Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Ảnh hưởng của nho giáo, phật giáo và đạo giáo đến đời sống của người việt ở làng xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.99 KB, 12 trang )

Ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đến đời
sống của người Việt ở làng xã.
1. Nho giáo
1.1. Giới thiệu sơ lược về Nho giáo.
Nho giáo, còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết
lý và học thuyết chính trị do Đức Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ
của ông phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị.
Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư,
Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) hay Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học,
Trung Dung, Mạnh Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam Cương
đó là các mối quan hệ vua-tôi, cha-con, vợ chồng và Ngũ Thường ( Nhân,
Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Nho giáo ảnh hưởng hầu hết các nước phong kiến
phương Đông qua quá trình giao thoa và đồng hóa.
Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là
nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc
để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp
phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo
chế độ lễ pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này
đặt ra. Cương - thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo
thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương
- thường với nội dung “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử
vong, tử bất vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không
có lòng trung, cha xử con chết, con không chết là không có hiếu) là sợi dây
trói buộc con người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ và hành
động.
Ba mục tiêu của người quân tử: đạt đạo, đạt đức, và biết thi, thư, lễ, nhạc.
Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều hay còn gọi là ngũ luân: đạo vua tôi, đạo
cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè. Đạt đức gồm nhân, trí,
dũng. Khổng Tử nói: “Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được.
Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ
hãi”. Biết “thi, thư, lễ, nhạc” tức là người quân tử còn phải có một vốn văn


hóa toàn diện.
Hành đạo: Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm
quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành
“tề gia, trị quốc, thiên hạ bình “. Việc hành đạo hay cai trị có hai phương
châm là nhân trị và chính danh – cai trị bằng tình người và mọi người làm
đúng chức phận.
Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I (TCN). Ngay từ khi du nhập vào Viêt
Nam một mặt Nho giáo là công cụ thống trị của chính quyền đô hộ, một mặt
sự truyền bá Nho giáo cùng với việc phổ biến chữ Hán đã đưa tới cho Việt
Nam kho tàng tri thức về tự nhiên và xã hội. Thế kỷ XV, Nho giáo có vị trí
độc tôn ở Việt Nam. Với quá trình du nhập và phát triển như vậy Nho giáo
đã có những ảnh hưởng to lớn đến đời sống của người Việt, đặc biệt là người
Việt ở làng xã.
1.2. Ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống người Việt ở làng xã.
Làng, hạt nhân của xã hội Việt Nam trong lịch sử từng được nhiều nhà
nghiên cứu đi sâu giới thiệu hết sức phong phú, nhất là những vấn đề liên
quan tới lịch sử, cấu trúc xã hội và cơ sở kinh tế, cũng như hoạt động tín
ngưỡng văn hóa, sinh hoạt cộng đồng.
* Về mặt tích cực:
- Tư tưởng Đức, Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người đối xử
nhân ái, khoan dung với nhau, Đức lễ với hệ thống các quy định chặt chẽ đã
giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử theo khuôn phép, thứ bậc…
- Trong xã hội, đạo lý làm người được đề cao tới mức tuyệt đối, người đàn
ông luôn gánh trên mình đạo lý Tam Cương, Ngũ thường. Tức là phải tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ và quan niệm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Còn người phụ
nữ thì luôn luôn phải sống theo đạo lý Tam tòng, Tứ đức. trong đó Tam tòng
là : “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” còn Tứ đức là :
Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
- Với mối quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ thì phải tuyệt đối trung
thành với mối quan hệ một chiều.

+ Bề tôi phải tuyệt đối trung thành với vua.
+ Con không được bất hiếu với cha (mẹ)
+ Vợ phải tuyệt đối chung thuỷ với chồng.
- Mọi tập tục của làng xã đều được duy trì và chấn chỉnh theo điển lệ của
Nho gia. Đó là sự chấn chỉnh mọi phép tắc, lễ nghi từ dòng họ đến làng xã
và cả việc thờ phụng chung của làng xã.
- Để giữ gìn gia phong, các gia đình đều có phép tắc riêng, bắt nguồn từ
“Gia lễ”, tác phẩm kinh điển của Nho giáo. Trong gia đình, mọi nề nếp, gia
phong, điều lệ được các nho gia châm chước điển lệ Nho giáo mà cụ thể hóa
và gọt giũa nhằm răn dạy, lưu truyền đời này sang đời khác. Trong làng
xóm, các tập tục, quy ước để hình thành các lệ làng, lai lịch sự tích thần làng
đều được những nhà nho văn bản hóa. Nho giáo có vai trò rất lớn trong các
hoạt động tín ngưỡng và văn hóa-xã hội làng xã từ thời xưa.
- Trong làng xã cổ truyền Việt Nam từng tồn tại phổ biến hương ước- lệ làng
thành văn- sản phẩm văn hóa phi vật thể khá đặc sắc. Hương ước là kết quả
của quá trình phát triển làng xã, vừa chịu sự tác động và tiếp thu Nho giáo.
* Về mặt tiêu cực:
- Thực chất về mối quan hệ cương – thường trong Nho giáo có phần thể hiện
thói gia trưởng. Trong gia đình thì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Trong quan
hệ vợ chồng thì “ phu xướng phụ tòng”, trong xã hội luôn đề cao vai trò của
người cha, người chồng. Ở trong quan trường thì vua quan luôn là người cao
nhất, và kẻ dưới nhất nhất phải nghe theo.
- Trong gia đình đến làng xã đều ảnh hưởng sâu sắc khuôn phép nho giáo về
tư tưởng trưởng quyền, tộc quyền, phụ quyền và nam quyền. Ngay cả những
làng được vua ban biển “ Mĩ tục khả phong” cũng là theo tiêu chí mĩ tục của
Nho giáo.
- Làng xã Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng Nho giáo, và ngày càng
trở lên khép kín với các “lệ làng” có nhiều khác biệt, thậm chí cả đối lập với
“phép nước”.
2. Đạo giáo.

2.1. Giới thiệu sơ lược về Đạo giáo.
Đạo giáo là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, được xem là tôn
giáo đặc hữu chính thống của xứ này. Đạo giáo xuất hiện vào thế kỉ IV TCN
với việc ra đời tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử.
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được là tôn giáo
này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ
khác. Đạo giáo thâu nhiếp nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời nhà Chu
(1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên
địa, ngũ hành, thuyết về năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh
Dịch . Nhưng, ngoài chúng ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như
điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh
ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích
đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ
những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân kinh của Trang Tử,
một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên
trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là
Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà
Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN.
Luân lý Đạo giáo bao gồm:
+ Quan niệm về vũ trụ và vạn vật: theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành
hình, trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu,
gọi là ĐẠO. Đạo biến hóa ra Âm Dương. Âm Dương xô đẩy và hòa hiệp tạo
ra vũ trụ và vạn vật.
+ Quan niệm về nhân sinh: khuyên người đời không nên quá tôn trọng và
thiên về đời sống vật chất, phải tiết chế lòng ham muốn, nên chú trọng tinh
thần, lấy cái tâm đè nén cái khí, thà bỏ cái thân nầy mà giữ được Đạo và
Đức.
+ Lý vô vi: Vô Vi nghĩa là không làm, tức là không can thiệp và tự nhiên, để
con người sống theo tự nhiên và cùng với tự nhiên tiến hóa. Lý Vô Vi gồm:
Vô cầu, Vô tranh, Vô đoạt, Vô chấp.

Đạo trong sự trình bày của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự
nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: "Người ta bắt chước Đất, Đất bắt chước
Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên". Nó là nguồn gốc của
vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn
vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ
là do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của
Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ
trụ.
Đạo giáo thờ "Đạo" và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là "Thái Thượng Lão
Quân", coi ông là hóa thân của "Đạo" giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục
đích của việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo
Đạo giáo là sống lâu. Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các
pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh; Đạo
giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh
bất tử. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ,
giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng
số, coi đất, thơ văn, bút ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển.
Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử.
Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Phái Nội tu (cũng gọi là Nội đan)
là phái phổ biến hơn. Nội tu tức là luyện tập, dùng Tinh và Khí làm dược
liệPhái Nội tu (cũng gọi là Nội đan) là phái phổ biến hơn. Nội tu tức là luyện
tập, dùng Tinh và Khí làm dược liệu, vận dụng Thần, trải qua trình tự tu
luyện nhất định, làm cho Tinh – Khí – Thần biến thành nội đan, kết lại ở
đan điền (“đan điền” có nghĩa là “ruộng đan”, tức là nơi luyện đan). Nội đan
kết tụ ở đan điền này còn gọi Thánh thai, có tác dụng trường sinh bất tử, trở
thành thần tiên.Nói đến phái Nội tu phải kể đến Chử Đồng Tử, người được
coi là ông tổ của Đạo giáo ở Việt nam (gọi là Chử Đạo Tổ). Phái Ngoại
dưỡng (cũng gọi là phái Ngoại đan) là phái ít phô biến hơn ở Việt nam. Phái
này cho rằng con người có thể thành tiên sống lâu bất tử nhờ uống thuốc
trường sinh (kim đan

Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có
hai phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn.
Chử Đồng Tử được coi là ông tổ của Đạo giáo Việt Nam nên còn có tên Chử
Tổ Đạo. Điều này thể hiện tính tổng hợp của các tôn giáo khi vào Việt Nam
vì Chử Đồng Tử còn được coi là người đầu tiên tu thành Phật.
2.2. Ảnh hưởng của Đạo giáo đến đời sống của người Việt ở làng xã.
Đạo giáo từ Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam được biết đến dưới dạng
Đạo giáo phù thủy. Nó có nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật
của người dân Việt nên dễ dàng ăn sâu vào tâm lý, tập quán của người Việt
thông qua các dạng bùa phép, thần chú để chữa bệnh tật và trị tà ma.
Để phân biệt rạch ròi đâu là dấu hiệu của Đạo giáo trong các tín ngưỡng
mang tính dân gian thì rất khó. Bởi vì tín ngưỡng dân gian từ xa xưa của
người Việt cũng mang rất nhiều yếu tố phù thủy, và cũng rất nhiều yếu tố
thần tiên. Vì vậy, điều dễ thấy hơn là sự dung hòa Tam giáo trong tâm linh
người Việt. Ví như biểu tượng chim hạc, linh quy xuất hiện rất nhiều trong
đình chùa miếu mạo ở các làng xã và cả từ đường của tư gia. Hạc hay rùa là
các biểu tượng của tiên đạo, trường sinh.
Hoặc như thuật ngữ “buddha” vốn có nghĩa là “phật”, nhưng khi du nhập
vào nước ta và được bản địa hóa thành “bụt” thì lại không được dùng để chỉ
“phật” mà dùng để chỉ một ông tiên với nhiều phép biến hóa cứu giúp người
nghèo khổ. Hình tượng ông bụt, ông tiên, bà tiên, hay cô tiên đã trở nên rất
quen thuộc và phổ biến trong các câu chuyện cổ tích dành cho trẻ em và
cũng xuất hiện khá phổ biến trong các hình thức văn học dân gian khác, như
“Việt điện u linh”, “lĩnh nam chích quái”, “truyền kỳ mạn lục”, “truyền kỳ
tân phả” và các tác phẩm tương tự như thế.
Các khái niệm vốn đặc hữu của Đạo giáo như Bồng Sơn, Nhược Thủy, Bồng
Lai (nơi tiên ở) cũng xuất hiện khá nhiều trong đời sống của người Việt, đặc
biệt là đối với giới sỹ phu, có chữ nghĩa. Tương tự, khái niệm “tiên” cũng
vậy. Những thành ngữ kiểu như “được voi đòi tiên” hay “sướng như tiên”
hoặc có liên quan tới “tiên” được sử dụng khá thường xuyên trong đời sống.

Thậm chí trong nhiều bài văn khấn gia tiên, câu kết thường là “xin tiễn vong
linh, lại về tiên giới”.
Đạo giáo phù thủy thờ các vị thần là Ngọc Hoàng Thượng Đế (Ngọc
Hoàng), Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công),
người Việt còn thờ các vị thánh của riêng mình như Đức Thánh Trần (Trần
Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh Công chúa). Việc thờ đức Thánh
Trần với tam phủ (nữ thần trời-đất-nước) và tứ phủ (nữ thần mây-mưa-sấm-
chớp) đi liền với tín ngưỡng đồng bóng.
Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại
nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, nhất là tại các
vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ. Và chính vì giáo lý Đạo Lão ít
được biết đến một cách tường tận,mà chỉ được hiểu một cách mơ hồ qua
những yếu tố mang tính phù thủy nên ở nhiều người Việt hiện nay nó thể
hiện bằng sự mê tín dị đoan, đồng bóng thái quá.
3. Đạo Phật
3.1. Giới thiệu sơ lược về Đạo Phật.
Đạo Phật (Buddhism) xuất hiện vào thế kỷ thứ VI trước CN ở Ấn Độ, có
nguốn gốc chính thống là do Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập và truyền dạy.
Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để
xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công
nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc
hay giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật
Nhân - Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu
báo ứng. Đạo Phật không có thái độ phân biệt đẳng cấp.
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):
+ Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý.
+ Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định.
+ Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và
Tứ Diệu đế (4 chân lý).

Cơ sở tư tưởng và cốt lõi của Phật pháp là Tứ diệu đế. Bốn chân lý giải thích
bản chất của sự khổ trong luân hồi, nguyên nhân của sự khổ, và làm thế nào
để giải trừ đau khổ. Bao gồm:
• Khổ đế: chân lý về sự Khổ: đau trên thân gồm: sinh, già, bệnh, chết;
khổ tâm gồm: sống chung với người mình không ưa, xa lìa người thân
yêu, mong muốn mà không được, chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là
một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên phớt lờ, cũng không
nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải thừa
nhận nó.
• Tập đế: chân lí về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân
thường thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng
nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử
luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên quan nằm trong
12 nhân duyên.
• Diệt đế: chân lí về diệt khổ: là trạng trạng thái không có đau khổ, là
một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi
chấm dứt lòng ham muốn, và có sự hiểu biết của trí tuệ chấm dứt vô
minh.
• Đạo đế: chân lí về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đi
đến sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo.
Phương tiện hay pháp môn để thành tựu con đường Bát chánh đạo là
37 phẩm trợ đạo.
Nền tảng Đạo Phật: là tứ thánh đế. Đạo Phật là đạo giải quyết khổ đau với 2
khái niệm quan trọng là Nhân Quả và Luân hồi.
• Nhân Quả:
+ Đạo Phật giải thích là mọi sự việc đều có lý do từ Nhân Quả. Nghĩa là mọi
sự việc đều là kết quả từ nguyên nhân trước đó. Và sự việc đó chính nó lại sẽ
là một nguyên nhân của kết quả sau này. Các sự việc tương tác Nhân Quả
phức tạp lẫn nhau gọi là trùng trùng duyên khởi. Nhân có khi còn gọi là
Duyên hay Nghiệp, và một khi đã gieo Duyên hay Nghiệp thì ắt sẽ gặt Quả

(để phân biệt tích cực với tiêu cực một cách tương đối thì có khái niệm
"thuận duyên", "nghịch duyên" hoặc "Thiện nghiệp", "Ác nghiệp"). Từ Nhân
đến Quả có yếu tố Duyên. Duyên là điều kiện thuận lợi cho phép Quả tới
nhanh hơn dự kiến (thuận duyên) hoặc điều kiện cản trở trì hoãn Quả tới
chậm hơn, đôi khi triệt tiêu Quả (nghịch duyên).
+ Nhân quả tương tác theo luật hạt giống: hạt táo không thể sinh ra quả bưởi,
hạt xoài không thể sinh ra quả đào. Nhân quả đạo đức là một ứng dụng của
duyên khởi (nguyên lí duyên khởi là quy luật vận hành của vạn vật). Các
nhân cùng loại nhưng trái chiều sẽ tương tác, bù trừ nhau, cái nào mạnh hơn
sẽ trổ quả sau khi bù trừ xong, ví dụ: về nghiệp tuổi thọ của một người, thiện
nghiệp (trồng cây, phóng sanh, cứu mạng người khác) và ác nghiệp (sát
sanh, giết người) đã gieo sẽ bù trừ nhau, nếu ác nghiệp nhiều hơn thì người
đó sẽ nhận phần ác nghiệp sau khi đã được trừ với thiện nghiệp, bị bệnh tật
hoặc tai nạn làm giảm tuổi thọ. Học thuyết nhân quả dựa trên kinh tạng
nguyên thủy lí giải rằng nghiệp đã gieo có thể chuyển được do gieo nhân
mới đối lập với nhân cũ.
+ Dù con người dù không thể thấy được toàn bộ, không thể lý giải được
hoàn toàn nhân quả này thì mối quan hệ Nhân Quả vẫn là một quy luật tự
nhiên khách quan. Con người dù không thể hiểu hết, thấy hết, thậm chí có
thể họ không tin Nhân Quả, nhưng quy luật này vẫn vận hành và chi phối
vạn vật. Thời gian giữa Nhân và Quả là xuyên suốt thời gian vũ trụ chứ
không chỉ trong một kiếp sống. Việc này dẫn đến 1 khái niệm là Luân hồi.
• Luân hồi:
Luân hồi chỉ cho việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống. Chết là hết 1 kiếp,
tâm thức mang theo nghiệp đi tái sinh kiếp mới. Hình thức của 1 kiếp sống
là khác nhau, có thể chuyển đổi giữa các loài, các thế giới (cõi súc sinh, cõi
trời, cõi người, cõi a-tu-la…). Quan hệ Nhân Quả quyết định cách thức Luân
hồi, hay nói cách khác tùy theo Duyên hay Nghiệp đã tạo mà sẽ Luân hồi
tương ứng để nhận Quả.
Chết là hết một kiếp, nhưng lại là khởi đầu của một kiếp khác, nối tiếp vô

cùng tận. Dù có hết 1 kiếp sống thì vẫn sẽ tiếp tục Luân hồi sang kiếp khác
để nhận Quả. Còn Luân hồi là còn khổ và Đạo Phật chỉ rằng Luân hồi chỉ có
thể bị phá vỡ nếu đạt Giác ngộ. Nghĩa là có thể thoát khỏi Luân hồi sinh tử
nếu biết cách "đoạn diệt" các nguyên nhân dẫn dắt Luân hồi. Đạo Phật gọi
đó là giải thoát và toàn bộ Phật pháp đều nhằm chỉ ra con đường giải thoát,
như Phật đã nói "Như mặn là vị của nước biển, còn vị của đạo ta là giải
thoát".
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm: Không sát sinh; Không nói sai sự thật; Không tà
dâm; Không trộm cắp; Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói
điều ác, không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ 3 trước
Công nguyên. Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
• Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành
và phát triển rộng khắp;
• Thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
• Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
• Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.
3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống của người Việt ở làng-xã.
Từ xa xưa phật giáo đã có vai trò rất lớn trong gia đình, dòng họ, làng xã
Việt Nam. Điều đó thể hiện qua nếp sống, nếp sinh hoạt hằng ngày của
người dân từ vật chất đến tinh thần,. Văn hóa phật giáo dần dần in đậm trong
tâm thức người Việt.
Nếu như trong gia đình, dòng họ, làng xã Việt Nam ta có tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên, thì Phật Quan Âm trong tâm thức dân gian người Việt cổ cũng
được xem như là tổ tiên. Nếu như thần linh được xem là những người phù

hộ độ trì cho nhân dân ta từ xa xưa thì Phật cũng được họ xem như là thần
linh. Điều này cho thấy phật đóng vai trò quan trọng trong tâm linh người
Việt cổ truyền.
• Phật giáo đến với nước ta trong bối cảnh đất nước bị ngoại xâm
phương Bắc đô hộ, và trong làng xã Việt Nam ta lúc này chịu sự ảnh
hưởng rất lớn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Phật giáo đến mang
đến cho họ sự giải thoát. Dưới sự cai trị khắc nghiệt của phương Bắc
đời sống nhân dân ta rất cơ cực, chính vì vậy phật giáo là chổ dựa tinh
thần cho họ. Đạo phật không phân biệt đẳng cấp, tư tưởng này giúp
con người biết đấu tranh để dành lại quyền lợi của mình trước các thế
lực ngoại xâm.
• Phật giáo len lỏi vào đời sống thường nhật của bộ mặt làng xã. Giúp
con người có niềm tin vào cuộc sống, con người tin rằng “ở hiền thì sẽ
gặp lành”, sống tốt thì Phật sẽ phù hộ độ trì.
• Vai trò của phụ nữ được nâng lên trong xã hội. Đối với tư tưởng Nho
giáo thì quyền lợi của người phụ nữ ở làng xã không có. Điển hình
như ở Đình làng, người phụ nữ không được phép đặt chân đến, không
được phép tham gia bất kì hoạt động nào của làng. Còn đối với ngôi
chùa làng thì đây là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của mọi người,
phụ nữ được tham gia và hầu như là đóng vai trò rất quan trọng tại
đây. Chỉ có ở chùa thì họ mới có tiếng nói, có được sự giải thoát về
tình thần.
• Các nhà sư ngày xưa học theo Phật không những truyền dạy Phật
pháp cho người dân mà họ còn dạy văn hóa, chữa bệnh cho những
người trong làng, dần dần nó hình thành nên mối liên hệ rất gần gũi
giữa đời sống nhân dân với phật giáo. Và chùa làng trở thành nơi sinh
hoạt văn hóa của người dân trong làng.
• Con người ai ai cũng luôn mong muốn được bình yên, sức khỏe, mọi
điều tốt đẹp sẽ đến với họ và họ tìm đến đạo phật tìm đến chùa để cầu
may mắn cho mình, cầu duyên phận, cầu đảo, cầu siêu…. Khi người

dân cần thì đạo Phật lại đáp ứng nhu cầu đó, các nhà sư sẽ tham gia
cúng cho người dân.
• Nhân dân ta có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và khi đạo Phật đến đã
dung hòa với tín ngưỡng đó. Phật giáo dạy cho con người phải biết
nhớ đến cội nguồn, nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục. Đạo làm
con là phải hiếu thảo với cha mẹ…Và cách giáo duc của đạo phật
mang tính hiền hòa dễ tiếp nhận chứ không áp đặt giống như Nho
giáo.
• Phật giáo mang lại tính cố kết cộng đồng rất lớn cho đời sống làng xã
Việt Nam cổ truyền. Tính chất của Phật giáo là từ bi, bác ái, rất dể tiếp
thu. Vì vậy dần dần Phật giáo đã gắn kết con người lại với nhau.
Phật giáo Việt Nam trong gia đình, dòng họ, làng xã Việt Nam cổ truyền phát triển
rất mạnh trãi qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, từ giai đoạn manh nha du nhập, đến
thời kì cực thịnh ở thời nhà Lý nhà Trần. Đến giai đoạn thời Lê sơ, Nho giáo được
tôn sùng và đạo Phật không được coi trọng, tuy nhiên trong làng xã Việt Nam thì
nó vẫn phát triển rất mạnh mẽ, bởi lẽ cơ sở vững vàng của Phật giáo là lãng xã- nơi
đã thấm nhuần các tư tưởng từ bi hỷ xạ, bình đẳng, độ lượng, khoan dung.
Kết luận:
Đặc điểm tôn giáo của người Việt là đồng thuận và dung hợp. Dung hợp giữa Nho,
Phật, Đạo và tín ngưỡng dân gian tồn tại trong gia đình,làng xã.Tất cả đều dung
hòa mà linh hoạt đáp ứng những nhu cầu tinh thần,tình cảm,tâm linh của con
người. Ba tôn giáo mang màu sắc riêng, đặc trưng riêng, tuy nhiên không đối chọi
nhau mà hoà quyện ,bổ sung,hỗ trợ cho nhau . Ba tôn giáo bên ngoài du nhập vào
Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian ở làng xã bản địa mà hoà quyện
vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến đổi nhất định. Ví dụ Nho giáo
không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành.
Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ
nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều
vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Đây chính là những nét riêng của tín
ngưỡng Việt Nam. Tất cả những điều này đều là những ảnh hưởng của tôn giáo đến

đời sống làng xã người Việt.

×