Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Vấn đề về con người trong triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.15 KB, 42 trang )


1

DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU
LUẬN VÀ THUYẾT TRÌNH
HỌC KỲ 2 NĂM HỌC 2014 – 2015
Nhóm số: ………
Tên đề tài: Vấn để về con người và bản chất con người
STT
Theo
Ds
Lớp
HỌ VÀ TÊN
(kèm theo số
ĐTDĐ ở dưới họ
và tên)
TIÊU LUẬN
THUYẾT TRÌNH
ĐIỂM
TỔNG
KẾT
(A+B)
/2
Tỉ
lệ
%
Mức
độ
hoàn
thành
Điểm


(A)
Tỉ
lệ
%
Mức
độ
hoàn
thành
Điểm
(B)

























































Ghi chú:
Tỷ lệ %= 100% mức độ phần trăm của từng thành viên tham
gia
Sinh viên chỉ ghi các cột số : 1,2,3,6, còn lại các cột khác do
giáo viên ghi

2

Nhận xét của giáo viên
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………

Ngày…. Tháng…. năm 20….
Giáo viên



3

Mục lục
I. Mở đầu 4
1. Đặt vấn đề 4
2. Mục tiêu đề tài 4
II. Kiến thức cơ bản 5
1. Khái niệm con người, con người là một động vật 5
a. Khái niệm con người 5
b. Con người là một động vật đúng hay sai? 9
2. Sự thống nhất giữa 2 mặt trong con người 9
a. Mặt sinh vật 9
b. Mặt xã hội 11
c. Hai mặt trong mõi con người 12
3. Bản chất của con người theo quan điểm triết học MAC 14
a. Bản chất con người 14
b. Luận điểm của MAC về bản chất con người 18
4. Ý nghĩa của phương pháp luận và liên hệ 21
a. Ý nghĩa phương pháp luận 21
b. Liên hệ trong cuộc sống hằng ngày 22
III. Kiến thức vận dụng 32
1. Bình luận câu nói: “Cha mẹ cho em thành người, thầy cô cho em cái chữ” 32
a. Nghĩa đen và nghĩa bóng 32

b. Biểu hiện về hai mặt trong con người 32
2. “Giải pháp 2” của nghị quyết 29-NQ/TW Ngày 4/11/2013 HNTW 8 khoá XI “về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. 33
a. Nội dung của giải pháp 2 33
b. Biểu hiện bản chất con người trong giáo dục 35
c. Liên hệ ở trường chúng ta về vấn đề này 36
IV. Kết luận 39
1. Tóm tắt nội dung 39
2. Nhận xét và đánh giá và giải quyết được gì 40
V. Tài liệu tham khảo 42


4

I. Mở đầu
1. Đặt vấn đề
Tạo hoá đã tạo ra một sinh vật hoàn chỉnh nhất, phức tạp nhất – đó
là con người. Con người với những quan hệ của mình tạo thành một
xã hội loài người. Con người quan hệ với xã hội với tư cách là những
cá nhân, con người cùng nhau tạo ra lịch sử. Vậy con người sinh ra từ
đâu? Ý nghĩa cuộc sống của con người là gì? Trong mỗi thời đại lịch
sử của con người quan hệ với tự nhiên, với đồng loại như thế nào? Vì
đâu ở mỗi con người, mỗi cộng đồng người có những nét độc đáo về
tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tính cách, nghị lực, tài năng? Con người có
thể làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình hay không? Con người
phải làm gì để cho cuộc sống xứng đáng với con người?
Đó là những vấn đề chung mà tất cả các trường phái triết học từ cổ
đại cho đến nay đều đặt ra và giải quyết bằng những quan điểm khác
nhau. Với sự ra đời của triết học Mác Lênin, lần đầu tiên, vấn đề con
người được nhận thức một cách khoa học. Triết học Mác Lênin xuất

phát từ vấn đề con người và quay trở về đấu tranh giải phóng con
người.
Nghiên cứu vấn đề con người theo quan điểm triết học Mác Lênin
giúp chúng ta có cơ sở lý luận đúng đắn để nhận thức và thực hiện tốt
chính lược con người của Đảng ta trong công cuộc đổi mới mọi mặt
của đời sống con người trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Mục tiêu đề tài
Nắm vững bản chất con người theo quan điểm triết học Mác Lênin.
Hiểu rõ mối quan hệ cá nhân xã hội.

5

Thấy rõ được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch
sử đồng thời thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của lãnh tụ, vĩ nhân
trong lịch sử?
Từ đó giúp ta có cơ sở lý luận để quán triệt và thực hiện quan điểm
của Đảng ta về chiến lược con người trong xây dựng và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
II. Kiến thức cơ bản
1. Khái niệm con người, con người là một động vật
a. Khái niệm con người
 Trong triết học phương Đông
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch
sử triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? Bản tính,
bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con
người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do? Đây cũng
chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan – một nội dung cấu thành
thế giới quan triết học.
Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề
này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà

các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát
hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Mặt khác
trong khi giải quyết những vấn đề trên, mỗi nhà triết học, mỗi trường
phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới quan, phương
pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu
hình
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn
năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan
tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và

6

Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức
của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản
tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia,
ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính
người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính Tự Nhiên của con
người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác
nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan
điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết
các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tư tưởng của các
trường phái triết học ấn độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại
tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở
tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu hình học) đối với những vấn đề
nhân sinh quan. Kết lụân về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính
hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là
một trong những kết luận 201 độc đáo của triết học Đạo Phật.
 Trong triết học phương Tây
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy

Lạp trải qua giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay,
những vấn đề triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa
chấm dứt.
Thực tế lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề
triết học về con nngười trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm
khác với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết học
theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự
nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên
quan. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra
quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người

7

cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được
cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrit về bản
tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người.
Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo
đường lối Êpiquya Những quan niệm duy vật như vậy đã được tiếp
tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu
biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỷ XVIII; nó cũng là
một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những
tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học
Mác.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm
trong lịch sử triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý
tính của con người. Tiêu biểu cho giác độ tiếp cận này là quan điểm
của Platôn thời Cổ đại Hy Lạp, Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời
Cận đại và Hêghen trong nền triết học Cổ điển Đức. Do không đứng
trên lập trường duy vật, các nhà triết học này đã lý giải bản chất lý

tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản chất
bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối, với Đêcáctơ, đó là
bản tính phi kinh nghiệm (apriori) của lý tính, còn đối với Hêghen, thì
đó chính là bản chất lý tính tuyệt đối
Trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học
vẫn coi những vấn đề triết học về con người là vấn đề trung tâm của
những suy tư triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa
Phơrớt.
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít
còn có một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận
lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế

8

lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người
và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng
như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy
vật biện chứng của triết học Mác-Lênin về con người.
 Tóm lại
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự
thống nhất biện chững giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của con người
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát
triển của con người là giới tự nhiên, do đó trước hết con người có bản
tính tự nhiên. Nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và
nguồn gốc tựnhiên của con người là cơ sở khoa học để con người hiểu
biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân trong mọi
hành vi hoạt động sáng tạo ra lịch sử.
Bản tính tự nhiên của con người thể hiện trên hai giác độ sau

đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của
giới tự nhiên, cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh
bằng sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc
biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là bộ phận của giới tự nhiên do đó những biến
đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc
gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội
loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người với giới
tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người luôn tác
động trở lại môi trường tự nhiên và làm biến đổi môi trường tự nhiên.

9

Tuy nhiên, con người cũng không đồng nhất với các tồn tại khác
của giới tự nhiên, nó có đặc tính xã hội. Bản tính xã hội của con người
là bản tính đặc thù của nó trong quan hệ với các tồn tại khác của giới
tự nhiên. Bản tính xã hội của con người thể hiện ở các mặt sau:
Một là, nguồn gốc hình thành con người không chỉ là quá trình tiến
hóa của giới tự nhiên mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động.
Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật
để tiến hóa và phát triển thành người.
Hai là, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi phối bởi
các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con
người cũng biến đổi và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại trở
thành tiền đề cho sự phát triển xã hội.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong
tính thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến
đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con
người trong quá trình làm ra lịch sử của chính mình. Vì vậy, để lý giải

bản tính sáng tạo của con người cần kết hợp chặt chẽ cả hai phương
diện tự nhiên và xã hội nhằm tránh rơi vào phiến diện, không triệt để,
dẫn đến những sai lầm trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
b. Con người là một động vật đúng hay sai?
Con người là một động vật, con người cũng phải ăn uống, tìm
kiếm thức ăn để nuôi dưỡng cơ thể. Tuy nhiên khác ở sinh vật bình
thường, con người còn sinh hoạt, hoạt động cộng đồng, cao hơn là
con người còn có tri thức. Con người biết suy nghĩ, biết chọn lựa,
sáng tạo, hoạt động nhóm, tập thể. Con người hoạt động và tạo nên
xã hội, cải tạo tự nhiên, thay đổi mọi thứ theo ý của mình.
2. Sự thống nhất giữa 2 mặt trong con người
a. Mặt sinh vật

10

Mác và Ăngghen khi bàn đến con người, đã coi yếu tố sinh học là
tiền đề: Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì dĩ nhiên,
là sự tồn tại của những cá nhân con người sống. Vì vậy, điều đầu
tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối
quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự
nhiên. Điều đó bao hàm ý nghĩa là con người thoát thai từ tự nhiên,
chính là thực thể tự nhiên và cũng còn có ý nghĩa rằng trước khi là
người, thì con người đã là động vật và khi mới tách ra khỏi giới
động vật, thì về cơ bản cũng giống súc vật: Những con người vừa
mới tách khỏi giới súc vật, thì trong tất cả mọi mặt cơ bản cũng đều
không tự do, chẳng khác gì bản thân súc vật.
Tất nhiên, Mác và Ăngghen đặt yếu tố sinh học trong mối quan
hệ với yếu tố xã hội trong quá trình hình thành và phát triển con
người: Con người, theo nghĩa đen của nó là một động vật xã hội,
không những là một động vật vốn có tính hợp quần, mà còn là một

động vật chỉ có thể tách rộng ra trong xã hội mà thôi. Con người là
động vật duy nhất như lao động có mục đích, nên đã thoát ra khỏi
tình trạng loài vật, nhưng khi thoát ra khỏi giới tự nhiên như thế,
không có nghĩa là con người đã độc lập tuyệt đối đối với giới tự
nhiên. Không bao giờ có độc lập tuyệt đối của con người với giới tự
nhiên. Ngay cả khi chúng ta tưởng như mình bị tách khỏi giới tự
nhiên thì ngay lúc đó chúng ta cũng vẫn có mối liên hệ trực tiếp nhất
với tự nhiên vì xương, thịt, máu và bộ não của chúng ta là thuộc về
tự nhiên, nằm trong giới tự nhiên như Ăngghen nói.
Do con người cần phải ăn để sống, và có cấu trúc tương tự sinh
vật nên vẫn còn mang phẩm chất sinh vật.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự
nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong

11

nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong
con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì
vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con
người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát
triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.
b. Mặt xã hội
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức
vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện
thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật
chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người
bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến
do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu

sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình". Thông qua hoạt động sản xuất vật chất;
con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản
xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự
nhiên". Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản
xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn
bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản
xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời
sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành
bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá
nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội
nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị
quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất

12

với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp
cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến
dị, tiến hóa quy định phương diện sinh học của con người. Hệ
thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền
tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng,
niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã
hội giữa người với người.
c. Hai mặt trong mõi con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử
triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất
giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là
yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự

khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội
của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt
con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ
lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật
có tư duy Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh
một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa
nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức
vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện
thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật
chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người
bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến
do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu

13

sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình".
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay
đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn
con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên". Tính xã hội của
con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản
xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của
cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao
động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người,
đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.

Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và
phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy
luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự
nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về
sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa quy định phương
diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức
hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như
hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy
luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và
mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ
thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con
người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu
tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.

14

Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng
quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học
và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học
là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng
bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt
nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh
học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo
thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
3. Bản chất của con người theo quan điểm triết học MAC
a. Bản chất con người
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan

trọng nhất của thế giới từ trước đến nay. Đó là vấn đề mà luôn được
các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc
nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa
và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên
cứu cổ đại đặt biệt chú ý đến. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y
học, triết học, xã hội học… Từ rất sớm lịch sử đã quan tâm đến con
người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mõi lĩnh vực nghiên cứu
đó đều có ý nghĩa riếng đối với sự hiểu biết và lợi ích cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác. Lĩnh vực triết học lại có nhiều
mâu thuẩn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu
tranh khong biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ
nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do
đó đã đưa ra những tư tưởng, hướng giải quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học đều tự hỏi:
Thực chất con người là gì và để trả lời câu hỏi đó phải giải quyết
hàng loạt mâu thuẩn trong chính con người. Khi phân tích các nhà

15

triết học cổ địa coi con người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ
bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ.
Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể muôn loài.
Chỉ đứng sau thần linh, con người được chia làm hai phần: phần xác
và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: phần hồn
là do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mội hoạt động của phần
xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì
ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn,
không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức đó không
ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản
chất con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.

Triết học thế kỷ XV – XVIII phát triển quan điểm triết học về
con người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát
triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy
vận động theo một quy luật cổ. Học thuyết chủ nghĩa duy tâm chủ
quan không thể biết mọi mặt, coi cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái
không tôi, mặt cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá cảm
giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé, yếu ớt phụ thuộc đấng tối
cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý
tính con người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và
hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển Đức, từ Carto đến Heghen đã phát triển
quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm.
Đặt biệt Heghen quan niệm về con người là hiện thân của ý niệm
tuyệt đối là con người có ý thức và do đó đời sống con người chỉ
được xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần cá nhân.
Đồng thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất tư duy khái quát các
quy luật cơ bản của quá trình đó.

16

Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, PhoBach đã
phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm Heghen,
ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự
nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh,
ông đã dùng thành tựu của khoa học tự nhiên để minh chứng mối
liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất
diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong
mối liên hệ cộng đồng thì PhoBach lại rơi vào lập trường của chủ
nghĩa duy tâm.
Tóm lại: các quan niệm triết học đã đi đến các thức lý luận xem

xét con người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối
hoá phần hồn thành con người trừu tượng, tự ý thức còn chủ nghĩa
duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu
tượng, sinh học. Tuy nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm
nói trên chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người.
Sau này chủ nghĩa Mac đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn
chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm con người đã có trong
các học thuyết triết học trước đây để đi đến quan niệm về con người
thiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên xã hội với tư cách là
con người hiên thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã
hội đồng thời vừa là chủa thể cải tạo tự nhiên.
 Kết luận:
Theo C.Mác, “Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”(C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3,
tr.11).

17

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác
nhau và bản chất, “bản tính người” của con người song về cơ bản
những quan niệm đó đều mang tính phiến diện, trừu tượng và duy
tâm thần bí, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, xem
nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội.
Quan điểm của C.Mác đã khắc phục được hạn chế của quan điểm
duy vật siêu hình về con người, trong khi thừa nhận bản tính tự
nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ
lịch sử xã hội, từ đó phát hiện ra bản tính xã hội của nó, hơn nữa
chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất

của con người, là cía phân biệt con người với các tồn tại khác của
giới tự nhiên.
Năng lực sáng tạo lịch sử của con người và các điều kiện phát
huy năng lực sáng tạo của con người:
Con người làm ra lịch sử của chính mình. Theo quan điểm duy
vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và
phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của
nó là xuất phát từ sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã
hội của nó trong lịch sử., khi những quan hệ này thay đổi thì cũng có
sự thay đổi về bản chất của con người. Vì vậy, sự giải phóng bản
chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng những quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội của nó, thông qua đó mà phát huy khả năng
sáng tạo lịch sử của con người.
Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với điều kiện
hoàn cảnh lịch sử nhất định. Con người là sản phẩm của lịch sử, lịch
sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại sáng
tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan

18

hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo
ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực
tiễn tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu
của mình thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính
nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
b. Luận điểm của MAC về bản chất con người
Chủ nghĩa xã hội do cong người và vì con người. Do vậy, hình
thành mối quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người
trong sự phát triển xã hội nói chung, trong xã hội chủ nghĩa nói riêng

là một vấn đề không thể thiếu được của thế giới quan Mác – Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin con người là khái niệm chỉ những
cá thể người như một chỉnh thể tỏng sự thống nhất giữa mặt sinh học
và xã hội học của nó. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài
từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật học
cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại vơi tư cách là một
con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống… Điều đó
giải thích vì sao Mác cho rằng con người trước hết phải ăn, mặc, ở
rồi mới làm chính trị.
Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người
thì không thể giải thích được bản chất của con người. Không chỉ có
“con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội” mà thực ra quan
điểm của Mác là một quan điểm toàn diện.
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định quan điểm của những nhà
triết học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới thự nhiên,
là động vật xã hội, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự
nhiên của con người như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích… Không còn
hoàn toàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá.

19

Mác viết: “bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con
người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự
kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác đã nhiều lần so
sánh con người với vật, so sánh con người với con vật gần giống con
người… Và để tìm ra sự khác biệt đó, Mác đã chỉ ra nhiều chổ chỉ
có ở con người làm tư liệu sinh hoạt của mình, con người thay biến
đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thucows đo của
vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất… Luận điểm xem

con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất đucợ xem là
luận điểm tiêu biểu của Mác về con người.
Luận điểm của Mác coi “bản chất chất con người là tổng hoà các
mối quan hệ xã hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của
các yếu tố và đặc điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận
diểm coi con người đơn thuần như một phần của thê giới tự nhiên
còn bỏ uqa, không nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác
định bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái
không thể thiếu và có tính quyết định làm cho con người trở thành
một con người. Sau, thì khi nói đến “sự định hướng hợp lý về mặt
sinh học” Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác
động và ảnh hưởng to lớn đến bản chất và sự phát triển con người.
Chính Lênin cũng đã không tán thành quan điểm cho rằng mọi
người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiên một sự
bình đẳng về sức lực và tài sản con người đó là một điều ngu xuẩn…
Nói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là bình đẳng xã hội, bình đẳng về
địa vị chứ không phải là sự bình đẳng về thế lực và trí lực của cá
nhân”.

20

Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài
người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, Mác
đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước
đoc hung cho sự phát triển xã hội, Mác cho rằng xu hướng chung
của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con người và những công cụ lao
động do con người tạo ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội, tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con
người đã chiếm lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự

nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con
người và quyết định quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Sản xuất ngày càng phát triển tính chất xã hội hoá ngày càng tăng.
Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự
phát triển mới của nền sản xuất do nó mang lại sẽ cần đến những
con người hoàn toan mới. Những con người có năng lực phát triển
toàn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo ra những con người
mới, làm nên những thành viên trong xã hội, có khả năng sử dụng
một cách toàn diện năng lực phát triển của mình theo Mác “phát
triển sản xuất vì sự phồn vinh xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho
mõi thành viên trong cộng đồng xã hội và phát triển con người toàn
diện là một quá trình thống nhất để làm tăng thêm nền sản xuất xã
hội” để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện hơn nữa.
Mác coi sự kết hợp chặc chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển
con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải tiến xã hội.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất
mà còn là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực
lương sản xuất của xã hội mà hơn nữa, con người còn đóng vai trò là
chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản

21

xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã
hội loài người. Từ quan niệm đó Mác khẳng định sự phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản
chất con người, coi như là mục đích tự thân. Bơi vậy theo Mác ý
nghĩa lịch sử mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triể
con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm chất con người,
giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người để con
người được sống với cuộc sống đích thực. Và bước quan trọng nhất

trên con đường là giải phóng con người về mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất tiến trình
phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống
ngày càng tốt đẹp hơn cho con người, phát triển con người toàn diện
và giải phóng con người. Đó là quá trình mà nhân loại đã tạo ra cho
mình những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem
lại sự phát triển toàn diện, tự do, hài hoà cho mỗi con người trong
cộng đồng nhân loại tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình
lịch sửa của chính mình.
4. Ý nghĩa của phương pháp luận và liên hệ
a. Ý nghĩa phương pháp luận
 Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, có
thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người
phải căn cứ cả vào phương diện tự nhiên và phương diện xã hội,
trong đó vấn đề có tính quyết định là phương diện bản tính xã hội
của nó, từ những quan hệkinh tế xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của tiến bộ và phát triển của xã hội là
năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực

22

sáng tạo của mỗi con người là phát huy nguồn động lực quan trọng
thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng
sáng tạo lịch sử của nó phải hướng vào việc giải phóng những quan
hệ kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó có thể khẳng định giá trị căn bản
nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để
các quan hệ kinh tế xã hội áp bức, bóc lột nhằm giải phóng con
người, phát huy cao nhất năng lực sáng tạo của con người, đưa con

người tới sự phát triển tự do và toàn diện.
 Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của
quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình
lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho
hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Thứ nhất, lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử
của quần chúng nhân dân, chống những quan điểm sai trái của chủ
nghĩa duy tâm đồng thời đem lại phương pháp luận khoa học trong
việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của cá nhân, của vĩ nhân, của lãnh
tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, cung cấp phương pháp luận khoa học để các đảng cộng
sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần
chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tập
hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
b. Liên hệ trong cuộc sống hằng ngày
Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá
trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Trong

23

lịch sử triết học, để trả lời câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình
cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này
tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự
ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn
nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có

một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với
nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình thức liên
hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn
giới vô cơ và giới hữu cơ không có mối liên hệ gì với nhau, tồn tại
độc lập không thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn giản của những con
người riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không vận động
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các
sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập,
vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão
từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do
đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về
dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y
tế.v.v; môi trường ảnh hưởng to lớn đến con người không chỉ trong
một nước mà trên toàn thế giới và ngược lại, hoạt động của con
người cũng tác động, ảnh hưởng làm biến đổi môi trường.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối
lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng
quát sự vận động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong
thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.

24

Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện
chứng như mối liên hệ giữa: mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng,
cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội
dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả
năng – hiện thực.
Mối liên hệ có tính khách quan
Vì mối liên hệ là vốn có của sự vật, hiện tượng. Nó không phụ

thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay thần linh, thượng đế.
Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự tác
động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,
áp suất không khí , đôi khi cũng chịu sự tác động của con người).
Con người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn
hay không cũng luôn luôn bị tác động của các sự vật, hiện tượng
khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Ngoài sự tác động của
tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị và của
những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp
nhận vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết
các mối quan hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải
quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã
hội và bản thân con người .Chỉ có liên hệ với nhau sự vật hiện tượng
mới tồn tại, vận động, phát triển. Ví dụ: con vật thì có mối liên hệ
giữa kẻ săn mồi và con mồi : con hổ với con nai…, nếu không có
mối liên như vậy thì con vật không thể tồn tại. Còn con người thì có
các quan hệ xã hội giữa người này với người khác có như vậy con
người mới tồn tại, vận động và phát triển.
Mối liên hệ có tính phổ biến
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng
khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.Xuất

25

phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới mỗi sự vật, hiện tượng
là một thể thống nhất, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một
cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhât. Không chỉ
trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, lẫn trong trong tư duy, các sự vật
hiện tượng cũng liện hệ tác động qua lai lẫn nhau. Không thể tìm bất
cứ ở đâu, khi nào các sự vật, hiện tượng lại tồn tại một cách cô lập

tách rời.
Ví dụ: Trong tự nhiên cây xanh có mối liên hệ với môi trường
(không khí, nhiệt độ…), còn có mối liên hệ với con người (con
người chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…). Trong xã hội, không có
người nào mà không có các mối quan hệ xã hội như: quan hệ hàng
xóm, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, các hình thái kinh tế-xã hội
cũng có mối liên hệ với nhau, hình thái kinh tế -xã hội sau ra đời từ
hình thái kinh tế-xã hội trước (công xã nguyên thủy-chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa).
Trong tư duy, có mối liên hệ giữa các sự suy đoán, các tâm tư,
tình cảm, các cách suy nghĩ khác nhau ví dụ như: nhìn vào một cô
gái ta có các suy đoán cô ấy là người giàu có, cô ấy không được tốt,
cô ấy rất khó tính… Trong thời đại ngày nay không một quốc gia
nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về
mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế giới đã
và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt đời
sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như:
đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế
hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bình.v.v.
Mối liên hệ có tính đa dạng, muôn vẻ

×