Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tìm hiểu các biện pháp mà Ngân hàng Trung ương áp dụng để kiểm soát mức cung tiền từ năm 2010 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.05 KB, 35 trang )

CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng trung ương
DTBB: dự trữ bắt buộc
NHNN: Ngân hàng nhà nước
CSTT: Chính sách tiền tệ
CPI: chỉ số giá tiêu dùng
TCTD: Tổ chức tín dụng
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ổn định tài chính tuy không phải là nội dung mới nhưng vấn đề này vẫn
luôn nhận được sự quan tâm hàng đầu của Chính phủ các nước, các tổ chức
quốc tế cũng như các khu vực trên thế giới. Các quốc gia trên thế giới đều nhận
thức sâu sắc tầm quan trọng của ổn định tài chính như một điều kiện cần thiết để
ổn định kinh tế vĩ mô do sự gắn kết chặt chẽ của hai yếu tố này.
Lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là một trong những lĩnh vực có độ nhạy cảm
cao nhất, nó tác động tới hầu hết các ngành nghề trong nền kinh tế hiện nay. Do
vậy, ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng được xem là nội dung chủ chốt
quan trọng, chính yếu trong ổn định hệ thống tài chính. Trong công cuộc ổn định
tài chính, các quốc gia đều nhận thấy vai trò quan trọng của NHTW, bởi NHTW
có sự tập trung và am hiểu thị trường tài chính, các định chế và cơ sở hạ tầng –
là những vấn đề chính yếu để thực hiện “chính sách an toàn vĩ mô” nhằm ổn
định tài chính. Tại Việt Nam, cho đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò
cốt lõi trong hệ thống tài chính với tổng quy mô tín dụng của hệ thống ngân
hàng chiếm trên 80% tổng cung ứng vốn ra nền kinh tế hàng năm. Vì vậy, vai
trò kiểm soát mức cung tiền của NHTW ra nền kinh tế ngày càng quan trọng.
Nhận thức được điều này, em lựa chọn đề tài “Tìm hiểu các biện pháp mà Ngân
hàng Trung ương áp dụng để kiểm soát mức cung tiền từ năm 2010 - 2014” làm
tiểu luận kinh tế vĩ mô để nhìn lại chặng đường điều hành chính sách tiền tệ của
NHTW trong những năm qua, từ đó đưa ra một số kiến nghị của bản thân để
hoàn thiện hệ thống điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, góp phần kiềm chế


lạm phát, ổn định, tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai.
Do kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, em mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
2
CHƯƠNG 1 – GIỚI THIỆU CHUNG.
1.1/ Giới thiệu chung về kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và
quan tâm đến những vấn đề mà bất cứ quốc gia nào trong cơ chế thị trường đều
gặp phải, đó là: Làm thế nào để tăng trưởng nhanh và ổn định; Làm thế nào để
kiềm chế lạm phát; Làm thế nào để tạo ra nhiều việc làm cho người lao động;
Làm thế nào để ổn định tỷ giá hối đoái và cân bằng cán cân thanh toán; làm thế
nào để phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và phân phối của cải một cách công
bằng giữa các thành viên trong xã hội.
1.1.1/ Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học nghiên cứu sự vận động
và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao
gồm: mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá cả chung và cán cân thương mại của
một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp câu hỏi: Điều gì
quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quyết định sự thay đổi
của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn?
Nói cách khác, kinh tế vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của một quốc gia
trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát,
thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân
phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng
buộc về nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song sự lựa chọn đúng

đắn nào cũng cần đến sự hiểu biết sâu sắc về các hoạt động mang tính khách
quan về hệ thống kinh tế.
1.1.2/ Phương pháp nghiên cứu.
Kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng
thể. Theo phương pháp này, kinh tế vĩ mô xem xét sự cân bằng đồng thời của tất
3
cả các thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường
tài chính), xem xét đồng thời khả năng cung cấp sản lượng của toàn bộ nền kinh
tế, khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời mức giá
cả và sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Đây là nhân tố quyết định đến hiệu
quả của hệ thống kinh tế.
Thực chất, việc khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian
khác nhau hiện tại, ngắn hạn, dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta
phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định đến các
biến số kinh tế vĩ mô này. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và
công cụ phân tích kinh tế thích hợp. Những kiến thức và công cụ phân tích này
đã được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học kinh tế
thuộc nhiều thế hệ khác nhau.
Ngoài ra, kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân
tích phổ biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình toán và
đặc biệt là các mô hình kinh tế lượng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong
phân tích kinh tế vĩ mô.
1.2/ Mức cung tiền và vai trò kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng trung ương.
1.2.1/ Tiền cơ sở (H).
Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền
phát hành chủ yếu là tiền mặt được gọi là tiền cơ sở (cơ số của tiền).
Trong quá trình lưu thông, một phần của lượng tiền này được các tác nhân
giữ lại ở dạng tiền mặt để chi tiêu dần, và một phần nằm lại tại các ngân hàng
trong hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ.
Vậy lượng tiền cơ sở ban đầu bằng tiền mặt đang lưu hành và tiền mặt dự

trữ ở các ngân hàng:
H = U + R
Trong đó: H: tiền cơ sở
U: tiền mặt lưu hành
R: tiền dự trữ trong các ngân hàng
4
Khi NHTM tham gia vào thị trường tiền tệ, thì việc xác định tổng lượng
tiền trở nên phức tạp hơn bởi sự quay vòng bộ phận tiền cơ sở trong tay các
ngân hàng. Sự quay vòng đã làm tăng mức cung tiền cơ sở còn được gọi là tiền
mạnh lên nhiều lần.
Mức cung tiền.
Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm tiền
mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn của các NHTM.
Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, bởi hoạt
động tạo ra tiền ngân hàng của hệ thống NHTM.
Mức cung tiền trước hết được quyết định bởi quy mô của lượng tiền cơ sở
và sau đó là khả năng tạo ra tiền của hệ thống NHTM nhờ số nhân tiền tệ.
Hình 1: Mức cung tiền
MS = U + D
MS = m
M
.H
Trong đó: H: tiền cơ sở được NHTW phát hành
m
M
: số nhân tiền tệ
MS: mức cung tiền
U: tiền mặt lưu hành
D: tiền gửi ở các NHTM
1.2.2/ Số nhân tiền.

Số nhân của tiền là tỷ lệ khuếch đại lượng tiền cơ sở thông qua hoạt động
của hệ thống NHTM và sự kiểm soát tiền tệ của NHTW.
m
M
= MS / H
5
Nếu tỷ lệ dự trữ ở NHTM bằng tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTW và mọi
giao dịch trong nền kinh tế đều thông qua ngân hàng thì số nhân tiền m
M
= 1/r
b
Nhưng trong thực tế, một phần tiền được công chúng giữ lại dưới dạng
tiền mặt (không gửi vào ngân hàng) và tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTM (r
a
) có thể
lớn hơn tỷ lệ DTBB. Trong hình 1, mức cung tiền bao gồm tiền mặt và tiền gửi
không kỳ hạn.
MS = U + D
Gọi tỷ lệ giữ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi sẽ là s = U/D, và tỷ
lệ dự trữ thực tế r
a
= R
a
/D.
Trong đó: r
a
: tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTM
R
a
: lượng dự trữ thực tế của NHTM

D: tiền gửi
H = U + R
a
m
M
= = = =
Từ công thức trên cho thấy số nhân tiền m
M
phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ
thực tế của NHTM và phụ thuộc vào tỷ lệ giữa tiền mặt lưu hành và tiền gửi (s).
* Tỷ lệ dự trữ thực tế r
a
càng nhỏ thì số nhân tiền càng lớn. Tỷ lệ dự trữ
thực tế r
a
phụ thuộc các nhân tố sau:
- Tỷ lệ DTBB do NHTW quy định.
- Tính ổn định của các nguồn tiền mặt vào ra của các NHTM.
- Sự thiệt hại do phải trả lãi suất nếu phải vay tiền khi thiếu hụt dự trữ.
* Tỷ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi (s) càng nhỏ, số nhân tiền càng lớn.
Tỷ lệ (s) phụ thuộc vào:
- Thói quen thanh toán của dân chúng.
- Tốc độ tăng của tiêu dùng.
- Phụ thuộc vào khả năng sẵn sàng đáp ứng tiền mặt của các NHTM.
- Trong trường hợp (s) rất nhỏ hoặc bằng 0 và r
a
= r
b
thì m
M

= 1/r
b
.
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền
kinh tế. Vì tiền có chức năng là trao đổi nên khi hàng hóa và dịch vụ được sản
6
xuất ra nhiều hơn thì cũng cần thiết phải tăng lượng cung tiền và ngược lại. Mối
quan hệ này được xác định trong phương trình trao đổi về lượng của tiền tệ.
M.V = P.Q = GNP
n
Trong đó: M: mức cung tiền
V: tốc độ lưu thông tiền tệ
P: mức giá trung bình
Q: sản lượng thực tế
Có thể viết lại như sau:
M =
Giả sử tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tương đối ổn định thì mức cung tiền
(M) cần phải được điều chỉnh theo GNP
n
. Sự thay đổi của mức cung tiền có tác
động trực tiếp tới lãi suất thị trường tiền tệ và qua lãi suất tác động đến tiêu
dùng, đầu tư, xuất nhập khẩu. Do vậy, việc kiểm soát mức cung tiền (M) được
coi là một chính sách tiền tệ quan trọng đặc biệt trong quản lý nền kinh tế ở tầm
vĩ mô.
Muốn kiểm soát được (M), ta có MS = H x m
M
, thì phải có khả năng tác
động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ (m
M
). Vai trò này được NHTW

đảm nhận.
1.2.3/ NHTW và vai trò kiểm soát tiền tệ của NHTW.
* Chức năng của NHTW:
- Ngân hàng của các NHTM: NHTW giữ các khoản dự trữ cho các
NHTM, thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống các NHTM và hoạt động
như là một “người cho vay của phương sách cuối cùng” đối với NHTM trong
trường hợp khẩn cấp như là rơi vào tình trạng không còn khả năng thanh toán.
- Ngân hàng của Chính phủ: NHTW giữ các tài khoản cho Chính phủ,
nhận tiền gửi và cho vay đối với Kho bạc nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khóa
của Chính phủ bằng việc mua tín phiếu của Chính phủ.
- Kiểm soát mức cung tiền để thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn định và
phát triển nền kinh tế.
- Hỗ trợ giám sát và điều tiết hoạt động của thị trường tài chính.
7
* Thực thi chính sách tiền tệ:
NHTW điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công cụ
khác nhau nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền (m
M
). Ngoài
ra, NHTW có thể trực tiếp kiểm soát có lựa chọn một số khoản tín dụng và một
số biện pháp khác.
(1) Nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở là thị trường tiền tệ của NHTW được sử dụng để mua bán
trái phiếu kho bạc của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu điều chỉnh lương tiền
trong lưu thông. Các chứng từ có giá mà NHTW thường sử dụng để tiến hành
nghiệp vụ thị trường mở là các chứng khoán kho bạc, vì thị trường của những
chứng khoán này rất “lỏng” và có dung lượng kinh doanh lớn.
Muốn tăng lượng cung tiền, NHTW sẽ mua trái phiếu ở thị trường mở.
Kết quả là đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự
trữ ở các NHTM. Điều đó dẫn đến tăng khả năng cho vay và nhận gửi nhờ số

nhân tiền tệ. Kết quả là cung tiền tăng gấp bội so với tiền mua trái phiếu của
NHTW. Để có kết quả ngược lại, NHTW sẽ bán trái phiếu kho bạc của Nhà
nước trên thị trường mở.
Với cách vận hành như trên, nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu điểm
hơn so với các công cụ khác của CSTT, đó là:
- NHTW có thể chủ động tiến hành mà không phải phụ thuộc vào nhu cầu của
các ngân hàng trung gian.
- Nghiệp vụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ
mức độ nào. Nếu mong muốn của NHTW là thay đổi dự trữ của các ngân hàng ở
biên độ lớn, NHTW sẽ mua hoặc bán nhiều chứng khoán và ngược lại.
- Nghiệp vụ này dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc
tiến hành. Giả sử NHTW thấy rằng cung tiền tệ tăng quá nhanh do mua bán trên
thị trường quá nhiều, thì NHTW có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến
hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể hoàn thành nhanh chóng, không gây nên
những chậm trễ về mặt hành chính.
8
Tuy nhiên, để phát huy hết hiệu quả của công cụ này, đòi hỏi hầu hết tiền
trong lưu thông phải nằm ở tài khoản ngân hàng, nghĩa là phải có sự phát triển
cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Mặt khác, phải có một thị
trường tài chính phát triển. Vì vậy công cụ này được sử dụng thường xuyên
nhất, hiệu quả nhất đối với NHTW của các nước công nghiệp phát triển – nơi
có công nghệ ngân hàng tiên tiến và thị trường tài chính hoàn chỉnh. Còn đối với
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc sử dụng công cụ này chưa
mang lại hiệu quả cao.
(2) Quy định tỷ lệ DTBB:
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng trung gian phải đưa
vào dự trữ theo luật định. Mức DTBB cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ DTBB
do NHTW quy định. Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà ngân
hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mỗi ngân

hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc,
NHTW có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có
khả năng cung ứng cho nền kinh tế.
Một cách khái quát, khi NHTW tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB thì NHTW có
thể làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, và kết
quả là khối lượng tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho
nền kinh tế giảm hoặc tăng. Nhìn chung, DTBB là công cụ mang tính chất hành
chính của NHTW nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của ngân hàng trung gian cho
nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền.
Ưu điểm của việc sử dụng DTBB để kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể
tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền lực.
Mặt khác, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ DTBB thì tác động của nó đến
khối tiền tệ là rất lớn. Tuy nhiên, ưu điểm vừa nêu cũng có mặt trái của nó. Đó
là khi NHTW muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ, nó khó có thể thực hiện
được nếu sử dụng công cụ này. Bên cạnh đó, việc thay đổi tỷ lệ DTBB cũng
phải để cho các ngân hàng trung gian một thời gian đủ để tăng khoản dự trữ lên
mức bắt buộc mới.
9
(3) Lãi suất chiết khấu:
Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTW trong việc thực thi CSTT,
bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTW cho
vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân
hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng.
NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả
khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu).
Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá cả khoản vay
tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm khả năng cho vay nền kinh
tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền cung ứng giảm.
Ngược lại, khi NHTW giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu, giá khoản vay
rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho

vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng
tăng lên.
Ưu điểm của công cụ này:
- Do việc vay mượn thực hiện trên nền giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn
tương đối rõ ràng, việc hoàn trả tương đối chắc chắn.
- Thông qua biện pháp chiết khấu và tái chiết khấu, cụ thể là thông qua lãi suất
chiết khấu, NHTW có thể thực hiện tốt vai trò người cho vay cuối cùng.
Tuy nhiên, công cụ này cũng có những hạn chế nhất định:
- NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM
phải đi vay, tức là NHTW có quyền lựa chọn vay hay không. Do vậy NHTW
khó có thể kiểm soát được việc cung ứng tiền một cách có hiệu quả. Hơn nữa lại
rất khó trong việc đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết khấu.
- Khi NHTW ấn định một lãi suất đặc biệt nào đó tạo ra sự biến động khoảng
cách giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường, dẫn tới thay đổi ngoài dự
kiến khối lượng tiền vay, khó kiểm soát cung tiền tệ.
(4) Hạn mức tín dụng:
10
Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung
ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định (năm hay quý), phù hợp với
mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó.
Khi ổn định hạn mức tín dụng cho mỗi thời kỳ, NHTW thường căn cứ vào
kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kỳ
đó. Hạn mức tín dụng này không phải là chỉ tiêu ấn định cho toàn bộ nền kinh tế
mà chỉ là chỉ tiêu ấn định đối với các doanh nghiệp. Các NHTM có thể thực hiện
hạn mức tín dụng của mình lớn hơn hạn mức tín dụng mà NHTW ấn định cho
ngân hàng mình nếu NHTM này huy động được lượng vốn lớn hơn. Vì vốn do
các NHTM huy động và cho vay ra dù lớn hơn rất nhiều lần hạn mức tín dụng
được NHTW cung ứng cũng không ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ vào hay
rút ra khỏi lưu thông.
Công cụ này có ưu điểm đó là một biện pháp mạnh có hiệu quả đáng kể.

Thông qua đó, NHTW khống chế được lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, trên cơ sở hạn mức tín dụng, NHTW tiến hành phân bổ hạn
mức tín dụng. Cùng với thời gian, hạn mức có thời điểm phù hợp, có thời điểm
lại không phù hợp. Điều này gây ra khó khăn cho các đơn vị khi nhu cầu của
khách hàng tăng cao, trong khi đó các nguồn đáng kể hạn mức tín dụng cũng
không đủ.
Kiểm soát hạn mức là cách kiểm soát gò bó, cứng nhắc không phù hợp
với cơ chế hiện nay, một cơ chế đòi hỏi sự quản lý phải hết sức mềm dẻo, uyển
chuyển, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm mất đi cơ hội đầu tư của một số
ngân hàng, giảm khả năng điều tiết của NHTW. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng hạn
mức tín dụng không thể một sớm một chiều mà cần có thời gian, vì vậy tính kịp
thời khó đảm bảo.
Việc kiểm soát bằng hạn mức tín dụng có thể là một trong nhiều nguyên
nhân đẩy lãi suất lên. Trong khi nhu cầu chiết khấu để vay NHTW của một số
ngân hàng phát sinh không được giải quyết do hết hạn mức tín dụng thì ở một số
ngân hàng khác hạn mức tín dụng lại tạm thời dư thừa. Ở đây, quan hệ trao đổi
sẽ diễn ra và chi phí sẽ góp phần đẩy lãi suất lên.
11
CHƯƠNG 2 – CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT MỨC CUNG TIỀN CỦA
NHTW GIAI ĐOẠN 2010 – 2014.
2.1/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014.
Năm 2010, chỉ số tiêu dùng CPI tháng 12 tăng 1,98% đẩy lạm phát cả
nước ở mức 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu
được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình quân từng tháng (cách tính mới của Tổng cục
thống kê) thì lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.
Bảng 1 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2010 và 2009.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Ta có thể thấy lạm phát tăng cao những tháng đầu năm và cuối năm, mức
tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%.

Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%, tiếp đó
là hàng ăn 16,18%, nhà ở - vật liệu xây dựng 15,74%, các ngành giao thông,
hàng hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn
thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6%. Chỉ số giá vàng tăng
36,72%, chỉ số USD tăng 7,63%. Về CPI vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI
khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%, cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
Bước sang năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng đã có
xu hướng giảm.
12
Bảng 2 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2011 và 2010
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng trước, thấp
hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và 2010.
Đây cũng là tháng thứ năm liên tiếp trong năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp
hơn 1%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, các nhóm có chỉ số giá tăng cao
hơn mức tăng chung là: may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%; nhóm nhà hàng
ăn uống tăng 0,69%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,86%. Các nhóm hàng
hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung là: nhà ở và vật liệu
xây dựng tăng 0,51%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%, văn hóa, giải trí và du
lịch tăng 0,35%, thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,24%, giao thông tăng 0,16%, giáo
dục tăng 0.05%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số giảm 0,09%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với cùng kỳ năm trước tăng 18,13%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.
Bảng 3 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2012.
13
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Bảng 4 – So sánh tốc độ tăng CPI các tháng năm 2012.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng
0,27% so với tháng trước, lạm phát 2012 được kiềm chế ở mức 6,81%. Trong năm
2012 có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết các tháng chỉ tăng dưới 0,5%.

Cụ thể, theo phân tích của Tổng cục thống kê , CPI tăng không quá cao
vào 2 tháng đầu năm (tăng 1% vào tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng 2) nhưng
tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng 2,2%, chủ yếu do tác động của nhóm
thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm
dần trong những tháng cuối năm.
Nhìn lại năm 2012, Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê Đỗ Thức cho
biết, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 (tăng 6,81% so với cùng kỳ năm 2011) xấp xỉ
mức tăng 6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của
năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011, nhưng lại là năm giá có nhiều
biến động bất thường. Cụ thể chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá cao vào 2
tháng đầu năm (0,1% vào tháng 1 và 1,37% vào tháng 2), nhưng tăng cao nhất
vào tháng 9 với mức tăng 2,2%, chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ
y tế và nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong các
tháng cuối năm, điều này thể hiện tính kịp thời và hiệu quả của việc triển khai
Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 26/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng
cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá.
14
Theo Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng cả nước năm 2013 chỉ tăng
6,04%, đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Theo đó, chỉ số giá
tiêu dùng tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với
cùng kỳ năm trước.
Bảng 5 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2013.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Trong các nhóm hàng hóa dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có
chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%,
may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
0,49%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm gồm: giao
thông giảm 0,23%, bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Mức tăng trưởng của năm
tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm
2012 và có tín hiệu phục hồi.

Bước sang năm 2014, con số lạm phát của năm đã thấp ngoài dự đoán của
Tổng cục thống kê khi qua 12 tháng chỉ tăng 1,86%. Đây là mức lạm phát thấp
hơn cả những năm 1996 – 1999.
15
Bảng 6 – Chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 và so sánh từ năm 2004 đến 2014.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
So với tháng 11/2014, chỉ số giá tiêu dùng của tháng 12 tiếp tục giảm
0,23%, nối tiếp xu thế tăng trưởng âm của tháng 11, đây là tháng thứ 3 liên tiếp
của năm 2014 có chỉ số giá giảm.
Theo bảng công bố của Tổng cục thống kê, chỉ có 2 nhóm giảm giá mạnh
là nhà ở, vật liệu xây dựng giảm 0,88% và nhóm giao thông giảm sâu 3,01%. Xu
hướng âm giá này hoàn toàn thuận chiều theo xu hướng giảm giá xăng dầu liên
tục. Các nhóm hàng còn lại đều tăng rất khiêm tốn dưới 0,5% như nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống chỉ tăng 0,04%, nhóm đồ uống thuốc lá tăng 0,24%, nhóm
giày dép mũ nón may mặc tăng 0,5%. Nhóm bưu chính viễn thông là nhóm tăng
mạnh nhất nhưng cũng chỉ ở tỷ lệ 0,92%.
Nhìn lại chặng đường 15 năm qua, mức lạm phát dưới 2% của Việt Nam
trong năm 2014 thấp hơn cả năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,7%, năm 2002 là
4%, năm 2003 là 3%. So với con số lạm phát kỷ lục năm 2008, những năm trở lại
đây, lạm phát đã từng bước được kiềm chế. Để đạt được điều này, các nhà lãnh
đạo đã phải nỗ lực sử dụng hiệu quả các biện pháp kinh tế vĩ mô, mà trong đó
không thể không kể đến những giải pháp để kiểm soát mức cung tiền của NHTW.
2.2/ Các biện pháp NHTW đã áp dụng để kiểm soát mức cung tiền giai
đoạn 2010 - 2014.
NHTW được biết đến như là một cơ quan vận hành đảm bảo sự ổn định
tiền tệ và điều tiết thị trường tiền tệ. Sự ổn định ở đây được xét trên khía cạnh ổn
định của giá cả trong nước, tỷ giá và của hệ thống thanh toán. Thông thường
16
NHTW sẽ thực hiện vai trò của mình thông qua các công cụ CSTT, người cho
vay cuối cùng và hoạt động thanh tra, giám sát, điều tiết hoạt động ngân hàng. Tại

Việt Nam, NHNN đảm nhận vai trò như là một NHTW, và vai trò đó ngày càng
được khẳng định trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, đặc biệt
là sau năm 2008. Cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, NHNN Việt Nam
đã thực hiện điều chỉnh mức cung tiền phù hợp qua từng thời kỳ thông qua các
công cụ của CSTT góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế quốc gia.
2.2.1/ NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2010.
Trong năm 2010, góp phần vào các kết quả khả quan của kinh tế nhà
nước, NHNN đã điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp với
Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực tế, góp
phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Cụ thể là:
- Điều hành linh hoạt các công cụ CSTT (nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn,
hoán đổi ngoại tệ, DTBB) để tăng lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông,
đáp ứng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế với tốc độ tăng 23%; tỷ trọng
tiền mặt lưu thông trong tổng phương tiện thanh toán giảm so với các năm trước.
- Phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai Nghị định số
41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp và nông thôn, ban hành cơ chế khuyến khích các TCTD mở rộng cho vay
vốn với lãi suất thấp hơn khu vực khác, thông qua giảm DTBB, cho vay tái cấp
vốn, mở rộng mạng lưới TCTD.
- Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức
8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát
việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, điều hành lãi suất huy động và lãi
suất cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất
huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm). Hai tháng cuối
năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm, kết hợp
điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy độngVND
14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm
cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho
17
vay 14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm, lãi

suất thị trường nội tệ liên ngân hàng 9,5-12%/năm).
- Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp đảm
bảo an toàn hệ thống. Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, ban hành quy định
mới phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của hệ thống
TCTD nước ta về tỷ lệ an toàn.
2.2.2/ NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2011.
Tuy nhiên, năm 2011, trước dự báo của các tổ chức quốc tế và tình hình
kinh tế thế giới tăng trưởng không mấy khả quan, thậm chí còn có thể chậm hơn
năm 2010, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính
tiền tệ toàn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho quá trình phục hồi nền kinh tế
thế giới. Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan
giải như lạm phát, nhập siêu cao, tình trạng đô – la hóa trong nền kinh tế, một bộ
phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng khoán, ngoại hối…)
diễn biến còn phức tạp. Để tháo gỡ dần khó khăn, đồng thời góp phần thực hiện
thành công Nghị quyết số 51/2010/QH12 ngày 08/11/2010 của Quốc hội về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, ngay từ đầu năm, Chính phủ chỉ đạo
sát sao các Bộ, ngành chức năng trong nền kinh tế, đặc biệt là ngành ngân hàng
tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Chủ
trương của Chính phủ được thể hiện rõ nét thông qua Nghị quyết số 02/NQ-CP
ngày 09/01/2011 về điều hành CSTT và đặc biệt là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày
24/02/2011 của Chính phủ.
Trên cơ sở đó, ngay từ đầu năm 2011, NHNN đã xác định mục tiêu định
hướng trong việc điều hành CSTT là điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và
thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mô, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng
trưởng tín dụng dưới 20%, điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn
cho sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các công cụ CSTT và biện pháp
điều hành được thực hiện phù hợp với quy định của Luật NHNN, chỉ đạo của
Chính phủ và điều kiện thực tế của thị trường tài chính – tiền tệ.
18

Quán triệt tinh thần đó, ngay từ những tháng đầu năm 2011, NHNN đã
quyết liệt trong việc thay đổi chính sách điều hành, đặc biệt trong lĩnh vực quản
lý ngoại hối, công cụ lãi suất. Đồng thời cũng rất chủ động, linh hoạt trong công
tác quản lý, nhằm đảm bảo tính kịp thời, thích ứng của các chính sách ban hành
phù hợp với thực tế và chỉ đạo của Chính phủ trong từng giai đoạn. Chính vì
vậy, sau gần nửa năm thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, thông
qua công tác điều hành CSTT, NHNN Việt Nam cũng đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận, đảm bảo sự ổn định, tính thông suốt của thị trường tiền tệ,
kiểm soát được lãi suất, mức tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh
toán theo mục tiêu đã đề ra.
Một trong số đó là nâng cao hiệu quả của công cụ lãi suất (đặc biệt là lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở - OMO), kết
hợp hài hòa với các công cụ gián tiếp nhằm đảm bảo tính thanh khoản trong hệ
thống, kiểm soát được sức ép gia tăng lãi suất.
Nếu năm 2008, để kiểm soát lạm phát, hạ nhiệt thị trường tín dụng, lãi
suất cơ bản được sử dụng như một công cụ chính yếu với tần suất và mức độ
điều chỉnh lớn, thì trong nhứng tháng đầu năm 2011, để phù hợp với tinh thần
của Luật NHNN ban hành năm 2010 chủ yếu sử dụng lãi suất cơ bản làm công
cụ chống cho vay nặng lãi nên NHNN đã liên tục điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất tái chiết khấu. Cho đến thời điểm nửa đầu năm 2011, NHNN đã 4
lần điều chỉnh tăng đối với lãi suất tái cấp vốn và 3 lần điều chỉnh tăng đối với
lãi suất tái chiết khấu kể từ đầu năm 2011, nâng tỷ lệ lãi suất tái cấp vốn lên
14% và lãi suất tái chiết khấu lên mức 13%.
19
Bảng 7 – Lãi suất điều hành của NHNN 6 tháng đầu năm 2011.
Xu hướng điều hành này là một bước tiến tích cực của NHNN trong công
tác điều hành lãi suất, từng bước cơ cấu lại các mức lãi suất cho phù hợp với
thông lệ quốc tế, giúp NHNN thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay cuối cùng
của mình, cũng như ngăn chặn được sự ỷ lại và lạm dụng nguồn vốn giá rẻ của
một số NHTM từ NHNN. Đồng thời, các mức lãi suất này cũng đã phát được tín

hiệu điều hành CSTT của NHNN, thực hiện tương đối tốt vai trò là lãi suất định
hướng trên thị trường (lãi suất trên thị trường OMO dao động bình quân trong
khoảng 13-14%; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dao động từ 12-13,18%).
Nhờ đó mà hoạt động điều tiết thị trường của NHNN qua thị trường mở trong
những tháng đầu năm tương đối trôi chảy; giữ vững được thanh khoản cả hệ
thống, kết hợp hài hòa giữa thị trường và quản lý. Thành công đầu tiên phải kể
đến là NHNN đã hút về gần hết lượng tiền cung ứng phục vụ Tết Nguyên Đán
(toàn bộ lượng tiền cung ứng phục vụ cho dịp Tết khoảng 130 nghìn tỷ đồng đã
được NHNN rút về hơn 100 nghìn tỷ đồng) khi mà lượng tiền gửi dịp Tết 2011
tăng mạnh so với Tết năm 2010, NHNN đã quyết định tăng mức tiền mặt ra lưu
thông và chuyển tiền đến những khu vực có nhu cầu lớn.
20
Bảng 8 – Diễn biến lãi suất VND một số kỳ hạn trên thị trường liên ngân
hàng năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011.
Ngoài ra, NHNN cũng quyết tâm thực hiện hiệu quả công cụ hạn mức tín
dụng, hạn chế cung tiền thông qua kênh tín dụng, kết hợp hài hòa với công cụ lãi
suất nhằm thực hiện mục tiêu giảm tổng cầu theo tinh thần của Nghị quyết 11
trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/3/2011 về thực hiện giải pháp tiền tệ và
hoạt động ngân hàng, cụ thể:
- Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng hạn mức 20%
- Điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất kinh doanh, nông
nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ,
giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ
xuống mức 22% đến 30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011.
Nhờ đó, đến cuối năm 2011, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng lần
lượt tăng khoảng 10% và 12%, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều
chỉnh phù hợp với diến biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ. Việc tăng
cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trần lãi
suất huy động đã tạo điều kiện cho việc giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và
cho vay trong những tháng cuối năm 2011. Trong đó, lãi suất cho vay nông

nghiệp, nông thôn và xuất khẩu giảm 0,5 – 1%/năm và dao động ở mức 14,5% -
17%, thậm chí chỉ còn 13,5%.
Tình hình kinh tế những tháng cuối năm 2011 có dấu hiệu cải thiện, GDP
năm 2011 tăng 5,89%, lạm phát so với cùng kỳ năm trước có dấu hiệu chững lại
21
và giảm dần từ mức 22% trong tháng 10/2011 xuống 20% trong tháng 11 và
18,13% trong tháng 12.
2.2.3/ NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2012.
Để định hướng thị trường này, ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đề ra
mục tiêu giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012,
đồng thời đưa ra lộ trình giảm trung bình mỗi quý 1%/năm. Từ tháng 5/2012,
NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh vực ưu tiên
là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và
nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND
đối với các lĩnh vực ưu tiên được điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống
12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm lãi suất tiền gửi VND.
Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi
suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của
năm 2007. Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất kinh
doanh khác và cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay đối
với các khách hàng tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và tín
dụng tăng lần lượt 20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức
thấp (6,8%), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Nhìn chung, trong giai đoạn 2011-2012, NHNN chủ yếu sử dụng các công
cụ: lãi suất tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở
OMO, kiểm soát hạn mức tín dụng… cho thấy một chính sách điều hành CSTT
thận trọng của Chính phủ, các công cụ được sử dụng một cách linh hoạt hơn,
cung tiền được kiểm soát chặt chẽ.
22
Bảng – Biến động lãi suất năm 2012 so với năm 2011.

Chỉ tiêu 2010 2011 2012
M2 Mục tiêu 25 15-16 14-16
Thực hiện 33.3 12.4 17
Tín dụng Mục tiêu 25 20 15-17
Thực hiện 31.2 14.4 5.5
Bảng – Diễn biến cung tiền và tăng trưởng tín dụng 2010-2012.
(Nguồn: Ngân hàng nhà nước)
Nghiên cứu diễn biến chỉ tiêu cung tiền M2 của thời kỳ 2011-2012 cho
thấy: kết quả điều hành M2 giai đoạn 2011-2012 theo xu hướng thực hiện sát với
mục tiêu đề ra hơn nhiều so với năm 2010. Tuy nhiên, sự cắt giảm đột ngột và với
mức giảm lớn M2 so với thực hiện các năm trước đó làm suy giảm nghiêm trọng
tổng cầu của nền kinh tế, phát sinh thêm những khó khăn cho kinh tế vĩ mô.
Mức chênh lệch của năm 2011 là +3,63% và mức thực hiện năm 2012 là
17% vượt mục tiêu đề ra không đáng kể, giảm 50% mức cung tiền thực tế thực
hiện bình quân năm 2004-2010.
Từ năm 2010 đến 2012, tỷ lệ DTBB của các TCTD đối với tiền gửi VND
cố định 3% và không thay đổi.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, NHNN cũng kiểm soát cung tiền qua công
vụ thị trường mở theo Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo
Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN và Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi
bổ sung Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN. Trong thời gian này, nghiệp vụ thị
trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày càng mở rộng, góp phần giải quyết
23
khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh của các TCTD. Thông qua
hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả
dụng của các TCTD, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp
đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và cho vay của
TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.
Bảng – Diễn biến lãi suất OMO năm 2011-2012.
2.2.4/ NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2013.

Trên cơ sở kết quả điều hành CSTT đã đạt được, và các mục tiêu do Quốc
hội và Chính phủ đề ra trong năm 2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt
và đồng bộ các công cụ CSTT, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông
nhằm đảm bảo ổn định TTTT, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ. Tuy nhiên, với
thực tế trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều thách thức và phục hồi
chưa vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đình trệ kéo dài và chính sách tài khóa
cạn kiệt dư địa, thì sức ép lên CSTT tiếp tục gia tăng.
Nhiều chuyên gia kinh tế đã dự đoán rằng: Tăng trưởng tín dụng sẽ không
như kỳ vọng. Lượng cung tiền được kiểm soát chặt chẽ trong Quý I/2013 trước
nguy cơ lạm phát tiền tệ có thể quay trở lại sau các lần cắt giảm lãi suất liên tiếp
cuối năm 2012. Kênh OMO được sử dụng triệt để giai đoạn sát Tết Nguyên Đán
để cung ứng thanh khoản cho hệ thống.
24
Lượng bơm ra ồ ạt trên 51 ngàn tỷ đồng qua kênh này trong 3 phiên trước
Tết đã nhanh chóng được hút cạn ngay trong những phiên giao dịch đầu tiên sau
kỳ nghỉ lễ.
Bảng – Diễn biến cung tiền giai đoạn 2001-2013.
Trong khi đó, tín phiếu NHNN là kênh chính để thu hút lượng tiền cung
ứng ra thị trường qua hoạt động mua vào ngoại tệ của NHNN trong tháng 1 và
đầu tháng 2, với khối lượng phát hành ròng đạt trên 54 ngàn tỷ đồng trong 3
tháng đầu năm.
Sáu tháng đầu năm 2013, NHNN tiếp tục hạ lãi suất điều hành tổng cộng
2% sau 2 lần điều chỉnh giảm và cuối tháng 3 và đầu tháng 5 cùng với việc hạ
trần lãi suất huy động 0,5%.
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tiếp tục giảm mạnh và đã giảm
khoảng 8-13% so với cuối năm 2011. Bình quân lãi suất cho vay đã về mức lãi
suất của giai đoạn 2005-2006 và thấp hơn cả năm 2007.
25

×