Cũng cần lưu ý rằng tỷ số này trong các công ty sẽ khác với tỷ số trung bình
của ngành. Nhà đầu tư nên theo dõi diễn biến lịch sử của chỉ số này để phát hiện ra
những sai khác đáng kể so với dòng tiền trung bình của công ty/doanh thu cũng như so
sánh chỉ số này của công ty với các công ty trong ngành. Ngoài ra, cần theo dõi xem
khi doanh thu tăng thì dòng tiền tăng như thế nào; và điều quan trọng là chúng thay đổi
với tốc độ ngang nhau theo thời gian hay không.
- Tỷ trọng dòng tiền từ hoạt động đầu tƣ
Tỷ trọng dòng tiền từ hoạt
động đầu tư
=
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt
động đầu tư
Tổng dòng tiền vào
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng dòng tiền thu vào có bao nhiêu phần trăm là
dòng tiền từ hoạt động đầu tư. Chỉ tiêu này âm cho thấy công ty đang tích cực đầu tư
mua sắm máy móc, trang thiết bị, cơ sở vật chất. Ngược lại chỉ tiêu này dương lại cho
thấy công ty thu hẹp quy mô hoạt động.
- Tỷ trọng dòng tiền từ hoạt động tài chính
Tỷ trọng dòng tiền từ hoạt
động tài chính
=
Lưu chuyển thuần từ hoạt động
tài chính
Tổng dòng tiền vào
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng dòng tiền thu vào có bao nhiêu phần trăm là
dòng tiền từ hoạt động tài chính. Chỉ tiêu này dương cho thấy công ty đang sử dụng
nguồn vốn nợ nhiều hơn và ngược lại chỉ tiêu này âm cho thấy công ty đang sử dụng
nhiều vốn chủ sở hữu hơn.

×