Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Đề án Thực trạng nhập siêu Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 39 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa và mở cửa hội nhập
kinh tế, thâm hụt cán cân thương mại là một hiện tượng khá phổ biến vì yêu cầu nhập
khẩu rất lớn trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế, do đó mức tăng
trưởng xuất khẩu trong ngắn hạn không thể bù đắp thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, nếu
tình trạng này diễn ra thường xuyên và dai dẳng cho thấy, sự yếu kém trong điều tiết kinh
tế vĩ mô và hậu quả đối với nền kinh tế rất trầm trọng.
Ở Việt Nam, nhập siêu đã kéo dài liên tục từ những năm 1990 trở lại đây.Trong suốt
quá trình phát triển kinh tế kéo dài hơn 20 năm, Việt Nam chỉ xuất siêu duy nhất một lần
năm 1992.Việc nhập siêu liên tục trong một khoảng thời gian dài như vậy đã để lại nhiều
hệ lụy cho nền kinh tế, cũng như mang đến nhũng rủi ro có thể gặp phải trong tương lai.
Có thể nói nhập siêu đã trở thành nút thắt của nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô hiện nay và đã
thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu kinh tế và
giới doanh nhân cả nước. Tuy vậy, tình hình vẫn chưa được cải thiện đáng kể.
Thông qua đề tài, nhóm nghiên cứu hy vọng đưa ra một bức tranh bao quát về tình
hình nhập siêu của nước ta, các nguyên nhân chính dẫn đến nhập siêu, phân tích đánh giá
các giải pháp kiềm chế nhập siêu của chính phủ và các chuyên gia, từ đó đưa ra kết luận
và các giải pháp của nhóm.
Phương pháp chủ yếu nhóm sử dụng là phương pháp phân tích, thống kê.Nghiên cứu
sử dụng rất nhiều thông tin và số liệu từ các nguồn khác nhau kể cả trong nước và ngoài
nước. Các số liệu dùng để phân tích tình hình nhập siêu được tổng hợp chủ yếu từ nguồn
đã được Tổng cục thống kê, Bộ Công thương, Bộ Ngoại giao công bố.
Bài nghiên cứu được chia làm 3 chương. Chương đầu tiên tập hợp những lý luận cơ
bản về nhập siêu. Trong chương này, nhóm đưa ra định nghĩa nhập siêu, các yếu tố tác
động đến nhập siêu, những hiệu quả tích cực cũng như các rủi ro nhập siêu có thể gây ra
2
cho nền kinh tế và một số bài học kinh nghiệm giải quyết nhập siêu của các nước
ASEAN. Chương thứ hai đi sâu vào tình hình xuất nhập khẩu và thực trạng nhập siêu của
Việt Nam. Chương cuối cùng sưu tầm tập hợp các giải pháp kiềm chế nhập siêu của
Chính phủ, các ý kiến, nhận định của chuyên gia và một số giải pháp đề xuất của nhóm.


Trong phạm vi thời gian hạn hẹp, nhóm đã rất cố gắng tìm kiếm thông tin để thực
hiện nghiên cứu một cách toàn diện nhất. Tuy nhiên, do giới hạn về kiến thức và phương
pháp nghiên cứu nên nhóm không tránh khỏi thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được sự
đóng góp của hội đồng đánh giá để đề tài này được hoàn thiện hơn.
3
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHẬP SIÊU
1. Nhập siêu và các khái niệm liên quan
5
2. Các yếu tố tác động đến nhập siêu 5
2.1. Tác động của tỷ giá hối đoái 5
2.2. Tác động của việc thay đổi thu nhập ở nước xuất khẩu và nước nhập khẩu 7
2.3. Cơ cấu và chu kỳ kinh tế 7
2.4. Sự mất cân đối giữa tổng đầu tư và tiết kiệm 8
2.5. Các biện pháp bảo hộ mậu dịch 9
3. Tác động của nhập siêu đến nền kinh tế 9
3.1. Các tác động tích cực 9
3.2. Những rủi ro do nhập siêu 10
CHƯƠNG 2: TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM QUA
CÁC NĂM
1. TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU
12
1.1. Thực trạng nhập siêu Việt Nam giai đoạn 1990- nay
12
1.2. Mặt hàng nhập siêu
13
1.3. Thị trường nhập siêu
16
1.4. Các nhận định về nhập siêu
18

1.4.1. Tình hình nhập siêu 18
1.4.2. Mặt hàng nhập siêu 19
1.4.3. Vấn nạn nhập siêu từ Trung Quốc 20
1.5. Nguyên nhân nhập siêu 23
1.5.1. Nhà nước 23
1.5.2. Doanh nghiệp 25
4
1.5.3. Người dân 27
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢM NHẬP SIÊU VIỆT NAM
3.1. Các giải pháp ngắn hạn. 29
3.1.1. Cơ quan nhà nước
29
3.1.2. Doanh nghiệp
29
3.2. Các giải pháp dài hạn 30
3.2.1. Tái cơ cấu nền kinh tế
30
3.2.2. Tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam 31
3.2.3. Gia tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu 32
3.2.4. Xuất khẩu bằng giá CIF, nhập khẩu bằng giá FOB
33
3.2.5. Phát triển du lịch – ngành “xuất khẩu tại chỗ” 34
3.2.6. Thu hút kiều hối
35
3.2.7. Đẩy mạnh “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” 37
5
CHƯƠNG 1: CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
NHẬP SIÊU
1. Nhập siêu và các khái niệm liên quan
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tham gia trao đổi hàng hóa bởi vì tài

nguyên thiên nhiên ở mỗi quốc gia là không bằng nhau. Quá trình đó gọi là thương
mại quốc tế. Từ thương mại quốc tế hình thành nên hai khái niệm xuất khẩu và nhập
khẩu.Những sản phẩm hay dịch vụ bán cho các nước khác được gọi là xuất khẩu;
ngược lại, những sản phẩm, dịch vụ mua từ các nước khác được định nghĩa là nhập
khẩu. Cán cân thương mại là sự chênh lệch giữa giá trị thể hiện bằng tiền của xuất
khẩu (kim ngạch xuất khẩu) và giá trị thể hiện bằng tiền của nhập khẩu (kim ngạch
nhập khẩu). Sự hiểu biết về cán cân thương mại đã bắt đầu manh nha từ giữa thế kỷ
16 ở châu Âu trong số những người theo trường phái trọng thương. Ví dụ như, trong
cuốn “A Discourse of the Common Weal of this Realm of England”, tác giả
Elizabeth Lamon và William Cunningham đã trích dẫn một câu nói của giới trọng
thương như sau “Chúng ta phải luôn luôn lưu ý rằng ta không bao giờ mua hàng của
những kẻ lạ mặt nhiều hơn ta bán cho họ, bởi vì nếu thế thì ta đã tự làm nghèo mình
đi và làm cho họ giàu lên”.
2. Các yếu tố tác động đến nhập siêu
2.1. Tác động của tỷ giá hối đoái
Theo các quan niệm truyền thống, tỷ giá ảnh hưởng rất nhiều đến nhập siêu vì nó
ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên
thị trường quốc tế. Khi giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của
hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ
hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá giảm sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu
và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm.Ngược lại, khi
6
tỷ giá tăng lên, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu
ròng tăng lên.
Có thể nói theo quan điểm truyền thống, tỷ giá là nguyên nhân chính của tình
trạng nhập siêu. Tuy nhiên, gần đây, rất nhiều các bài nghiên cứu của các học giả
trên thế giới đã chứng minh, thực chất, tỷ giá không có hoặc có rất ít mối liên hệ với
thâm hụt thương mại hay nhập siêu trong thực tế.
Trong một nghiên cứu so sánh ASEAN-5 (Malaysia, Singapore, Thailand,
Philippines và Indonesia) vớiNhật Bản (2003), các tác giả đã đi đến kết luận rằng dù

đã có rất nhiều lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại,
nghiên cứu của họ đã cho thấy vai trò của tỷ giá hối đoái với cán cân thương mại
của 5 nước ASEAN đã bị phóng đại quá nhiều. Trước khi thực hiện nghiên cứu,
người ta đã hy vọng rằng việc giảm giá đồng tiền tại 5 nước ASEAN so với đồng
Yên Nhật sẽ mang lại hiệu quả tích cực cho việc cải thiện cán cân thương mại của
5 nước này. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, thực tế, cán cân thương mại của 5
nước tiếp tục thâm hụt từ năm 1986 đến năm 1995 (ngoại trừ Indonesia không quan
sát rõ được xu hướng), sau đó mới bắt đầu tăng dần. Nhóm tác giả kết luận rằng tỷ
giá hối đoái không thể được dùng như là một biện pháp chính để điều chỉnh cán cân
thương mại của 1 nước.
Một nghiên cứu khác của tiến sĩ Micheal Hoffman (2005) cũng đã thách thức
quan niệm truyền thống về việc liệu có mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và nhập
siêu hay không.Sau khi so sánh tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại của Mỹ từ
năm 1973 đến năm 2003, ông đưa ra 2 kết luận. Thứ nhất, tỷ giá hối đoái không là
nguyên nhân dẫn đến nhập siêu.Thứ hai, việc nhập siêu sẽ không dẫn đến sự mất giá
của đồng USD.
Nói tóm lại, việc tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng lớn đến nhập siêu hay không hiện
nay vẫn còn nhiều tranh luận.Tuy nhiên, trước mắt, có thể kết luận rằng tỷ giá hối
7
đoái không phải là nguyên nhân chính dẫn đến nhập siêu.Vì vậy, để có cái nhìn toàn
diện hơn về nhập siêu không thể chỉ nhìn vào chính sách tỷ giá.
2.2. Tác động của việc thay đổi thu nhập ở nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu
Những thay đổi trong tổng thu nhập quốc dân ở nước khác cũng như trong nước
có ảnh hưởng quan trọng đến cán cân thương mại và nhập siêu của nước đó. Nếu
tổngthu nhập quốc dân ở một nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa vào nước đó
sẽ cao hơn. Một số những nhu cầu đó có thể được đáp ứng bởi một nước khác và
làm tăng kim ngạch xuất khẩu ở nước xuất khẩu, từ đó làm giảm nhập siêu của nước
xuất khẩu (trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi). Ngược lại, nếu thu
nhập quốc dân ở nước ngoài giảm, xuất khẩu sang các nước này cũng sẽ giảm, từ đó

làm tăng nhập siêu ở nước xuất khẩu.
Tương tự, tổng thu nhập quốc dân trong nước tăng sẽ khiến nhu cầu hàng hóa và
dịch vụ tăng, từ đó làm tăng nhập khẩuvà tăng nhập siêu.Mặt khác, nếu thu nhập
quốc dân giảm, nhập khẩu sẽ giảm và làm giảm nhập siêu.
2.3. Cơ cấu và chu kỳ kinh tế
Trong bài viết “Nhập siêu kéo dài: Tỷ giá hay cơ cấu kinh tế?” đăng trên Thời
báo Kinh tế Sài gòn, tác giả có đưa ra một nguyên nhân chính nữa của nhập siêu là
do cơ cấu kinh tế không hợp lý.Theo đó ông cho rằng thông thường khi chọn ngành
trọng điểm thường phải xem xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số
kích thích nhập khẩu. Tuy nhiên thực tế cho thấy một số ngành có tỷ trọng vốn đầu
tư khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nội địa thấp và chỉ số kích thích nhập khẩu cao bất
thường. Những nhóm ngành này hầu hết nằm ở khu vực công nghiệp và xây dựng.
Khi một quốc gia lựa chọn các nhóm ngành này làm ngành trọng điểm thì sẽ góp
phần làm tăng nhập siêu.
8
Chu kỳ kinh tế cũng có ảnh hưởng đến nhập siêu. Ở những quốc gia phát triển
thiên về xuất khẩu, cán cân thương mại sẽ tăng trong quá trình mở rộng kinh tế. Lý
do là do quốc gia này xuất khẩu nhiều sản phẩm hơn là nhập khẩu hàng hóa.Ngược
lại, với những quốc gia phát triển dựa vào nhu cầu nội địa, cán cân thương mại sẽ có
xu hướng giảm trong quá trình phát triển do những quốc gia này cần phải nhập khẩu
nhiều hàng hóa hơn bình thường để phục vụ cho sự tăng trưởng.
2.4. Sự mất cân đối giữa tổng đầu tư và tiết kiệm
Trên thời báo kinh tế Sài Gòn, tác giả Nguyễn Trí Bảo đã đưa ra một cách nhìn
khác về nhập siêu. Theo ông, thâm hụt tài khoản vãng lai (chủ yếu là nhập siêu)
chính là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước, bởi vì thâm hụt tài khoản
vãng lai và chênh lệch tiết kiệm - đầu tư (S-I) về nguyên tắc đều được bù đắp bằng
khoản vay nợ ròng trên thị trường vốn quốc tế. Qua đó, ông giải thích vì sao sự mất
cân đối giữa tổng đầu tư và tiết kiệm dẫn đến nhập siêu.
Thứ nhất, với mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư (investment-led growth) phổ
biến ở các nước đang phát triển thì để đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra, đầu tư luôn ở

mức rất cao trong thời gian dài trong khi tiết kiệm nội địa tăng không đủ để đáp ứng
nhu cầu đầu tư.
Thứ hai, nhập siêu hay tiết kiệm thấp hơn đầu tư còn do hiệu quả kinh tế của các
khoản đầu tư đặc biệt là đầu tư công thấp thể hiện qua hệ số ICOR luôn ở mức cao.
Hiệu quả thấp ảnh hưởng trực tiếp đến mức tiết kiệm và để duy trì tăng trưởng cao
dựa vào đầu tư đương nhiên quốc gia nhập siêu phải đi vay.
Thứ ba, một trong những nguyên nhân chính làm cho mức tiết kiệm trong nước
thấp là thâm hụt ngân sách cao và kéo dài nhiều năm. Thâm hụt ngân sách cao và
kéo dài không chỉ làm trầm trọng thêm vấn nạn nhập siêu mà còn làm tăng lạm phát
kỳ vọng, tác động xấu tới ổn định kinh tế vĩ mô nói chung.
9
Ba nguyên nhân trên dẫn đến sự thiếu hụt giữa nhu cầu đầu tư và lượng tiết kiệm
trong nước.Lượng thiếu hụt chủ yếu được bù đắp bằng dòng vốn từ bên ngoài như
FDI, ODA và vốn đầu tư gián tiếp.Khi những dòng vốn này được đưa vào một nước
thì chúng được đăng ký là nhập khẩu, vì thế làm gia tăng tình trạng nhập siêu.
2.5. Các biện pháp bảo hộ mậu dịch
Một nghiên cứu của IMF đã chứng minh các biện pháp bảo hộ mậu dịch của một
quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến nhập khẩu của quốc gia đó, mà khi nhập khẩu
thay đổi thì nhập siêu cũng thay đổi theo. Tác giả của nghiên cứu đã sử dụng mô
hình ước đoán kinh tế lượng để đo lường ảnh hưởng của các rào cản mậu dịch lên
nhập khẩu của các nước trên thế giới. Kết quả cho thấy sự hiện diện của thuế quan
đã làm giảm đáng kể lượng nhập khẩu. Cụ thể hơn, thuật toán ước lượng của họ cho
thấy khi nhu cầu nội địa không thay đổi, nếu thuế quan tăng 1% thìnhập khẩu của
một quốc gia sẽ giảm 2%. Ngoài thuế quan, các rào cản phi thuế quan phổ biến nhất
cũng được nghiên cứu.Các tác giả chứng minh rằng ảnh hưởng của rào cản phi thuế
quan như các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, các biện pháp bảo hộ độc
quyền cũng như các biện pháp bảo hộ về kỹ thuật đềulàm giảm sút sản lượng nhập
khẩu.
3. Tác động của nhập siêu đến nền kinh tế
3.1. Các tác động tích cực

Khi nói về nhập siêu, thông thường người ta chỉ cho rằng đây là hiện tượng
không tốt cho nền kinh tế.Tuy nhiên, một số nhà kinh tế nhận định rằng nhập siêu
cũng mang lại một số lợi ích.
Các nhà kinh tế này khẳng định nhập siêu dịch chuyển sản xuất của thế giới đến
những nơi có năng suất cao nhất, và nó cho phép quốc gia giữ mức tiêu dùng như cũ
trong khi vẫn gia tăng đầu tư trong suốt chu kỳ kinh tế. Theo quan điểm này, cán
cân thương mại bị thâm hụt dẫn đến nhập siêu khi những doanh nghiệp hay chính
10
phủ của một nước đầu tư nhiều vào nguồn vốn vật chất. Việc đầu tư này sẽ mở rộng
cơ sở hạ tầng, tăng thêm công suất khai thác nguồn lực tự nhiên và ứng dụng các
công nghệ mới.Lượng tiền cần cho đầu tư bị thiếu hụt được bù đắp bằng cách vay
mượn trên thị trường tài chính quốc tế.Như thế, việc vay mượn quốc tế sẽ giúp cho
một quốc gia có thể đầu tư thêm mà không gây ành hưởng đến lượng tiêu thụ hiện
tại.Khi những khoản vay mượn này được hoàn trả trong tương lai, cán cân thương
mại sẽ được cải thiện và tiến đến mức thặng dư.Như vậy, nhập siêu có thể là một
dấu hiệu của một nền kinh tế thịnh vượng đang trên đà phát triển.
3.2. Những rủi ro do nhập siêu
Trong khi một lượng nhập siêu vừa phải có tác dụng kích thích nền kinh tế, thì
nhập siêu lâu dài mang đến nhiều rủi ro.
Thứ nhất, trong ngắn hạn nhập siêu có thể giảm lượng sản phẩm tiêu thụ được vì
nó làm giảm tổng chi tiêu cho sản phẩm và dịch vụ nội địa, và làm giảm GDP tiềm
năng khi nó hướng lao động và vốn ra khỏi những hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu để chuyển sang những lĩnh vực khác có năng suất thấp hơn.
Thứ nhì, trong dài hạn, nhập siêu kéo dài làm giảm lượng đầu tư vào nghiên cứu
và phát triển, do đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng năng suất và GDP.
Thứ ba, nhập siêu làm cho mức lương và lợi nhuận của các ngành công nghiệp
xuất nhập khẩu giảm sút, trong khi mức lương và lợi nhuận của các ngành khác
trong nền kinh tế gia tăng. Không giống như việc GDP bị giàm sút hay tăng trưởng
kinh tế bị đình trệ, điều này chỉ khiến cho thu nhập được dịch chuyển sang các
thành phần khác nhau trong nền kinh tế chứ không hoàn toàn bị mất đi. Tuy nhiên,

việc dịch chuyển này nếu quá lớn sẽ để lại hậu quả chính trị cũng như xã hội
nghiêm trọng.
11
Thứ tư, nhập siêu có thể dẫn đến sự không ổn định của nền kinh tế khi quá phụ
thuộc vào nước ngoài. Nếu các nhà đầu tư hay các đối tác nước ngoài vì lý do nào
đó ngừng việc kinh doanh thì quốc gia nhập siêu dễ rơi vào khủng hoảng. Ở nhiều
nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi, việc vay nợ và thanh toán không sử
dụng đồng nội tệ dễ dẫn đến khoản tiền thanh toán tăng lên khi đồng nội tệ yếu đi.
Tình hình còn có thể tệ hơn khi tăng trưởng kinh tế gặp vấn đề hay khi lượng dự trữ
ngoại hối quốc gia cạn kiệt.
Ở các nước đang phát triển, có những nghiên cứu cho thấy nhập siêu cao dẫn đến
lạm phát cao.Do nhập khẩu máy móc và thiết bị nguyên nhiên liệu là chủ yếu, nên
có thể lạm phát tăng cao là do hiệu quả sản xuất thấp, chi phí sản xuất và giá thành
không giảm nhiều nhờ những máy móc thiết bị đã nhập khẩu.
Bên cạnh đó, nhập siêu kéo dài khiến cho các khoản nợ của một quốc gia trở nên
trầm trọng vì ngoài tiền vốn, quốc gia đó còn phải chịu thêm phần lãi suất.
12
CHƯƠNG 2: TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU
CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NĂM
1. TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU
1.1. Thực trạng nhập siêu Việt Nam giai đoạn 1990- nay
BIỂU ĐỒ: Tình hình nhập siêu Việt Nam giai đoạn 1990 đến nay
Việt Nam là một nước có truyền thống nhập siêu. Trong giai đoạn 1990 cho đến
nay, hầu hết Việt Nam đều nhập siêu, ngoại trừ duy nhất năm 1992 xuất siêu 39,9
triệu đô la Mĩ, một con số không đáng kể so với lượng nhập siêu lúc bấy giờ. Trong
giai đoạn 1990- 2006, lượng nhập siêu dao động dưới 5000 triệu đô la Mĩ. Lượng
nhập siêu tăng đột biến bắt đầu từ năm 2007
với lượng nhập siêu gần gấp ba lần
2006. Từ năm 2007 trở đi lượng nhập siêu Việt Nam luông vượt mốc 10000 triệu đô
la Mĩ.

13
1.2. Mặt hàng nhập siêu
BẢNG: Tr
giá Xuất-Nhập khẩu của Việt Nam theo danh mục tiêu chuẩn ngoại
thương
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng trên cho thấy hai xu hướng trong xuất nhập khẩu.Việt Nam có xu hướng
xuất siêu hàng thô hay mới tinh chế và nhập siêu hàng chế biến hoặc đã qua tinh chế.
Để có cái nhìn rõ hơn về mặt hàng xuất siêu
v
à nhập siêu của Việt Nam ta xét các
bảng sau:
14
BẢNG: Hàng thô hay mới sơ chế
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng trên cho thấy nguyên nhân xuất siêu của Hàng thô hay mới sơ chế. Đó là do
ta suất siêu một lượng lớn Lương thực, thực phẩm và động vật sống. Loại hàng này
luôn chiếm hơn 60% lượng xuất siêu của mục Hàng thô hay mới sơ chế trong giai
đoạn 2000- 2008. Mức đóng góp của loại hàng này tăng dần qua các năm, như năm
2007 mức đóng góp của loại hàng này vào lượng xuất siêu là hơn 90%, năm 2008 là
trên 100%. Ngoài ra, ta
còn xuất siêu nhiên liệu, dầu mỡ nhờn và vật liêu liên
quan.Tuy nhiên, mức đóng góp của loại hàng này thì không đáng kể và giảm dần
qua các năm. Nếu năm 2000, lượng xuất siêu của loại hàng này chiếm khoảng 38%
lượng xuất siêu thì đến năm 2008 đã giảm xuống còn 8%.
Tuy rằng Hàng thô hay mới sơ chế có lượng xuất siêu , góp phần làm cân bằng
cán cân thương mại, nhưng đó là do ta xuất siêu lượng lớn Lương thực, thực phẩm
và động vật sống. Các loại hàng còn lại của mục Hàng thô hay mới sơ chế đều nhập
siêu và có xu hướng tăng qua các năm, đáng kể có thể kể đến lượng Nguyên liệu thô
15

( không tính nhiên liệu). Ngoài ra, còn có đồ uống và thuốc lá, các loại dầu mỡ, chất
béo, sáp động thực vật nhập siêu.
BẢNG: Hàng chế biến hoặc đã tinh chế
Nguồn: Tổng cục thống kê
Như đã phân tích trên, Hàng chế biến hoặc đã tinh chế luôn có xu hướng nhập
siêu, Hàng thô hay mới sơ chế có xu hướng xuất siêu.Xu hướng này đã ủng hộ cho
lập luận nhập siêu để tiến hành Công nghiêp hóa.
Ta xem xét tiếp bảng : Hàng chế biến hoặc đã tinh chế trên. Ta thấy rằng Việt
Nam nhập siêu hóa chất, nguyên liệu và máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng.
Lượng hóa chất nhập siêu chiếm khoảng 40% lượng nhập siêu Hàng chế biến hoặc
đã qua tinh
chế.Máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng chiếm khoảng 60%
lượng nhập siêu. Nguyên liệu nhập siêu khoảng 60% lượng nhập siêu; trong năm
2006 và 2007, lên đến 75- 85%.
16
Lượng máy móc, phương tiện vận tải nhập siêu khá
ổn định, chiếm 2/3 lượng
nhập siêu của Hàng chế biến hoặc đã tinh chế.Tuy nhiên, lượng lương thực, thực
phẩm và động
v
ật s
ống
lại tăng nhanh đáng kể.Điều này chứng tỏ quá trình công
nghiệp hóa còn chậm.
1.3. Thị trường nhập siêu
BẢNG: Khối nước xuất nhập siêu giai đoạn 2000-2009
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng trên cho ta thấy các khối nước xuất hay nhập siêu của Việt Nam từ năm
2000 đến 2009. Ta có thể thấy dễ dàng rằng
ASEAN và APEC là các khối nước

Việt Nam nhập siêu. Lượng nhập siêu của Việt Nam từ thị trường OPEC trong vài
năm như 2003 đến 2005, 2007 đến 2008 cho thấy dấu
hiệu OPEC có thể là thị
trường nhập siêu của ta
trong tương lai. Ngoài ra, có thể thấy Việt Nam luôn xuất
siêu qua EU trong giai đoạn 2000- 2009.
17
BIỂU ĐỒ: 6 quốc gia Việt Nam nhập siêu nhiều nhất giai đoạn 2000-2009
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu đồ cho ta thấy 6 quốc gia Việt Nam nhập siêu nhiều nhất. Gồm có: Trung
Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc , Thái Lan và Singapore. Nổi bật trong 6 nước này là
Trung Quốc.
Ngoài các nước trên, ta có thể kể đến Malaysia, Indonesia, Lào,
Myanma và Ấn Độ. Các nước này đều thuộc khu vực Châu Á. Ta có thể thấy rằng
Việt Nam nhập siêu chủ yếu là từ khu vực này.
Lượng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng vọt từ năm 2007. Năm 2008,
Trung Quốc xuất siêu sang nước ta gần gấp đôi lượng nhập siêu từ Đài Loan, nước
Việt Nam nhập siêu nhiều thứ 2. Các mặt hàng Việt Nam chủ yếu
nhập từ Trung
Quốc là máy móc, thiết bị, sắt thép, xăng dầu, thuốc trừ sâu, phân bón, vải, sợi,
nguyên liệu dệt may, da giầy, hóa chất… vốn là các đầu vào cho các ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong khi đó, ta xuất siêu sang cácc thị trường Mĩ, EU,
Úc, Canada.
Điều này cho thấy Việt Nam không nhập siêu từ các nước có công
18
nghệ tiên tiến.Điều này một lần nữa chứng minh nền công nghiệp hóa của nước ta
còn chưa phát triển.
1.4. Các nhận định về nhập siêu
1.4.1. Tình hình nhập siêu
Việt Nam là nước nhập siêu truyền thống. Để trở thành nước công nghiệp theo

hướng hiện đại hóa và
o
năm 2020, ta chấp nhận nhập siêu, nhất là khoảng nhập siêu
về nguyên liệu, máy móc và phụ tùng. Tuy nhiên, lượng nhập siêu ngày càng tăng
qua các năm tại Việt Nam khiến Chính phủ và giới quan tâm ngày càng lo ngại vì
nhập siêu sẽ có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế. Theo PGS. TS Nguyễn Văn
Nam, nguyên
Viện trưởng Viện kinh tế Thương mại cho rằng Nhập siêu đã trở
thành căn bệnh kinh niên của Việt Nam (phỏng vấn báo Đại đoàn kết, 2010).
BẢNG: Tỷ lệ nhập siêu trên xuất khẩu giai đoạn 2001-2010
Nguồn : Tính toán từ số liệu Tổng cục thống kê
Các số liệu cho thấy tình hình nhập siêu tại Việt Nam ngày càng trầm trọng.
Trong năm 2010, Việt Nam là quốc gia nhập siêu đứng thứ 41 thế giới và cao
nhất trong khu vực Đông Nam Á. Cho đến nay, mức nhập siêu của Việt Nam vẫn
được coi là ở “mức báo động đỏ”, cần nhanh chóng tái
cấu trúc mặt hàng và thị
trường xuất, nhập khẩu (theo GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, trường Đại học Kinh tế
TP.HCM). Theo GS-TS Võ Thanh Thu (ĐH Kinh tế TPHCM), ước tính VN chiếm
khoảng 9% khối lượng nhập siêu của cả thế giới. Năm 2010, tuy tỉ lệ nhập siêu trên
kim ngạch xuất khẩu là 17,5%, thấp hơn tỉ lệ 20% như dự kiến nhưng nếu tình hình
19
nhập siêu cứ tiếp diễn, thâm hụt vãng lai của nước ta sẽ tiếp tục trên mức báo động
thời điểm năm 2010 là trên 8% GDP, trong khi mức báo động trung bình là
5%)(theo PGS-TS Trần Hoàng Ngân, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế
TP.HCM). Theo đó, giảm nhập siêu là giải pháp bảo đảm ổn định cung cầu hàng
hóa, giá cả, tiến tới giảm lạm phát và tạo nền tảng cho sự phát triển cao hơn sau thời
hậu lạm phát.
1.4.2. Mặt hàng nhập siêu
Có nhiều bất cập thể hiện qua cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt
Nam.

Trong các mặt hàng xuất khẩu, nước ta có xu hướng xuất các sản phẩm thô hay
hàm lượng tinh chế thấp. Trong năm 2009, trong số 12 mặt hàng có giá trị xuất khẩu
trên 1 tỷ USD, có tới 5 mặt hàng nông nghiệp là thủy sản, gạo, gỗ, cà phê, cao su.
Trong khi đó, ta lại nhập siêu các mặt hàng có giá trị cao như máy móc, thiết bị hay
hàng tiêu dùng cao cấp. Theo GS.TS Hoàng Thị Chỉnh (Đại học Kinh tế TP. HCM)
cơ cấu hàng hóa không cân xứng này đã gây ra nhập siêu ở nước ta. Ngoài ra, việc
nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu từ nước ngoài khiến cho chúng ta suy nghĩ.
Chẳng hạn như ngành dệt may, hàng năm sử dụng không dưới 500 triệu m² vải để
làm hàng xuất khẩu nhưng có đến 80% số vải trên phải nhập! Chỉ riêng năm 2009
nước ta nhập số vải trị giá gần 4,3 tỷ USD, chưa kể đến những nguyên phụ liệu khác.
Rõ ràng, trong các ngành xuất khẩu thế mạnh, ta lại phụ thuộc quá nhiều vào máy
móc, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, các doanh nghiệp
trong nước không đủ khả năng cung cấp cho các ngành hàng xuất khẩu.Điều này đã
thể hiện xuất khẩu Việt Nam chưa bền vững, chịu nhiều tác động khách quan từ giá
cả thị trường thế giới.
Một điều đáng nói là một bộ phận hàng nhập khẩu của Việt Nam là những mặt
hàng đơn giản, chất lượng thấp hay trung bình từ các nước láng giềng, đặc biệt là từ
20
Trung Quốc. Câu chuyện về nhập khẩu tăm tre khiến chúng ta phải suy nghĩ. Chỉ
trong 6 tháng đầu năm 2010, lượng tăm tre nhập khẩu từ Trung Quốc vào thành
phố Hồ Chí Minh là khoảng 286 tấn, trị giá 40000 USD. Trong khi đó, tăm tre là
mặt hàng mà các doanh nghiệp có thể sản xuất được.Ngoài ra, cây tre lại rất quen
thuộc trong văn hóa và đời sống người Việt Nam.Không chỉ riêng câu chuyện tăm
tre, mà tình trạng này còn xảy ra ở các lĩnh vực khác như nông sản.Mỗi năm, ta chi
300 USD để nhập khẩu rau quả, trong đó có những loại chứa chất độc hại. Do công
tác quản lí lỏng lẻo, nhiều mặt hàng trong nước đã sản xuất nhiều hay dư thừa
nhưng vẫn nhập. Ví dụ như trong khi clinker ở phía bắc giá 650-730 nghìn
đồng/tấn thì các DN phía nam vẫn nhập với giá 880 nghìn đồng/tấn; trong nước tồn
kho 300 nghìn tấn phân bón, trong đó có 160 nghìn tấn NPK, nhưng DN vẫn nhập
hàng trăm nghìn tấn NPK khiến cho các nhà máy sản xuất trong nước gặp khó

khăn…
1.4.3. Vấn nạn nhập siêu từ Trung Quốc
Trong các năm gần đây, Trung Quốc nổi lên như một thị trường nhập khẩu số 1 ở
Việt Nam với giá trị nhập khẩu vượt trội, gấp đôi giá trị nhập khẩu từ thị trường
nhập khẩu thứ 2 là Đài Loan. Trong năm 2010, các mặt hàng nhập khẩu chính từ
Trung Quốc là máy móc, thiết bị, dụng cụ (22%), vải các loại (8%), máy vi tính,
linh kiện điện tử (8%), sắt thép(8%), xăng dầu (5%), nguyên phụ liệu dệt may, da
giày (3%). Tính đến cuối tháng 4/2011, nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam đạt
gần 4,1 tỷ USD, chiếm 84% tổng nhập siêu cả nước cùng thời kỳ. Đây là các mặt
hàng không chỉ phục vụ cho sản xuất mà còn tiêu dùng. Tuy nhiên, việc nhập siêu
lâu dài từ Trung Quốc sẽ gây ảnh hưởng đến nền sản xuất trong nước và cân bằng
kinh tế vĩ mô.
Về phía Trung Quốc, tại hội thảo “Thị trường Trung Quốc - cơ hội cho doanh
nghiệp Việt Nam” diễn ra tại Hà Nội chiều 9/5/2011 vừa qua, Ông Đào Ngọc
Chương, Vụ phó Vụ thị trường châu Á - Thái Bình Dương cho biết, mới đây, Thứ
21
trưởng Thương mại Trung Quốc Khương Tăng Vĩ thể hiện mong muốn Việt Nam
có thể áp dụng các biện pháp nhằm cải thiện tình hình mất cân bằng thương mại
song phương.
Bộ Thương mại Trung Quốc cũng sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có thực lực ở
nước này sang đầu tư tại Việt Nam nhằm thu hẹp khoảng cách thương mại.
Theo trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) - thuộc Đại học Kinh
tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) - trong một báo cáo mới công bố cho rằng, các ngành
sản xuất Trung Quốc thâm nhập nhiều nhất vào thị trường Việt Nam hiện nay đều
tập trung vào một số lĩnh vực như điện lực, dầu khí, cơ khí, luyện kim, khai khoáng,
hóa chất - những ngành công nghiệp "thượng nguồn" hiện đang có nhiều dự án EPC
với quy mô lớn do nhà thầu Trung Quốc thắng thầu đảm nhận, với chủ đầu tư đều là
các tập đoàn kinh tế trụ cột của nền kinh tế Việt Nam. VEPR nêu quan điểm: “Dù
có những quan điểm cho rằng, nhập khẩu công nghệ, thiết bị là nhằm tới kỳ vọng
nâng cao giá trị gia tăng trong tương lai, thực tế cho thấy, nhập siêu từ nước láng

giềng đang ngày càng chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng nhập siêu của Việt Nam,
mà giá trị lan tỏa về công nghệ cũng như về xã hội không cao như kỳ vọng”.
Hiện nay, có nhiều ý kiến về vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc.
Theo GS-TS Võ Thanh Thu, nếu giải được nhập siêu từ Trung Quốc, VN có thể
giải quyết được bài toán nhập siêu, cũng là giải quyết được nhiệm vụ quan trọng
trong công tác điều hành XNK hàng hoá. Theo TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng
Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nếu giảm được lượng thiết
bị máy móc và hàng trung gian nhập về để sản xuất hàng tiêu dùng trong nước thì
có thể giảm được nhập siêu.
Vậy việc nhập siêu từ Trung Quốc có thật sự là vấn nạn? Trong Hội thảo khoa
học “Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu” do trường Đại học Kinh
tế TPHCM tổ chức, có một số ý kiến cho rằng việc nhập siêu từ Trung Quốc chưa
22
hẳn là “vấn nạn”, và đối phó với vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc chưa chắc là lời
giải cho bài toán nhập siêu. Theo đó, nhập khẩu nhiều là bản chất của nền kinh tế
Việt Nam, bởi chúng ta đang trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu
không nhập siêu từ Trung Quốc, liệu Việt Nam có thể đảm bảo sẽ không nhập siêu
từ các quốc gia khác?. Hàng hóa nhập khẩu vào theo luồng vốn FDI, ODA, và với
các cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam không thể can thiệp để hạn chế nhập siêu
bằng các biện pháp phi thị trường. Có ý kiến cho rằng, bài giải cho bài toán nhập
siêu từ Trung Quốc là nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Ngoài ra,
theo GS. TS Đào Thị Hồng Vân, việc đối đầu với một quốc gia như Trung Quốc là
điều không tưởng, do đó, để xoay chuyển tình thế, Việt Nam nên hợp tác với Trung
Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Trên thực tế chúng ta không nên hoàn toàn cự tuyệt sự hỗ trợ từ phía Trung
Quốc, thế nhưng chúng ta không thể không đắn đo trước đề nghị trên bởi vì một khả
năng lớn là việc chấp nhận cho các doanh nghiệp Trung Quốc sang đầu tư ồ ạt ở
Việt Nam sẽ làm cho giá trị nhập siêu từ Trung Quốc sẽ càng lớn hơn nữa. Bởi vì
khi được trúng thầu các dự án ở Việt Nam, các nhà nhà thầu Trung Quốc mang theo
hầu như tất cả những gì họ có (từ Trung Quốc) để phục vụ công trình, từ máy móc,

công nghệ đến nguyên, vật liệu (chưa kể công nhân)… Chính vì vậy mà giá trị nhập
khẩu từ Trung Quốc chắc chắn sẽ tăng chứ không giảm. Vì thế chúng ta cần cân
nhắc lựa chọn những ngành thật sự là cần thiết, có thể góp phần vào sự phát triển
chung của nền kinh tế mới cho đầu tư, không nên vì những lợi ích trước mắt mà dẫn
đến những tổn thất trong tương lai.
Câu chuyện nhập siêu từ Trung Quốc còn nhiều vấn đề cần bàn luận. Qua đó có
thể thấy giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt Nam không đơn giản và không thể
giải quyết trong ngắn hạn.
23
1.5. Nguyên nhân nhập siêu
1.5.1. Nhà nước
• Nhập siêu để phát triển đất nước
Việt Nam định hướng sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
hóa vào năm 2020. Trong khi nền sản xuất trong nước còn lạc hậu, không đáp ứng
đủ cho nhu cầu phát triển, việc nhập khẩu sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia.
Thông qua con đường nhập khẩu, nước ta có cơ hội tiếp xúc nhiều máy móc, thiết bị
hiện đại và công nghệ tiên tiến. Nhờ đó, sản xuất trong nước sẽ phát triển và xuất
khẩu cũng được nhiều sự hỗ trợ từ nhập khẩu.
• Công tác điều hành quản lí còn lỏng lẻo
Theo ý kiến của GS.TS Võ Thanh Thu và GS.TS Hoàng Thị Chỉnh, công tác điều
hành xuất nhập khẫu của ta còn kém nên dẫn đến nhập siêu. Ta chưa xây dựng được
các rào cản thương mại hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này dẫn đến
thế bị động trong công tác quản lí nhập khẩu khiến việc nhập khẩu tràn lan tại nước
ta. Hệ quả là sản phẩm nhập khẩu chất lượng thấp xuất hiện, nhiều sản phẩm sản
xuất được trong nước nhưng vẫn nhập, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nước.
Đơn cử như hàng năm doanh nghiệp nước ta nhập khẩu hàng tỷ USD nông sản
nhưng ta chưa xác định được tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm
cho những mặt hàng này. Ngoài ra, công tác dự báo và thông tin còn hạn chế dẫn
đến tình trạng như thừa vẫn cứ nhập (phân bón), hàng hóa bán với giá rẻ (gạo)…
• Chính sách tỷ giá

Theo ông Đinh Tuấn Minh (VERP, đại học Quốc gia Hà Nội), một trong những
nguyên nhân dẫn đến nhập siêu đó chính là chính sách tỉ giá. Trong cơ chế tỉ giá thả
nổi, tỉ giá phụ thuộc vào cán cân thương mại và các dòng tiền khác. Mặt khác, tỉ giá
24
là yếu tố điều chỉnh cán cân thương mại về trạng thái cân bằng trong mối tương
quan với các dòng vốn khác.
Ông dẫn chứng Thái Lan làm ví dụ. Đầu năm 2005, nền kinh tế Thái Lan nhập
siêu lớn. Nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi nên đồng baht tự động bị mất giá, giúp cho nhập
siêu giảm. Xét trong một giai đoạn dài, chẳng hạn năm 2006 – 2007, khi Thái Lan
có xu hướng xuất siêu lớn, giá trị đồng baht đã tăng rất nhanh. Ngược lại năm 2008,
khi nền kinh tế Thái Lan có xu hướng nhập siêu, đồng baht mất giá trở lại. Chính
nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi như vậy nên cán cân thương mại hàng tháng của Thái Lan
luôn dao động trong trạng thái khá cân bằng trong biên độ +/– 2 tỉ USD.
Tuy nhiên, cơ chế tỉ giá của Việt Nam lại không làm được điều này. Do tỷ giá
chính thức về cơ bản là cố định nên trong hầu hết quãng thời gian các năm 2006,
2007 và 2009 tốc độ nhập siêu ngày càng tăng mạnh nhưng tỷ giá thì hầu như
không thay đổi; ngược lại, trong giai đoạn nửa cuối năm 2008, bất chấp tốc độ nhập
siêu giảm dần, VND lại vẫn mất giá rất nhanh. Cơ chế tỉ giá chính thức áp đặt đã
không điều chỉnh được các hoạt động xuất nhập khẩu và gây ra tình trạng nhập siêu
ngày càng tăng tại Việt Nam
• Ngành công nghiệp phụ trợ èo uột
Theo Viện nghiện cứu quản lí trung ương, công ty Daihatsu (Nhật) đã từng sang
Việt Nam tim kiếm nhà cung cấp ốc vít, nhưng đã khảo sát tới 64 doanh nghiệp
nhưng vẫn không lựa được doanh nghiệp nào đủ yêu cầu. Canon cũng phải mất một
thời gian dài mới tìm được nhà cung cấp tại Việt Nam, song 90% trong số đó là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 2011, sau hơn 10 năm hoạt động,
tỷ lệ nội địa hóa của ngành ô tô cao nhất cũng chỉ đạt 10% (Honda Việt Nam), kế
tiếp là Toyota Việt Nam (7%). Các công ty ô tô còn lại chỉ đạt 2-4%. Hai ngành
xuất khẩu chủ lực là dệt may và da giày cũng không khá gì hơn, vẫn phụ thuộc lớn
vào nguyên phụ liệu nhập khẩu.

×