Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.29 KB, 101 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


MAI THỊ LÀNH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BƯU ĐIỆN LIÊN VIỆT
- CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ
Chuyên ngành: KINH TẾ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Ngêi híng dÉn khoa häc:
GS.TS. NGUYÔN V¡N NAM
Hµ néi, n¨m 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu của cá nhân
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Nguyễn Văn Nam
- Các số liệu, thông tin được trích dẫn theo đúng quy định
- Dữ liệu khảo sát là trung thực
- Lập luận, phân tích, đánh giá, kiến nghị được đưa ra dựa trên quan điểm cá
nhân không có sự sao chép của bất kỳ tài liệu nào đã được công bố
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Mai Thị Lành
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
Căn cứ theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay 10
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có các loại tín dụng sau: 10
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Các từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 CBTD Cán bộ tín dụng
2 CIC Trung tâm thông tin tín dụng
3 CN Chi nhánh


4 ĐVKD Đơn vị kinh doanh
5 KH Khách hàng
6 LPB Ngân hàng Bưu điện Liên Việt
7 NHNN Ngân hàng nhà nước
8 NHTM Ngân hàng thương mại
9 PKH Phòng khách hàng
10 QLTD Quản lý tín dụng
11 SXKD Sản xuất kinh doanh
12 TCTD Tổ chức tín dụng
13 TSBD Tài sản bảo đảm
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
LỜI CAM ĐOAN 1
Căn cứ theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay 10
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có các loại tín dụng sau: 10
1.2.3.2. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn 23
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Đông Đô Error: Reference source not
found
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng được coi là hệ tuần hoàn vốn của nền kinh tế từng quốc gia và toàn
cầu. Chính do vai trò quan trọng của ngân hàng đối với nền kinh tế, nhất là kinh tế thị
trường mà ngân hàng ngày càng trở nên cần thiết. Công cuộc đổi mới đất nước làm
thay đổi cơ bản nền kinh tế với những chỉ số kinh tế ngày càng khả quan, hệ thống
ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng góp phần vào những thay đổi này. Những
đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam được coi là khâu đột phá, có những đóng
góp tích cực cho nền kinh tế trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy
trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường
đầu tư và sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản
xuất kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là kết quả tác động nhiều mặt của
đổi mới hoạt động ngân hàng, nhất là những cố gắng của ngành ngân hàng trong việc

huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển, trong việc đổi mới chính
sách cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả thi và hiệu
quả của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định cho vay. Tín dụng ngân
hàng theo đó cũng phát triển cả về chất lượng và chủng loại, góp phần thúc đẩy sản
xuất kinh doanh, đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp
độ cao trong nhiều năm liên tục. Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay,
hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong
cơ cấu tài sản và cơ cấu thu nhập, nhưng cũng là hoạt động phức tạp, tiềm ẩn những
rủi ro lớn cho các NHTM. Tín dụng trong điều kiện nền kinh tế mở, cạnh tranh và
hội nhập vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng và
đang đặt ra những yêu cầu mới về nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt là một ngân hàng trẻ mới ra đời từ năm
2008, song đã đạt được những thành công nhất định. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, câu hỏi đặt ra đối với nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu chính sách của ngân
hàng là làm thế nào để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng. Trong quá trình
1
làm công tác tín dụng tại ngân hàng Bưu điện Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô, tôi đã
lựa chọn đề tài nghiên cứu : ‘‘Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Bưu điện Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô’’ để làm đề tài luận văn cao học.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về tín dụng, chất lượng tín dụng và các chỉ
tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Bưu điện
Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô để thấy những thành công cũng như những mặt còn
hạn chế trong hoạt động tín dụng, từ đó tìm ra nguyên nhân tại LPB – Đông Đô.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng phù
hợp với thực trạng hoạt động tín dụng và điều kiện phát triển kinh tế trên địa bàn, từ
đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Đông Đô
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện

Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô
- Phạm vi nghiên cứu : Tại ngân hàng Bưu điện Liên Việt – chi nhánh Đông
Đô, trong giai đoạn từ năm 2008 - 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nguồn dữ liệu thứ cấp
Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ các tài liệu, thông tin nội bộ: Báo cáo
thường niên hàng năm của Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt, Báo cáo tài chính
của LPB – Đông Đô, các số liệu được chiết xuất trên phần mềm Flexcube, các số
liệu thông tin trên mạng Internet, …Các nguồn dữ liệu này được ghi chú chi tiết
trong phần tài liệu tham khảo.
- Nguồn dữ liệu sơ cấp
Luận văn có tham khảo lấy ý kiến từ các cá nhân là những người có kinh nghiệm
lâu năm trong công tác tín dụng ở Ngân hàng Liên Việt – chi nhánh Đông Đô, hiện
đang giữ những vị trí quan trọng, đặc biệt là các lãnh đạo các phòng Khách hàng,
phòng Quản lý tín dụng, các giám đốc Phòng giao dịch, giám đốc chi nhánh.
2
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Trên phương diện lý luận: Đóng góp những vấn đề cơ bản về tín dụng và
chất lượng tín dụng ngân hàng. Từ đó cho thấy ý nghĩa của việc nâng cao chất
lượng tín dụng trong hệ thống ngân hàng Liên Việt nói chung và chi nhánh Đông
Đô nói riêng.
- Trên phương diện thực tiễn: Luận văn phân tích thực trạng chất lượng tại
LPB Đông Đô, làm rõ các nguyên nhân dẫn tới chất lượng tín dụng còn nhiều hạn
chế tại chi nhánh. Căn cứ vào tình hình thực tế ngân hàng, tác giả đề xuất các giải
pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới, đảm bảo hoạt động thực
tiễn của LBP Đông Đô và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trên địa bàn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn chia làm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân
hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện
Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu
điện Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
3
VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
1.1. Những vấn đề chung về tín dụng của Ngân hàng thương mại

Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra đời từ rất lâu, thậm chí mối quan hệ tín
dụng thô sơ nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan
rã. Quan hệ tín dụng đã phát triển qua nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, qua từng thời kỳ,
từng giai đoạn phát triển mà dần hình thành nên các hình thức tín dụng mới có trình
độ cao hơn, đã có các hình thức tín dụng sau: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương
mại, tín dụng ngân hàng Mỗi một hình thức tín dụng đều có điều kiện kinh tế xã
hội cụ thể. Tuy nhiên, theo tiến trình phát triển, các hình thức quan hệ tín dụng
trước không hề mất đi mà vẫn còn tồn tại và phát huy tác dụng khi có sự ra đời một
hình thức tín dụng mới. Ngày nay, tất cả các hình thức tín dụng trên đều tồn tại và
bổ sung lẫn nhau, đóng góp vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Trong nền
kinh tế hàng hoá, trong cùng một thời gian luôn có một số người tạm thời thừa vốn,
có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó luôn có một số người
tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh mối quan hệ
kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu
vốn với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được do sử dụng vốn
vay. Đây chính là quan hệ tín dụng. Từ tín dụng có nguồn gốc Latinh là credtium có
nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Dựa trên sự tín nhiệm đó sẽ thực hiện các quan hệ
vay mượn một lượng giá trị biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất trong một
thời gian nhất định. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, tất yếu xuất hiện
quan hệ tín dụng giữa cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Tín dụng là quan hệ vay

mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày
xác định trong tương lai.
Niềm tin của người cho vay đặt ở khách hàng, đó là sự hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Vậy có thể hiểu khái niệm tín dụng là sự vận động giá trị từ người đi vay và sẽ quay
4
về với người cho vay cả gốc lẫn lãi trong kỳ hạn xác định.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị từ
người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định quay về với người sở
hữu với lượng giá trị cao hơn giá trị ban đầu. Hoặc tín dụng là phạm trù kinh tế chỉ
mối quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi sau một thời
gian nhất định.
 !""#$!%&'
()$*+%,$-$.$%/"**
/01$%/"$2$*%3.
456
Trong các hình thức trên thì tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng vô
cùng quan trọng, nó là một quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín
dụng cho các doanh nghiệp và các thể nhân khác trong nền kinh tế. Nó không phải là
quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là
quan hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian đó là các ngân
hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng có nhiều cách định nghĩa:
‘‘Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động để cấp tín dụng’’, (Luật các tổ chức tín dụng, 2004)
‘‘Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác’’, (Luật các tổ chức tín dụng, 2010)
‘‘ Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất
định’’, (Nguyễn Minh Kiều, 2009)

Trong luận văn này tác giả nghiên cứu khái niệm tín dụng trên khía cạnh
cho vay vốn của ngân hàng thương mại. Theo tác giả có thể định nghĩa tín
5
dụng ngân hàng như sau “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn từ
ngân hàng đến các đối tượng khác trong nền kinh tế bao gồm tất cả các cá nhân, tổ
chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội, là quan hệ chuyển nhượng vốn có
hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định trên cơ sở quan hệ bình đẳng cả
hai bên cùng có lợi”
789$!$.6
+Tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin: Khi ngân hàng phát vay cho
khách hàng thì khi đó ngân hàng tin tưởng rằng khách hàng có khả năng hoàn trả
được gốc và lãi vốn vay, thẩm định khách hàng là bước bắt buộc khi cho vay nhưng
nếu như không có sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả nợ của khách hàng trong
tương lai thì ngân hàng cũng sẽ không giải ngân vốn. Minh chứng là nhiều ngân
hàng đã tin tưởng cho khách hàng vay vốn mà không cần đến tài sản thế chấp. Do
hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở lòng tin nên sẽ phải chấp nhận rủi ro mang tính
tất yếu. Chính vì thế, các ngân hàng đã đưa ra các quy trình nghiêm ngặt cho việc
cấp các khoản vay.
+Tín dụng ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc giá trị hoàn trả phải lớn
hơn so với giá trị cho vay ban đầu bao gồm cả gốc lẫn lãi: Sở dĩ như vậy là vì vốn
hoạt động của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn do huy động, vốn chủ sở hữu ít khi
được sử dụng để sản xuất kinh doanh mà được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài
sản cố định. Chính vì vậy, sau một thời gian nhất định, ngân hàng phải trả lãi cho
người gửi. Mặt khác ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí như trả lương,
khấu hao… Do đó, người vay ngoài việc trả gốc còn phải trả cho ngân hàng một
khoản lãi cũng chính là nguồn thu nhập của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tồn
tại và phát triển.
+Tín dụng ngân hàng dựa trên nguyên tắc có thời hạn: Đặc trưng này của tín
dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Ngân hàng khi cho khách hàng vay
vốn, dựa vào mục đích sử dụng vốn vay, hoạt động kinh doanh của khách hàng, quá

trình chu chuyển vốn và dựa vào kỳ hạn của nguồn vốn ngân hàng huy động được
để xác định thời hạn vay phù hợp cho khách hàng nhằm đảm bảo ngân hàng có thể
6
thu hồi nợ đúng hạn, tránh trường hợp để khách hàng chiếm dụng vốn của ngân
hàng sử dụng vào các mục đích khác mà ngân hàng không kiểm soát được. Khách
hàng phải cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong
HĐTD. Các khoản tín dụng của NHTM có nguồn gốc chủ yếu từ các khoản tiền gửi
của KH và các khoản NHTM vay mượn. NHTM cũng phải cam kết hoàn trả các
khoản tiền đó đúng theo kỳ hạn. Nguyên tắc này đảm bảo về hoạt động thanh khoản
cho ngân hàng và thực hiện hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với chi phí và
rủi ro thấp nhất.
+Tín dụng ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro và rất nhạy cảm với tình hình
kinh tế chính trị, xã hội; chịu sự giám sát chặt chẽ của xã hội: Hoạt động kinh
doanh của ngân hàng có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực và đối tượng KH
khác nhau. Vì vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM chịu sự ảnh hưởng
mạnh mẽ từ hoạt động kinh doanh của các tầng lớp dân cư, tổ chức trong xã hội, sự
suy thoái hay tăng trưởng của nền kinh tế trong nước và thế giới, sự ổn định hay bất
ổn về chính trị xã hội. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động chứa
nhiều rủi ro từ chính bản thân nội tại của NH và chịu sự tác động của các yếu tố bên
ngoài. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng gây ra hậu quả rất lớn với nền kinh tế
hơn rủi ro từ bất cứ loại hình doanh nghiệp nào.
:;6$$0)$6
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau
và tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, người ta thường phân loại theo một số
tiêu thức sau:
•Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn vay: Căn cứ vào tiêu chí này hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng được phân thành các loại sau
- Tín dụng ngắn hạn: Theo qui định tại khoản 1 điều 8 của Quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN ngày 31/12/2001 thì ‘‘cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn đến 12

tháng’’. Vì vậy có thể hiểu đây là loại hình tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường
được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu
7
động của các doanh nghiệp trong thời hạn ngắn, cụ thể ở đây là 12 tháng. Các loại cho
vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng
+ Cho vay vốn lưu động: Là hình thức cho vay để bổ sung vốn lưu động
thiếu hụt của khách hàng, hạn mức tín dụng là cơ sở để ngân hàng cho vay và giải
ngân. Thời hạn cho vay tùy thuộc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng tài
chính của khách hàng, có thể là vài ngày cho đến 1 năm.
+ Cho vay chiết khấu giấy tờ có giá: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được
thực hiện dưới hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ cho TCTD để nhận
được khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi mức chiết khấu. Chứng từ có giá được phép
phát hành hợp pháp và được pháp luật thừa nhận như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu,
thương phiếu,…
+ Thấu chi: Là một nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động nhằm
cân đối thu chi trên tài khoản vãng lai của khách hàng. Nghiệp vụ thấu chi được
thực hiện bằng cách cho phép khách hàng được tiêu một số tiền cụ thể là hạn mức
thấu chi trên tài khoản trong một thời gian nhất định thường là 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Theo qui định tại khoản 2 điều 8 của Quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 ‘‘: Cho vay trung hạn là các khoản vay có
thời hạn cho vay trên 12 tháng đến 60 tháng”. Đây là loại hình cho vay được dùng
để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật,
mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Theo qui định tại khoản 2 điều 8 của Quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 thì ‘‘: cho vay dài hạn là các khoản vay
có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên” mục đích của khoản vay thường được sử
dụng để tài trợ cho các dự án đầu tư, cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và
mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

Hiện nay, các tổ chức tín dụng đều thận trọng cho vay trung, dài hạn bởi gặp
nhiều rủi ro trong thanh khoản cũng như cơ cấu kỳ hạn của tài sản, do phần lớn
8
lượng vốn huy động đều có kỳ hạn ngắn dưới 1 năm trong khi vay trung hạn từ 1- 3
năm, vay dài hạn thường trên 5 năm. Vốn ngắn hạn chủ yếu phục vụ sản xuất cho
kinh doanh lưu động, trong khi vốn dài hạn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế lâu
dài. Vốn trung, dài hạn nếu không được giải ngân kịp thời, đầu tư phát triển sẽ khó
khăn và kinh tế sẽ không phát triển như mong muốn. Như vậy, cần có những cơ chế
phù hợp để đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng đồng thời phát triển kinh tế
vững mạnh. Trong 3 hình thức cho vay trên thì các TCTD là ngân hàng được thực
hiện tất cả các hình thức sử dụng vốn vay, còn các tổ chức phi ngân hàng thì chỉ
được thực hiện cho vay trung, dài hạn. Điều này cho thấy phạm vi hoạt động của
các ngân hàng thương mại thường diễn ra rộng hơn, phổ biến hơn các hình thức tín
dụng khác.
•Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng chia thành:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại tín dụng được cung cấp
cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ,
các thiết bị gia đình Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên.
- Cho vay bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn và
giải phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay dài hạn tài trợ cho việc mua đất
canh tác, nhà, trung tâm thương mại, kinh doanh bất động sản. Đối với loại hình cho
vay này, thông thường ngân hàng được bảo đảm bằng chính tài sản thực: đất đai,
toà nhà và các công trình khác.
- Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản tín dụng dành cho
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ nông dân trong hoạt động gieo trồng, thu
hoạch và bảo quản sản phẩm.
Với cách phân loại này, ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để đảm

bảo ngân hàng có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro và
9
mức lãi suất được đặt ra cho từng loại.
• Căn cứ theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Cho vay bằng đồng bản tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho
khách hàng bằng VND. Việt Nam quy định, cho vay để thanh toán trong nước thì
chỉ được vay bằng VND.
- Cho vay bằng ngoại tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho khách
hàng bằng đồng ngoại tệ. Nước ta quy định, cho vay bằng ngoại tệ chỉ phục vụ cho
nhập khẩu; đối với khách hàng thu mua hàng xuất khẩu thì Ngân hàng cho vay bằng
ngoại tệ nhưng phải bán luôn cho ngân hàng và dùng VND đi mua hàng xuất khẩu.
•Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có các loại tín dụng sau:
- Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở ngân hàng nắm
giữ các tài sản thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay hoặc thuộc sở hữu của người
bảo lãnh. Các hình thức bảo đảm thường gặp là: thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh.
Mục đích của việc này là khi có sự vi phạm hợp đồng tín dụng, ngân hàng có quyền
xử lý các tài sản đó để thu hồi tiền cho vay. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để
ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu
chắc chắn. Các tài sản bảo đảm ở đây thường là các bất động sản, động sản thuộc
quyền sở hữu của bên đi vay, được phép giao dịch, không có tranh chấp, tài sản
được bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp: Đó là bên vay vốn thế chấp tài
sản của mình cho bên cho vay để đảm bảo khả năng chi trả, hoàn trả vốn vay. Tại
Việt Nam theo quy định tại Điều 342 Bộ luật dân sự năm 2005 thì thế chấp tài sản
là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài
sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Khi thế chấp thì ngân hàng và khách hàng phải
thỏa thuận với nhau về việc định giá tài sản thế chấp và ký kết hợp đồng thế chấp có
sự chứng nhận hợp pháp của phòng công chứng

+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản cầm cố: Theo quy định tại Điều 326 Bộ
luật dân sự năm 2005 thì cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố)
10
giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm
cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Như vậy, theo quy định này thì cầm cố
tài sản trong ngân hàng được hiểu là bên đi vay giao tài sản là các động sản thuộc
sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ
+ Cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Tài sản hình thành từ
vốn vay là tài sản được tạo ra bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của TCTD. Đây
là hình thức mà khách hàng dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó tại các TCTD. Ngân hàng thường áp
dụng hình thức này đối với cho vay dự án nếu khách hàng đáp ứng được các tiêu chí
mà ngân hàng đề ra như mức độ tín nhiệm, có khả năng tài chính để trả nợ, có dự án
khả thi và có vốn tự có tham gia vào dự án
+ Bảo lãnh: Tại Việt Nam theo quy định tại Điều 326 Bộ luật dân sự năm
2005 thì bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể
thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Có 2 hình thức bảo lãnh: Bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay( ngân hàng)
việc dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên
đi vay nếu đến hạn mà khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Hình thức
bảo lãnh thứ hai là bảo lãnh bằng uy tín của các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay
phát ra không cần tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của người thứ ba mà chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định. Ngân hàng không
nắm giữ một loại tài sản nào của người vay để thanh lý nhằm thu hồi khoản vay khi
có vi phạm hợp đồng, thay vào đó là những điều kiện: phương án kinh doanh được

ngân hàng đánh giá có tính khả thi, có khả năng đem lại lợi nhuận cao; doanh
nghiệp phải kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề thời điểm vay vốn. Loại hình
11
này thường được áp dụng với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài với ngân
hàng, khách hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối với
ngân hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh doanh
khả thi, có khả năng hoàn trả nợ
• Căn cứ vào phương thức cho vay
Tại Việt Nam theo quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hành ngày
31/12/2001, ngân hàng tiến hàng cho vay theo các phương thức như sau:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng tiến hành thực
hiện những thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Phương thức này
áp dụng với những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, sản xuất
không ổn định, kinh doanh theo thời vụ, thương vụ.
- Cho vay theo hợp đồng tín dụng: ngân hàng và khách hàng xác định, thoả
thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ
sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự
án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín
dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra cho
vay hợp vốn còn phải thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng
do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. Cho vay hợp vốn có ưu điểm là san
sẻ được rủi ro song nhược điểm là nới lỏng việc kiểm soát tiền vay khách hàng.
- Cho vay trả góp: khi vay vốn, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc chưa được chia ra để trả nợ theo
nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: khách hàng và ngân hàng xác định và thoả
thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Việc cho

vay và thu nợ đan xen nhau, không phân định ranh giới, thời điểm cụ thể lúc nào
cho vay, lúc nào thu nợ. Phương thức này áp dụng đối với các khách hàng có nhu
12
cầu vay trả thường xuyên, tình hình kinh doanh ổn định, vòng quay vốn nhanh và
có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu
tư phục vụ đời sống.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức
tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn
mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy
rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho
vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân
theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ
chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự
phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán
của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy
định tại Quy chế cho vay và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và
đặc điểm của khách hàng vay
•Căn cứ vào quy mô khách hàng
- TD đối với khách hàng pháp nhân: là những khách hàng có tư cách pháp
nhân tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc
doanh có nhu cầu vay vốn cao phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư

- TD đối với khách hàng thể nhân: có nhu cầu vay đa dạng với món vay nhỏ lẻ
, chủ yếu dùng cho tiêu dùng, sản xuất kinh doanh nhỏ.
13
<: Theo ý kiến tác giả thì nghiên cứu cách phân loại tín dụng không
những chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Căn cứ các
cách phân loại cho vay của ngân hàng mà các nhà làm luật Việt Nam có thể xây
dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động thực tiễn và nghiệp vụ
tài chính của các TCTD, tạo điều kiện giúp mỗi TCTD có thể xây dựng cho mình
những chiến lược, chính sách kinh doanh mang tầm vĩ mô, có tính khả thi cao và
hiệu quả để nâng cao được chất lượng tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường thì
việc phân loại tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối.
Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng thì cách phân loại càng chi tiết. Thực hiện
tốt việc phân loại tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng nghiên cứu việc vận dụng vốn tín
dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế của
chúng. Từ đó có sự quản lý phù hợp nhất để nâng cao chất lượng tín dụng.
=>!?$.6
• Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Tín dụng ngân hàng tạo ra lợi nhuận cho NHTM: Trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế là đối đa hoá
lợi nhuận. NHTM cũng không nằm ngoài mục đích đó. Ngân hàng thu lợi nhuận
thông qua các hoạt động dịch vụ cung cấp cho khách hàng như thanh toán, tư vấn,
… nhưng lợi nhuận thu được nhiều nhất chính là từ hoạt động cho vay. Ngân hàng
với tư cách là một trung gian tài chính kinh doanh trên nguyên tắc tiền gửi của
khách hàng dưới hình thức tài khoản thanh toán và tài khoản tiền gửi. Trên cơ sở
đó, ngân hàng tiến hành các hoạt động cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau.
Sự chênh lệch giữa tiền lãi kiếm được thông qua hoạt động cho vay và tiền lãi
phải trả cho các khoản huy động là lợi nhuận thu được. Đây chưa phải là toàn bộ
lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của
ngân hàng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng
hoạt động trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường thì hoạt động tín

dụng ngân hàng càng trở nên đa dạng. Các NHTM để có thể tồn tại và phát triển
trong môi trường cạnh tranh góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội phải luôn tìm
14
cách mở rộng tín dụng.
•Đối với nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thường xuyên có một số các doanh nghiệp trong quá trình
sản xuất kinh doanh có vốn tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản
xuất của các doanh nghiệp như: tiền trả lương cho người lao động nhưng chưa đến
hạn trả; khoản tiền tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nhưng chưa đủ điều kiện để đầu
tư Các khoản tiền trên đây luôn được các doanh nghiệp tìm cách đầu tư kiếm lời.
Ngoài ra còn có các khoản tiền để dành của dân cư, khi chưa có nhu cầu sử dụng,
họ cũng muốn đầu tư để kiếm lời. Tất cả tạo thành nguồn vốn tiềm tàng trong nền
kinh tế. Trong khi đó có một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho
nhu cầu kinh doanh của mình, một số cá nhân trong xã hội cần vốn để cải thiện sinh
hoạt hoặc đối phó với những rủi ro trong cuộc sống… Như vậy, trong xã hội luôn
có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song
những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau, hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất
cao và không kịp thời. Ngân hàng thương mại ra đời đã thoả mãn nhu cầu người có
vốn và người cần vốn, các ngân hàng thương mại đứng ra làm trung gian nhận tiền
gửi từ tất cả các thành phần kinh tế và cho vay lại các đơn vị, cá nhân trong nền
kinh tế. Hay nói cách khác tín dụng ngân hàng là chiếc cầu nối để những người có
vốn và những người cần vốn gặp nhau
- Tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tập trung và
điều hoà vốn trong nền kinh tế.
Thông qua hoạt động "đi vay để cho vay" tín dụng ngân hàng đã làm nhiệm vụ
đưa vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu. Điều này được thể hiện ở việc tín dụng thu
hút các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để cho vay đầu
tư phát triển kinh tế. Bằng các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và phong
phú cùng với việc thoả mãn thích đáng nhu cầu lợi ích của người gửi tiền mà các

ngân hàng thương mại đã thu hút được hầu hết các nguồn tiền nhàn rỗi dù là rất nhỏ
từ trong dân chúng tập trung về tay mình và từ đó đáp ứng được nhu cầu về vốn
15
ngày càng tăng của nền kinh tế, hay nói cách khác hoạt động tín dụng đã làm nhiệm
vụ thông dòng để vốn chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu thông qua việc thực hiện hoạt
động đi vay và cho vay. Nhờ đó đã góp phần cung ứng và điều hoà vốn trong từng
doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất được tiến hành một
cách trôi chảy đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cố định, vốn lưu động, bổ sung tăng
cường củng cố tài sản cố định làm cho quá trình sản xuất được tuần hoàn, thúc đẩy
sản xuất lưu thông, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong xã hội, góp phần thúc
đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển
bền vững. Vì vậy, có thể nói tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá
trình tập trung và điều hoà vốn trong nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và
lãi. Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi thành phần kinh
tế và cho vay khi họ tạm thời thiếu vốn. Các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng ngoài
việc được cung ứng vốn một cách kịp thời đầy đủ còn được ngân hàng hỗ trợ trong
quá trình sử dụng vốn thông qua những ý kiến tư vấn khi lập phương án sản xuất
kinh doanh. Mặt khác, khi sử dụng vốn vay, khách hàng có quan hệ ràng buộc với
ngân hàng bởi trách nhiệm hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi trong một thời gian nhất
định. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải cân nhắc làm thế nào để sử dụng vốn có
hiệu quả nhất, giảm thiểu chi phí, tăng vòng quay của vốn đảm bảo kinh doanh có
hiệu quả cho doanh nghiệp, đồng thời tăng hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân
hàng. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng mà cụ thể là cho vay, ngân hàng có
thể kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho người vay càng
có ý thức hơn trong cơ chế quản lý tài chính, quản lý đồng vốn, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cho doanh nghiệp.
1.2. Chất lượng tín dụng của NHTM

4$@
16
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một loại hàng hoá nào sản xuất ra cũng
phải là những hàng hoá mang tính cạnh tranh. Điều đó có nghĩa là mọi loại hàng hoá
sản xuất ra đều phải có chất lượng. Chất lượng của bất kỳ một loại hàng hoá nào cũng
đều được thể hiện bằng giá trị sử dụng của nó. Muốn tạo ra được những loại hàng hoá
mang giá trị sử dụng cao thì đòi hỏi người sản xuất ra chúng phải trả lời được 3 câu
hỏi quan trọng. Đó là: sản xuất ra cái gì ? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào?
Và các nhà kinh tế đã nhận xét rằng: "Chất lượng là sự phù hợp mục đích của người
sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng là năng lực
của một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng".
Từ những nhận xét như vậy, có thể hiểu chất lượng tín dụng Ngân hàng là
việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển ngân hàng
và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng, giá cả và lượng hàng hoá là ba
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức mạnh và khả năng của doanh nghiệp. Để có thể
đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm là
điều tất yếu. Các nhà kinh tế nói đến chất lượng bằng nhiều cách: Chất lượng là "Sự
phù hợp với mục đích và sử dụng", là" một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều
và độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường" hay chất lượng là "năng
lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người
sử dụng". Với cách đề cập như vậy, thì chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu
của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và phù hợp với sự
phát triển kinh tế xã hội.
Tại Việt Nam còn tồn tại một số quan điểm khác nhau về dịch vụ ngân hàng.
Quan điểm thứ nhất : Các hoạt động sinh lời của NHTM ngoài hoạt động
cho vay thì được gọi là hoạt động dịch vụ. Quan điểm này tách riêng hoạt động tín
dụng với mọi hoạt động khác. Sự phân định như vậy trong xu thế hội nhập và mở
cửa thị trường tài chính hiện nay cho phép ngân hàng thực thi chiến lược tập trung
đa dạng hóa, phát triển và nâng cao hiệu quả các hoạt động phi tín dụng
Quan điểm thứ hai: Tất cả các hoạt động kinh doanh của một NHTM đều

được coi là hoạt động dịch vụ. Ngân hàng là loại hình kinh doanh tiền tệ, cung cấp
17
dịch vụ cho khách hàng. Quan niệm này phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, trong
phân tổ các ngành kinh tế của Tổng cục thống kê Việt Nam, NH là ngành được
phân tổ trong lĩnh vực dịch vụ.
Quan niệm thứ hai coi hoạt động kinh doanh của NHTM là một nghề cung cấp
dịch vụ cho khách hàng. Chính chất lượng của mỗi dịch vụ ngân hàng cung cấp cho
khách hàng đó đem lại hiệu quả kinh doanh cho NHTM. Cũng như các sản phẩm,
dịch vụ khác cung ứng trên thị trường, để đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng
cần có những chỉ tiêu nhất định cả về định tính và định lượng.
- Sự thỏa mãn hài lòng của khách hàng là quan trọng nhất: Dịch vụ do NH
cung ứng cho khách hàng, nếu dịch vụ hoàn hảo, có chất lượng tốt thì sẽ được
khách hàng sử dụng lâu dài, gắn bó
- Sự hoàn hảo của dịch vụ: Nó được hiểu là giảm thiểu các sai sót trong giao
dịch với khách hàng và rủi ro trong kinh doanh dịch vụ của ngân hàng
- Quy mô và tỷ trọng lợi nhuận thu được từ dịch vụ không ngừng tăng lên:
Ngân hàng luôn phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ để cung ứng cho các nhu
cầu khác nhau của khách hàng, phù hợp với mọi loại đối tượng. Bên cạnh đó cũng
không ngừng nâng cao chất lượng của các loại dịch vụ …
NHTM cung cấp dịch vụ tín dụng cho KH, như vậy có thể nói chất lượng tín
dụng cũng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng
trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Nói cụ thể hơn, chất lượng tín dụng chính là
chất lượng các món vay, được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách
hàng sử dụng có mục đích, phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo
trả nợ ngân hàng đúng hạn, bù đắp được chi phí và có lợi nhuận, có nghĩa là ngân
hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội. Như vậy khi đánh giá
chất lượng tín dụng không được đánh giá một cách phiến diện mà phải nhìn tổng
quan trên nhiều phương diện. Quan điểm về chất lượng tín dụng được nhiều tác giả
nghiên cứu, đánh giá ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau và chất lượng tín dụng
được đánh giá trên 3 phương diện như sau:

+Đối với khách hàngA Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân
hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng vì nó là một nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi
18
doanh nghiệp. Mục tiêu của họ là tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể
hơn là tối đa hoá giá trị sử dụng của khoản vốn vay. Chính vì thế với khách hàng để
đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, cái họ quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ
hạn, quy mô, phương thức giải ngân và phương thức thu nợ của khoản tín dụng mà
ngân hàng cung cấp có thoả mãn nhu cầu của họ hay không, làm sao để các thủ tục
được giải quyết một cách nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí hợp lý. Nếu tất
cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì khoản tín dụng đó
được coi là có chất lượng tốt và ngược lại. Do đó, theo quan điểm của khách hàng
thì chất lượng tín dụng là: Sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng về khoản tín dụng
trên các phương diện, lãi suất, quy mô, thời hạn, phương thức giải ngân, phương
thức thu nợ
+Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Thông qua các khoản tín dụng mà
Ngân hàng cung cấp cho các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế, các hoạt động như tái
sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển theo chiều sâu sẽ được tiến hành và góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, đứng trên quan điểm của xã hội để đánh giá
chất lượng tín dụng thì chất lượng tín dụng là: sự đáp ứng cho mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội mà các khoản tín dụng của ngân hàng đem lại. Tín dụng phục vụ sản
xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm
tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt
các quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế, góp phần xây dựng
thị trường tài chính lành mạnh, hiệu quả và ổn định.
+ Đối với Ngân hàng thương mại: Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào
trong nền kinh tế Ngân hàng cũng phải hoạt động kinh doanh làm sao để đem lại
càng nhiều thu nhập cho chủ sở hữu thì càng tốt. Vì thế theo quan điểm của Ngân
hàng thì chất lượng tín dụng với các yếu tố cấu thành cơ bản đó là mức độ an toàn
của tín dụng và khả năng sinh lời do hoạt động tín dụng mang lại. Như vậy CLTD
là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hoạt động tín dụng của NHTM trong quá trình cạnh

tranh để tồn tại. CLTD thể hiện năng lực quản lý của hoạt động tín dụng, đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng về khả năng sinh lời, mức độ hạn chế rủi ro
19
đảm bảo an toàn về vốn phù hợp với quy định của pháp luật. Luận văn chủ yếu tiếp
cận trên phương diện của NHTM.
Như vậy, chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương
đối, nó vừa cụ thể (thể hiện qua chỉ tiêu có thể tính toán được: kết quả kinh doanh
của ngân hàng, nợ quá hạn ) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách
hàng, tác động đến nền kinh tế qua các ảnh hưởng hai chiều ). Chất lượng tín
dụng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan (khả năng, trình độ quản lý của
cán bộ tín dụng) và khách quan (sự thay đổi trong môi trường kinh doanh, xu hướng
phát triển nền kinh tế, sự thay đổi giá cả thị trường). BC$.$%<D$
!"DEF5G $D2D3$<$
D!+$.F&<H,$.@3$$$"&
!IJ&K>0$*++&chất lượng tín dụng là một chỉ
tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự
thay đổi của môi trường bên ngoài và thể hiện sức mạnh của một ngân hàng thương
mại trong quá trình cạnh tranh để tồn tại nhằm hạn chế rủi ro đảm bảo an toàn vốn
và khả năng sinh lời của ngân hàng.
44L $-<$.$6$$@M3F5G
1.2.2.1. Đối với ngân hàng
Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do
tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín dụng và thu hút thêm được
nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt
về biểu tượng và uy tín của Ngân hàng cùng sự trung thành của khách hàng.
Chất lượng tín dụng gia tăng hạn chế được rủi ro, tăng khả năng sinh lợi
của các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng do giảm được chi phí nghiệp vụ, chi phí
quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay. Từ đó cải thiện
được tình hình tài chính của Ngân hàng, tạo thế mạnh cho Ngân hàng trong quá
trình cạnh tranh.

Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của Ngân hàng, bởi vì
chất lượng tín dụng cho phép Ngân hàng có những khách hàng trung thành và
20

×