Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Mỹ thuật trung ương thuộc Bộ Văn hoá thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.44 KB, 90 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế phát triển ngày càng năng động hơn, đây là tính tất yếu
của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và hiện đang phát triển mạnh mẽ tác
động đến toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với mỗi một doanh
nghiệp, giá thành luôn là yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp có thể tái
sản xuất và tìm kiếm lợi nhuận. Giá thành chính là thước đo mức chi phí
tiêu hao phải bù đắp sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh. Để quản lý tốt
chi phớ cỏc doanh nghiệp đã sử dụng nhiều phương pháp, công cụ quản lý
khác nhau. Một trong những công cụ được nhà quản lý quan tâm hàng đầu
là công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm. Trong doanh nghiệp xây dựng cơ bản nói
chung và doanh nghiệp xây dựng mỹ thuật nói riêng, công tác kế toán tập
hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm luôn được xác định là khâu trung
tâm của công tác kế toán. Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là
những chỉ tiêu kinh tế được các nhà quản lý doanh nghiệp đặc biệt quan tâm
vỡ chỳng gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Do đó để
đảm bảo tính đầy đủ và chính xác của giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tớnh
đỳng, tớnh đủ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. Điều này
được thực hiện thông qua công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
Hiện nay, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại một số doanh nghiệp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Kế toán chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm chưa phản ánh chính xác, kịp thời chi phí thực tế
phát sinh, chưa tính đỳng, tớnh đủ giá thành sản phẩm hoàn thành nên chưa
phát huy hết vai trò của nó.
Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và phát huy đầy đủ vai trò cung
cấp thông tin cho việc điều hành, quản lý kinh tế của doanh nghiệp, cần
thiết phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống kế toán, đặc biệt là kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1


Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trờn, tụi đó chọn đề
tài “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
công ty Mỹ thuật trung ương thuộc Bộ Văn hoỏ thụng tin” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích về lý luận và vận dụng lý luận vào thực tiễn ở
Công ty Mỹ thuật trung ương thuộc Bộ văn hoá thông tin, luận văn nhằm
hệ thống những vấn đề lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây dựng mỹ thuật,
hoàn thiện tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công ty Mỹ thuật trung ương thuộc Bộ văn hoá thông tin.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình tổ chức kế toán chi
phí sản xuất và tớnh giỏ thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây
dựng mỹ thuật.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm xây dựng mỹ thuật, nghiên cứu thực trạng về kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng mỹ thuật tại Công
ty mỹ thuật trung ương thuộc Bộ Văn hoá thông tin và tìm ra những tồn
tại cơ bản để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện có thể áp dụng
cho Doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đồng thời sử
dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng
hợp, diễn giải, kết hợp với điều tra thực tế tại Công ty mỹ thuật trung
ương thuộc Bộ Văn hoá thông tin để đánh giá thực trạng và đưa ra
phương hướng giải quyết.
2
5. Những đóng góp của luận văn

Với mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình, bằng việc
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, luận văn đó cú những đóng
góp nhất định:
- Hệ thống hoỏ cỏc vấn đề lý luận về kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây
dựng mỹ thuật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây dựng mỹ thuật tại Công ty Mỹ thuật trung ương thuộc
Bộ Văn hoá thông tin.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Mỹ thuật trung ương thuộc Bộ
văn hoá thông tin.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục
bảng biểu, sơ đồ và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3
chương sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây
dựng mỹ thuật.
- Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại công ty Mỹ thuật trung ương thuộc Bộ Văn hoá thông tin.
- Chương 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại công ty Mỹ thuật trung ương thuộc Bộ Văn hoá thông tin.
3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN
XUẤT SẢN PHẨM XÂY DỰNG MỸ THUẬT
1.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm xây dựng
mỹ thuật có ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.

Trong các ngành trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, xây
dựng cơ bản là ngành sản xuất độc lập, có chức năng tái sản xuất tài sản cố
định, tạo nên cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tăng tiềm lực quốc
phòng cho đất nước.
Ngành xây dựng cơ bản cũng có những đặc điểm kinh tế chung giống
các ngành khác như: sản phẩm được tiến hành một cách liên tục từ khâu
thăm dò, điều tra khảo sát cho đến khâu thiết kế, thi công, quyết toán và
bàn giao công trình. Sản xuất có tính dây chuyền giữa cỏc khõu của hoạt
động sản xuất, cỏc khõu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên
ngành xây dựng cơ bản lại có những nột riờng so với các ngành sản xuất
khác về kinh tế kỹ thuật sự khác biệt đú đó tác động rất nhiều đến công tác
quản lý và hạch toán trong các doanh nghiệp xây lắp.
Việc thi công các công trình, hạng mục công trình thường tổ chức
phân tán không cùng một địa điểm nên khó khăn cho việc quản lý. Do vậy
mà hiện nay các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta thường tổ chức sản xuất
theo phương thức khoán công trình, hạng mục công trình, khối lượng công
việc cho các đơn vị nội bộ doanh nghiệp.
Ngành xây dựng cơ bản nói chung và doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm xây dựng mỹ thuật nói riêng có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật
riêng. Sản phẩm xây dựng mỹ thuật là những công trình, vật kiến trúc có
quy mô lớn, kết cấu phức tạp, quá trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn
thành bàn giao đưa vào sử dụng thường dài, phụ thuộc vào quy mô, tính
chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công thường
chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc
4
khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn các
nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ, lụt…. Do đó sản phẩm xây dựng mỹ
thuật nhất thiết phải được thiết kế và lập dự toỏn riêng nhằm mục đích theo
dõi quá trình thi công và quản lý chi phí chặt chẽ.
Sản phẩm xây dựng mỹ thuật rất đa dạng nhưng mang tính chất đơn

chiếc. Mỗi công trình được tiến hành thi công theo đơn đặt hàng cụ thể,
phụ thuộc theo yêu cầu của khách hàng và theo thiết kế kỹ thuật của công
trỡnh đú. Khi thực hiện các đơn vị phải bàn giao theo đúng tiến độ, đúng
thiết kế kỹ thuật, đảm bảo chất lượng công trình.
Sản phẩm xây dựng mỹ thuật được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá
thỏa thuận với chủ đầu tư từ khi ký hợp đồng, do đó tính chất hàng hóa của
sản phẩm xây dựng mỹ thuật thể hiện không rõ. Nếu quản lý chi phí tốt thì
doanh nghiệp có thể giảm bớt chi phí và tăng lợi nhuận.
Các đặc điểm trên đây của ngành và sản phẩm xây dựng mỹ thuật có
ảnh hưởng không nhỏ tới công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm. Các doanh nghiệp khi thực hiện công tác kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần chú ý tới các đặc điểm trên
để thực hiện tốt công tác này, đảm bảo phản ánh chính xác, trung thực
những chi phí đã chi ra, tớnh đỳng tớnh đủ chi phí vào giá thành, cung cấp
thông tin trung thực cho các đối tượng sử dụng thông tin và giỳp cỏc nhà
quản trị doanh nghiệp ra quyết định đúng đắn.
1.2. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong quản lý
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây dựng mỹ thuật.
1.2.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất sản phẩm xây
dựng mỹ thuật.
1.2.1.1. Chi phí sản xuất sản phẩm xây dựng mỹ thuật.
Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm xây dựng mỹ thuật là một quá trình tác động có ý thức, có mục
đích vào các yếu tố đầu vào để tạo thành các sản phẩm là các công trình,
5
hạng mục công trình nhất định. Trong quá trình đú cỏc doanh nghiệp
phải huy động và sử dụng các nguồn tài lực, vật lực (lao động, vật tư,
tiền vốn ). Nói cách khác các doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản hao
phí về lao động sống, lao động vật hóa phục vụ cho quá trình sản xuất
kinh doanh của mình.

Như vậy chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây
dựng mỹ thuật là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống
và lao động vật hóa và các hao phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi
ra để tiến hành các hoạt động sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định
(tháng, quý, năm).
1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
xây dựng mỹ thuật.
Trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây dựng mỹ thuật, chi phí
sản xuất bao gồm nhiều loại, mỗi loại có tính chất, nội dung kinh tế và
công dụng khác nhau. Tùy theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp
thông tin, giác độ xem xét chi phí mà chi phí sản xuất có thể được phân
loại theo các cách sau:
* Theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí:
Theo cách phân loại này các chi phí cú cựng nội dung và tính chất
kinh tế thì được xếp chung vào cùng một yếu tố không kể chi phí đó phát
sinh ở đâu, dùng vào mục đích gì trong sản xuất sản phẩm, phục vụ quản lý
hay sản xuất trực tiếp. Toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được
chia thành các loại như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật
liệu chính (như thạch cao, đồng, xi măng, cát ), nguyên vật liệu phụ, công
cụ dụng cụ, phụ tùng thay thế, thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp
đã sử dụng cho hoạt động sản xuất trong kỳ. Chi phí nhiên liệu động
lực: Gồm các chi phí về nhiên liệu động lực như xăng, dầu diezen, khí
ga, khí nén
6
- Chi phí nhân công: Gồm tổng số tiền lương, phụ cấp và các
khoản trớch trờn lương của người lao động theo quy định trong doanh
nghiệp trong kỳ.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao về
thiết bị vận tải, máy thi công xây dựng,

- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã
chi trả cho các dịch vụ từ bên ngoài như: tiền điện, tiền nước, tiền thuê
máy thi công
- Chi phí bằng tiền khác: Gồm toàn bộ số tiền phải trả khác cho hoạt
động sản xuất thi công ngoài các yếu tố đã kể trên.
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế như trên
cho biết kết cấu, tỷ trọng từng loại chi phí, là cơ sở để phân tích đánh giá
tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất.
* Theo mục đích và công dụng của chi phí:
Căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí, toàn bộ chi phí sản
xuất phát sinh trong kỳ được chia thành các loại sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ các khoản chi phí về
nguyên vật liệu chính (thạch cao, đồng, xi măng, cỏt, đỏ, sắt, ), nguyên vật
liệu phụ (sơn, vụi…), các cấu kiện, các bộ phận kết cấu công trình sử dụng
trong quá trình sản xuất xây lắp. Nó gồm cả chi phí cốp pha, giàn giáo,
được sử dụng nhiều lần.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền lương, tiền
công phải trả cho công nhân trực tiếp thực hiện lao động, không phân biệt
công nhân trong danh sách hay thuê ngoài.
- Chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân
công và các chi phí khác có liên quan đến quá trình sử dụng máy thi công
cho công trình.
7
- Chi phí sản xuất chung: Bao gồm các khoản chi phí có liên quan đến
việc tổ chức, phục vụ và quản lý thi công của cỏc phũng, tổ, đội sản xuất
trong doanh nghiệp.
Cách phân loại này có tác dụng phục vụ cho việc quản lý chi phí theo
định mức, là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và
xác định định mức chi phí sản xuất cho kỳ sau.

* Theo mối quan hệ với khối lượng công việc hoạt động trong kỳ:
Theo các phân loại này chi phí sản xuẩt được chia thành 3 loại:
- Chi phí khả biến (biến phí)
Là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với
sự thay đổi của khối lượng hoạt động công việc trong kỳ. Tuy nhiên trên
một đơn vị sản phẩm thỡ nú vẫn không thay đổi. Ví dụ thuộc loại chi phí
khả biến là chi phí nguyên vật liệu trưc tiếp.
Biến phí tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
+ Biến phí thực thụ: Là biến phí mà sự biến động của nó thay đổi tỷ lệ
thuận và biến động tuyến tính với mức độ hoạt động như chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp.
+ Biến phí cấp bậc: Là biến phí mà sự thay đổi của chúng chỉ xẩy ra khi
mức độ hoạt động đạt đến một giới hạn, phạm vi nhất định. Ví dụ như chi phí
bảo trì máy móc thiết bị, chi phí điện năng…
- Chi phí bất biến (Định phí)
Là chi phí không thay đổi cho dù có sự thay đổi trong mức độ hoạt
động hoặc khối lượng sản phẩm, công việc trong kỳ. Các khoản chi phí
thuộc loại chi phí này là chi phí khấu hao tài sản cố định theo phương pháp
đường thẳng, chi phí thuê đất…
8
Định phí tồn tại dưới những hình thức ứng xử khác nhau trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Định phí bắt buộc: Là những loại chi phí liên quan đến sử dụng tài
sản dài hạn như khấu hao tài sản cố định. Hai đặc điểm cơ bản của định phí
bắt buộc là: Chúng tồn tại lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp; Chúng không thể cắt giảm toàn bộ trong một thời gian ngắn.
+ Định phí không bắt buộc: Chi phí naỳ phát sinh không gắn liền
với quyết định hàng năm của nhà quản trị như chi phí quảng cáo, chi
phí nghiên cứu…

- Chi phí hỗn hợp:
Chi phí hỗn hợp là những chi phí bao gồm cả hỗn hợp biến phí và định
phí. Ở một mức độ hoạt động nào, chi phí hỗn hợp là định phí, thể hiện đăc
điểm của định phí, ở một mức độ hoạt động khỏc, nú có thể bao gồm cả định
phí, biến phí, đặc điểm của định phí và biến phí.
Áp dụng cách phân loại này kế toán sẽ thuận lợi hơn trong việc phân
tích điểm hoà vốn, đưa ra các biện pháp cần thiết để hạ giá thành sản phẩm.
* Theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí:
Đối với cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành 2 loại:
- Chi phí trực tiếp: là những chi phí có quan hệ trực tiếp với việc sản
xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định. Với những chi phí này
kế toán có thể căn cứ vào số liệu chứng từ kế toán để ghi trực tiếp cho từng
đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí gián tiếp: là những chi phớ có liên quan đến việc sản xuất
nhiều sản phẩm, nhiều công việc, với những chi phí này kế toán phải tiến
hành phân bổ cho các đối tượng có liên quan theo một tiêu chuẩn thích hợp.
Mối quan hệ giữa mục tiêu chi phí, chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:
Tính trực tiếp
9
Mục tiêu chi phí
Chi phí trực tiếp
Phân bổ chi phí

Nhờ có cách phân loại này mà kế toán có thể xác định phương pháp
kế toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn,
hợp lý.
* Theo mối quan hệ với thẩm quyền ra quyết định:
Theo cách phân loại này chi phí được chia thành chi phí kiểm soát
được và không kiểm soát được:
Chi phí kiểm soát được là những chi phí mà nhà quản trị xác định

được chính xác mức phát sinh của nó trong kỳ, đồng thời nhà quản trị
cũng có quyền quyết định sự phát sinh của nó. Chi phí không kiểm soát
được là những chi phí mà nhà quản trị không thể dự đoán chính xác mức
phát sinh của nó trong kỳ và sự phát sinh của nó vượt tầm kiểm soát,
quyết định của nhà quản trị. Ví dụ: Chi phí cấp trên phân bổ đối với nhà
quản trị ở bộ phận.
* Phân loại chi phí trong quá trình phân tích thông tin phục vụ cho
việc ra quyết định:
- Chi phí thích hợp: Dưới khía cạnh là một ngôn ngữ, kế toán có chức
năng truyền đạt thông tin. Kế toán tài chính hệ thống các dữ liệu đã được
ghi chép theo những nguyên tắc thống nhất, thể hiện bằng các báo cáo tài
chính và thông báo cho mọi đối tượng rộng rãi bên ngoài doanh nghiệp.
Trong khi đó, kế toán quản trị cũng tập hợp các dữ liệu nhưng nú cú nhiệm
vụ hệ thống thành những thông tin hữu ích để cung cấp cho các nhà quản
trị xem xét ra quyết định. Vi vậy, kế toán quản trị chỉ quan tâm đến những
chi phí nào thích hợp và sẽ bỏ qua các chi phí nào khụng thớch hợp trong
quá trình ra quyết định.
- Chi phí thực và chi phí cơ hội:
10
Chi phí gián tiếp
Chi phí thực là những chi phí mà sự phát sinh của chúng đi cùng với
sự gia giảm tài sản hay tăng nợ phải trả. Các chi phí nguyên liệu, nhân công
… đều là những chi phí thực. Chi phí khấu hao tuy không chi tiêu nhưng
cũng là chi phí thực.
Chi phí cơ hội là lợi ích bị bỏ qua khi quyết định lựa chọn các phương
án. Lợi ích của một trong các dự án bị bỏ qua trở thành chi phí cơ hội của
dự án được lựa chọn. Khái niệm chi phí cơ hội là yếu tố quan trọng và chủ
yếu khi tính toán hiệu quả của dự án, nhất là về mặt giá trị kinh tế, mặc dù
chỳng khụng được phản ánh trong sổ sách của kế toán tài chính. Hay nói
cách khác, chi phí cơ hội là những khoản thu nhập tiềm tàng bị mất hay bị

hy sinh khi lựa chọn một phương án thay cho một phương án khác.
- Chi phí chìm:
Còn gọi là chi phi lặn, chi phí lịch sử hay chi phí quá khứ, đã phát
sinh trên sổ sách. Tuy nhiên, chúng không được đề cập đến mà cần phải
loại ra khi tính toán hiệu quả kinh tế của những dự án trong tương lai. Sự
điều chỉnh này nhằm tránh những “búp mộo” trước việc ra quyết định. Nói
cách khác, chi phí chìm là những chi phí không thích hợp đối với việc xem
xét để ra quyết định quản trị.
- Chi phí chênh lệch
Chi phí chênh lệch là chi phí chứa đựng nhân tố chênh lệch nhau giữa
các phương án, còn gọi là chi phí chênh lệch hay chi phí gia tăng. Hay nói
cách khác, chi phí chênh lệch là phần chi phí có mặt trong phương án kinh
doanh này nhưng không có hay không có đầy đủ trong phương án kinh
doanh khác; và khái niệm có thể giỳp cỏc nhà quản lý lựa chọn phương án
kinh doanh có lợi nhất một cách nhanh chóng nhất.
- Chi phí biên
Chi phí biên là trường hợp đặc biệt của chi phí gia tăng. Đó là phần
chi phí tăng thêm khi sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm.
11
- Chi phí trung bình
Chi phí trung bình của một đơn vị sản phẩm được tính bằng cách
lấy tổng chi phí để sản xuất các sản phẩm, chia cho số lượng sản phẩm
sản xuất được.
Việc phân loại chi phí sản xuất theo cỏc tiờu thức trờn giỳp doanh
nghiệp có thể kiểm soát được các khoản chi phí đã bỏ ra và là cơ sở để lập
dự toán chi phí.
Phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau là công việc rất cần thiết,
phục vụ cho nhiều mục đích quản lý, hạch toán và kiểm soát chi phí phát sinh
dưới nhiều góc độ khác nhau. Do vậy tùy thuộc đặc điểm sản xuất, quy trình
công nghệ và yêu cầu quản lý mà doanh nghiệp nên lựa chọn cho mình những

cách phân loại phù hợp và cần thiết.
1.2.2. Giá thành và phân loại giá thành sản phẩm xây dựng mỹ thuật.
1.2.2.1. Giỏ thành sản phẩm xây dựng mỹ thuật
Giá thành sản phẩm xây dựng mỹ thuật là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ chi phí tính cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng
công việc hoàn thành đến giai đoạn qui ước hoàn thành, nghiệm thu, bàn
giao và được chấp nhận thanh toán.
Trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây dựng mỹ thuật, giá thành
sản phẩm mang tính chất cá biệt. Mỗi công trình, hạng mục công trình hay
khối lượng công việc hoàn thành đến giai đoạn hoàn thành quy ước đều có
một giá thành riêng. Giá thành là một trong những chỉ tiêu chất lượng quan
trọng đánh giá chất lượng công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu:
- Chức năng thước đo bù đắp chi phí: là toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra được bù đắp bằng số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm để
hoàn thành một khối lượng công việc. Căn cứ vào đơn giá bỏn trờn thị
12
trường, hoặc đơn giá theo giá đấu thầu và căn cứ vào giá thành đơn vị sản
phẩm ta sẽ biết được doanh nghiệp có bù đắp được chi phí đã bỏ ra hay
không.
- Chức năng lập giá: để bù đắp được chi phí đã bỏ ra khi xác định giá
bán của sản phẩm phải căn cứ vào giá thành của nó.
1.2.1.2. Phân loại giá thành sản phẩm
* Căn cứ vào thời điểm và cơ sở số liệu tính giá thành, giá thành sản
phẩm xây dựng mỹ thuật được chia thành 3 loại sau:
- Giá thành dự toán
+ Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình là giá thành
công tác xây lắp được xác định trên khối lượng công tác xây lắp theo thiết
kế được duyệt, các dự toán và đơn giá thành xây dựng cơ bản do cấp có

thẩm quyền ban hành và dựa theo mặt bằng giá cả thị trường.
+ Giá thành dự toán là hạn mức kinh phí cao nhất mà doanh nghiệp có
thể chi ra để đảm bảo có lãi. Nó là tiêu chuẩn để doanh nghiệp phấn đấu hạ
thấp định mức thực tế, là căn cứ để kế hoạch hóa giá thành và đề ra các
biện pháp tổ chức kinh tế kỹ thuật nhằm hoàn thiện nhiệm vụ hạ giá thành.
Trong điều kiện hiện nay để thi công một công trình xây dựng các
doanh nghiệp thường phải tham gia đấu thầu. Do đó giá thành dự toán chia
thành hai loại như sau:
+ Giá thành đấu thầu là loại giá thành do chủ đầu tư đưa ra để doanh
nghiệp căn cứ vào đó xây dựng giá thành dự thầu của mình.
+ Giá thành hợp đồng: là loại giá thành dự toán ghi trong hợp
đồng ký kết giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp sau khi đã thỏa thuận giao
nhận thầu.
13
- Giá thành kế hoạch: là loại giá thành được căn cứ vào những điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp về biện pháp thi công, các định mức và đơn
giá áp dụng trong doanh nghiệp trong một thời kỳ kế hoạch nhất định.
Giá thành kế hoạch được lập dựa vào định mức chi phí nội bộ của
doanh nghiệp, về mặt nguyên tắc định mức chi phí nội bộ này phải tiên tiến
hơn định mức dự toán. Vì vậy giá thành kế hoạch phải bằng hoặc nhỏ hơn
giá thành dự toán.
- Giá thành thực tế: Phản ánh toàn bộ các chi phí thực tế mà doanh
nghiệp đã bỏ ra để thực hiện khối lượng công việc đa nhận thầu. Giá thành
thực tế bao gồm chi phí định mức, chi phí vượt định mức, chi phí không
định mức như: mất mát, hao hụt vật tư, lãng phí vật tư tiền vốn trong quá
trình sản xuất. Giá thành thực tế được xác định dựa trên cơ sở số liệu do kế
toán cung cấp, về nguyên tắc giá thành thực tế < giá thành kế hoạch.
Mối quan hệ giữa các loại giá thành trên như sau:
Giá thành dự toán >= Giá thành kế hoạch >= Giá thành thực tế
* Căn cứ theo phạm vi tính giá thành

- Giá thành sản xuất: gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phi sản xuất chung tính cho
từng công trình, hạng mục công trình hoặc lao vụ đã hoàn thành. Giá thành
sản xuất được tính trong phạm vi chi phí sản xuất phát sinh tại các bộ phận
sản xuất, liên quan đến quá trình sản xuất sản xuất hay thực hiện công việc
lao vụ chớnh. Nú không bao gồm chi phí liên quan đến tiêu thụ sản phẩm.
- Giá thành toàn bộ: gồm chi phí sản xuất và chi phí quản lý doanh
nghiệp tính cho sản phẩm lao vụ đã hoàn thành. Giá thành toàn bộ là căn cứ
14
Giá thành kế
hoạch của CT,
HMCT
Giá thành dự
toán của CT,
HMCT
Mức hạ giá
thành kế hoạch
= -
để tính lợi nhuận trước thuế. Ngoài ra giá thành còn được theo dõi trên hai
chỉ tiêu: giá thành của khối lượng hoàn chỉnh và giá thành của khối lượng
hoàn thành:
+ Giá thành khối lượng hoàn chỉnh: là giá thành của công trình, hạng
mục công trình đã hoàn thành bàn giao, đảm bảo kỹ thuật, chất lượng, đúng
thiết kế và hợp đồng ký kết bàn giao được bên chủ đầu tư nghiệm thu và
chấp nhận thanh toán.
+ Giá thành khối lượng hoàn thành quy ước: là giá thành của các khối
lượng đảm bảo thỏa mãn các điều kiện: phải nằm trong thiết kế, đạt điểm
dừng kỹ thuật được chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
1.2.3. Vai trò, yêu cầu quản lý và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xây dựng

mỹ thuật.
1.2.3.1. Vai trò của công tác kế toán
Trong điều kiện xã hội hiện nay chuyển sang nền kinh tế thị
trường muốn tồn tại và phát triển buộc các doanh nghiệp kinh doanh
phải có lãi, giá thành và chất lượng sản phẩm luôn là hai điều kiện tiên
quyết. Để thực hiện được mục tiêu này các doanh nghiệp phải phấn đấu
tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, kết hợp sử dụng
nhiều biện pháp đồng thời đồng bộ.
Các doanh nghiệp xây dựng mỹ thuật cũng không nằm ngoài mục tiêu
này. Công việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng thường
được thực hiện theo phương thức đấu thầu, sản phẩm tiêu thụ theo giá thỏa
thuận trước. Việc phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản
phẩm là tạo được khoản chênh lệch giữa giá đấu thầu và giá thành thực
tế. Đõy chớnh là điều kiện quyết định tới khả năng tích lũy của doanh
nghiệp và cải thiện đời sống vật chất cho người lao động. Do đó công tác
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đóng vai trò rất
quan trọng nó đảm bảo cung cấp kịp thời chính xác thông tin về chi phí
15
sản xuất và giá thành sản phẩm cho nhà quản trị giúp nhà quản trị biết
được chi phí và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công
trình để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức dự toán chi
phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm từ đó đề ra các biện
pháp hữu hiệu kịp thời đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả cao.
Ngoài ra đối với công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp cũng đóng
vai trò hết sức quan trọng. Nó cung cấp thông tin giúp cho các cơ quan
chức năng của Nhà nước có cái nhìn tổng thể về hoạt động đầu tư đồng
thời tiến hành phân tích đánh giá và đưa ra các biện pháp quản lý nguồn
vốn đầu tư của Nhà nước một cách có hiệu quả.

1.2.3.2. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành trong các doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm xây dựng mỹ thuật.
Do đặc thù riêng của ngành XDCB và sản phẩm xây dựng mỹ thuật nên
việc quản lý công tác đầu tư và xây dựng gặp rất nhiều khó khăn. Để hoạt
động này diễn ra có hiệu quả, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005. Trong Nghị định này Chính phủ đã nêu rõ:
- Công tác đầu tư và xây dựng phải đảm bảo đúng mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
hiện đại hóa, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước
cũng như nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, khai thác nguồn tài nguyên
tiềm năng lao động đất đai và mọi tiềm năng khác, đồng thời bảo vệ
môi trường sinh thái.
- Xây dựng phải theo quy hoạch, kiến trúc và thiết kế được duyệt, đảm
bảo độ bền vững, mỹ quan, thực hiện cạnh tranh trong xây dựng nhằm áp
16
dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây
dựng với chi phí hợp lý và thực hiện bảo hành công trình.
Để đạt được điều này các nhà quản lý phải có biện pháp quản lý thích
hợp, chặt chẽ chi phí sản xuất, tìm cách giảm tối thiểu chi phí sản xuất để
hạ giá thành sản phẩm nhưng chất lượng xây dựng không giảm mà vẫn thu
được nhiều lợi nhuận. Bên cạnh đó một mặt phải cải tiến kỹ thuật để tăng
năng suất, tăng cường công tác quản lý kinh tế mà trọng tâm là quản lý chi
phí sản xuất.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay bên cạnh
phương thức quản lý XDCB truyền thống (quản lý tập trung) cũn cú một
phương thức quản lý mới đó là phương thức giao khoán sản phẩm xây lắp
cho các đơn vị cơ sở, các tổ đội thi công. Phương thức quản lý này rất phù
hợp với điều kiện cơ chế thị trường vì:

+ Gắn liền lợi ích vật chất của người lao động, tổ đội thi công với
khối lượng, chất lượng và tiến độ thi công công trình.
+ Xỏc định rõ trách nhiệm vật chất trong xây dựng.
+ Mở rộng quyền tự chủ về mặt hạch túan kinh doanh
+ Phát huy khả năng sẵn có trên nhiều mặt của các đơn vị cơ sở.
Các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng chủ yếu hai hình thức
khoán sau:
Hình thức khoán gọn công trình
Theo phương thức này đơn vụ giao khoỏn khoỏn toàn bộ giá trị công
trình cho bên nhận khoỏn. Khoỏn trọn gói toàn bộ các khoản mục chi phí
bao gồm vật liệu, nhân công, máy thi công và các khoản mục khác cho đội
nhận khoán. Đội nhận khoán tự tổ chức thực hiện theo tiến độ được quy
định cụ thể, tự chịu trách nhiệm về chất lượng công trình, tiến độ an toàn.
Khi công trình hoàn thành bàn giao quyết toán sẽ đựợc thanh toán toàn bộ
17
giá thành sản phẩm trị công trình nhận khoán. Đội nhận khoán nộp lại
doanh nghiệp số phải nộp ngân sách, số trích quỹ doanh nghiệp.
Hình thức khoán theo từng khoản mục chi phí
Khi bên giao khoán tiến hành giao khoán từng khoản mục chi phí cho
đội nhận khoán theo hợp đồng giao khoán (vật liệu, nhân công, sử dụng
máy thi công). Đội nhận khoán thực hiện các khoản mục chi phí được giao
khoán, bên giao khoán có trách nhiệm thực hiện các khoản mục chi phí
không giao khoán đồng thời tiến hành giám sát chất lượng công trình. Khi
khối lượng công việc công trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn
giao, đội nhận khoán sẽ được thanh toán khoản chi phí nhận khoán theo
giá thành sản phẩm giao khoán.
1.2.3.3. Nhiệm vụ của công tác kế toán chi phí sản xuất
Trong hoạt động sản xuất nói chung và lĩnh vực xây dựng nói riêng thì
tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, xây dựng giá thầu hợp lý là điều kiện
cần thiết để doanh nghiệp có thể cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Do

đó để phát huy được vai trò của kế túan đòi hỏi kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
+ Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành
sản phẩm khoa học phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp.
+ Ghi chép, tính toán, phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm của hoạt động xây lắp, xác định hiệu quả từng phần và toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Tổ chức tập hợp chi phí và phân bổ từng loại chi phí theo đúng đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định bằng phương pháp đã chọn,
cung cấp kịp thời các thông tin, số liệu tổng hợp về các khoản chi phí sản
xuất và yếu tố chi phí quyết định, xác định đúng đắn chi phí phân bổ cho
các sản phẩm dở dang cuối kỳ.
18
+ Vận dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm thích hợp để tính
giá thành sản phẩm xây lắp theo đúng các khoản mục quy định và đúng kỳ
tính giá thành.
+ Định kỳ cung cấp báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
cho lãnh đạo doanh nghiệp tiến hành phân tích các định mức chi phí, dự toán
tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, phát
hiện kịp thời khả năng tiềm tàng, đề xuất các biện pháp thích hợp để phấn đấu
không ngừng tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm.
1.3. Nội dung kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
dựng mỹ thuật.
1.3.1. Qui định chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất của hợp đồng đầu tư xây dựng được xác định dựa
trên hai chuẩn mực kế toán Vịờt Nam, đó là chuẩn mực số 02 “hàng tồn
kho” và chuẩn mực số 15 “hợp đồng xây dựng”.
Chuẩn mực số 02 “hàng tồn kho” quy định và hướng dẫn các nguyên
tắc và phương pháp kế toán hàng tồn kho, gồm: Xác định giá trị và kế toán
hàng tồn kho vào chi phí; Ghi giảm giá trị hàng tồn kho cho phù hợp với giá

trị thuần có thể thực hiện được và phương pháp tính giá trị hàng tồn kho làm
cơ sở ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính.
Hàng tồn kho được tính theo giá gốc. Trường hợp giá trị thuần có thể
thực hiện được thấp hơn giá gốc thì phải tính theo giá trị thuần có thể thực
hiện được.
Giá gốc hàng tồn kho bao gồm: Chi phí mua, chi phí chế biến và các
chi phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để có được hàng tồn kho ở địa
điểm và trạng thái hiện tại.
- Chi phí mua của hàng tồn kho bao gồm giá mua, các loại thuế không
được hoàn lại, chi phí vận chuyển, bốc xếp, bảo quản trong quá trình mua
hàng và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc mua hàng tồn kho.
19
Các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua do hàng mua
không đúng quy cách, phẩm chất được trừ (-) khỏi chi phí mua.
- Chi phí chế biến hàng tồn kho bao gồm những chi phí có liên quan
trực tiếp đến sản phẩm sản xuất, như chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất chung biến đổi phát sinh trong
quá trình chuyển hóa nguyên liệu, vật liệu thành thành phẩm: Chi phí sản
xuất chung cố định là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường không thay
đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất, như chi phí khấu hao, chi phí bảo
dưỡng máy móc thiết bị, nhà xưởng, và chi phí quản lý hành chính ở
các phân xưởng sản xuất; Chi phí sản xuất chung biến đổi là những chi
phí sản xuất gián tiếp, thường thay đổi trực tiếp hoặc gần như trực tiếp
theo số lượng sản phẩm sản xuất, như chi phí nguyên liệu, vật liệu gián
tiếp, chi phí nhân công gián tiếp.
Chi phí sản xuất chung cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi
đơn vị sản phẩm được dựa trên công suất bình thường của máy móc sản
xuất. Công suất bình thường là số lượng sản phẩm đạt được ở mức trung
bình trong các điều kiện sản xuất bình thường.
+ Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra cao hơn công suất

bình thường thì chi phí sản xuất chung cố định được phân bổ cho mỗi đơn
vị sản phẩm theo chi phí thực tế phát sinh.
+ Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất
bình thường thì chi phí sản xuất chung cố định chỉ được phân bổ vào chi
phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường.
Khoản chi phí sản xuất chung không phân bổ được ghi nhận là chi phí sản
xuất, kinh doanh trong kỳ.
Chi phí sản xuất chung biến đổi được phân bổ hết vào chi phí chế biến
cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí thực tế phát sinh.
Trường hợp một quy trình sản xuất ra nhiều loại sản phẩm trong cùng
một khoảng thời gian mà chi phí chế biến của mỗi loại sản phẩm không
20
được phản ánh một cách tách biệt, thì chi phí chế biến được phân bổ cho
các loại sản phẩm theo tiêu thức phù hợp và nhất quán giữa các kỳ kế toán.
Trường hợp có sản phẩm phụ, thì giá trị sản phẩm phụ được tính theo
giá trị thuần có thể thực hiện được và giá trị này được trừ (-) khỏi chi phí
chế biến đã tập hợp chung cho sản phẩm chính.
- Chi phí liên quan trực tiếp khác tính vào giá gốc hàng tồn kho bao
gồm các khoản chi phớ khỏc ngoài chi phí mua và chi phí chế biến hàng
tồn kho. Ví dụ, trong giá gốc thành phẩm có thể bao gồm chi phí thiết kế
sản phẩm cho một đơn đặt hàng cụ thể.
* Chi phí không được tính vào giá gốc hàng tồn kho, gồm: Chi phí
nguyên liệu, vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí sản xuất, kinh doanh
khác phát sinh trên mức bình thường; Chi phí bảo quản hàng tồn kho trừ
các khoản chi phí bảo quản hàng tồn kho cần thiết cho quá trình sản xuất
tiếp theo và chi phí bảo quản quy định ở trên; Chi phí bán hàng; Chi phí
quản lý doanh nghiệp.
* Chi phí cung cấp dịch vụ bao gồm chi phí nhân viên và các chi phí
khác liên quan trực tiếp đến việc cung cấp dịch vụ, như chi phí giám sát và
các chi phí chung có liên quan.

Chi phí nhân viên, chi phí khác liên quan đến bán hàng và quản lý
doanh nghiệp không được tính vào chi phí cung cấp dịch vụ.
Theo chuẩn mực số 15 “hợp đồng xây dựng”, chuẩn mực này quy
định và hướng dẫn việc ghi nhận chi phí của hợp đồng xây dựng làm cơ sở
cho việc ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính. Theo chuẩn mực này thì
chi phí của hợp đông xây dựng bao gồm: Chi phí liên quan trực tiếp đến
từng hợp đồng; Chi phí chung liên quan đến hoạt động của các hợp đồng và
có thể phân bổ cho từng hợp đồng cụ thể; Các chi phí khác có thể thu lại từ
khách hàng theo các điều khoản của hợp đồng.
* Chi phí liên quan trực tiếp đến từng hợp đồng bao gồm: Chi phí
nhân công tại công trường, bao gồm cả chi phí giám sát công trình; Chi phí
21
nguyên liệu, vật liệu, bao gồm cả thiết bị cho công trình; Khấu hao máy
móc, thiết bị và các TSCĐ khác sử dụng để thực hiện hợp đồng; Chi phí
vận chuyển, lắp đặt, tháo dỡ máy móc, thiết bị và nguyên liệu, vật liệu đến
và đi khỏi công trình; Chi phí thuê nhà xưởng, máy móc, thiết bị để thực
hiện hợp đồng; Chi phí thiết kế và trợ giúp kỹ thuật liên quan trực tiếp đến
hợp đồng; Chi phí dự tính để sửa chữa và bảo hành công trình; Các chi phí
liên quan trực tiếp khác.
Chi phí liên quan trực tiếp của từng hợp đồng sẽ được giảm khi cú cỏc
khoản thu nhập khác không bao gồm trong doanh thu của hợp đồng. Ví dụ:
Các khoản thu từ việc bán nguyên liệu, vật liệu thừa, thu thanh lý máy móc,
thiết bị thi công khi kết thúc hợp đồng.
* Chi phí chung liên quan đến hoạt động của các hợp đồng xây dựng
và có thể phân bổ cho từng hợp đồng, bao gồm: Chi phí bảo hiểm; Chi phí
thiết kế và trợ giúp kỹ thuật không liên quan trực tiếp đến một hợp đồng cụ
thể; Chi phí quản lý chung trong xây dựng. Các chi phí này được phân bổ
theo các phương pháp thích hợp một cách có hệ thống theo tỷ lệ hợp lý và
được áp dụng thống nhất cho tất cả các chi phí cú cỏc đặc điểm tương tự.
Việc phân bổ cần dựa trên mức thông thường của hoạt động xây dựng. (Chi

phí chung liên quan đến hoạt động của các hợp đồng và có thể phân bổ cho
từng hợp đồng cũng bao gồm chi phí đi vay nếu thỏa mãn các điều kiện chi
phí đi vay được vốn hóa theo quy định trong Chuẩn mực "Chi phí đi vay").
* Các chi phí khác có thể thu lại từ khách hàng theo các điều khoản
của hợp đồng như chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí triển khai mà khách
hàng phải trả lại cho nhà thầu đã được quy định trong hợp đồng.
* Chi phí không liên quan đến hoạt động của hợp đồng hoặc không
thể phân bổ cho hợp đồng xây dựng thì không được tính trong chi phí của
hợp đồng xây dựng. Các chi phí này bao gồm: Chi phí quản lý hành chính
chung, hoặc chi phí nghiên cứu, triển khai mà hợp đồng không quy định
khách hàng phải trả cho nhà thầu: Chi phí bán hàng; Khấu hao máy móc,
thiết bị và TSCĐ khỏc khụng sử dụng cho hợp đồng xây dựng.
22
* Chi phí của hợp đồng bao gồm chi phí liên quan đến hợp đồng trong
suốt giai đoạn kể từ khi ký hợp đồng cho đến khi kết thúc hợp đồng. Các
chi phí liên quan trực tiếp đến hợp đồng phát sinh trong quá trình đàm phán
hợp đồng cũng được coi là một phần chi phí của hợp đồng nếu chúng có
thể xác định riêng rẽ, có thể ước tính một cách đáng tin cậy và có nhiều khả
năng là hợp đồng sẽ được ký kết. Nếu chi phí phát sinh trong quá trình đàm
phán hợp đồng đã được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ
khi chúng phát sinh thỡ chỳng không còn được coi là chi phí của hợp đồng
xây dựng khi hợp đồng được ký kết vào thời kỳ tiếp sau.
* Một nhà thầu có thể phải bỏ ra những chi phí liên quan tới việc
hình thành hợp đồng. Những chi phí này được ghi nhận là các khoản ứng
trước nếu chúng có thể được hoàn trả. Những chi phí này thể hiện một
lượng tiền mà khách hàng phải trả và được phân loại như là công trình
xây dựng dở dang.
* Kết quả thực hiện hợp đồng xây dựng chỉ có thể xác định được một
cách đáng tin cậy khi doanh nghiệp có thể thu được lợi ích kinh tế từ hợp
đồng. Trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng không thu được một khoản

nào đó đã được tính trong doanh thu của hợp đồng và đã được ghi trong
báo cáo kết quả kinh doanh thì những khoản không có khả năng thu được
đó phải được ghi nhận vào chi phí.
* Doanh nghiệp chỉ có thể lập các ước tính về doanh thu hợp đồng
xây dựng một cách đáng tin cậy khi đã thỏa thuận trong hợp đồng các điều
khoản sau: Trách nhiệm pháp lý của mỗi bên đối với tài sản được xây
dựng; Các điều kiện để thay đổi giá trị hợp đồng; Phương thức và thời
hạn thanh toán. Doanh nghiệp phải thường xuyên xem xét và khi cần
thiết phải điều chỉnh lại các dự toán về doanh thu và chi phí của hợp
đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng.
* Phần công việc đã hoàn thành của hợp đồng làm cơ sở xác định
doanh thu có thể được xác định bằng nhiều cách khác nhau. Doanh nghiệp
cần sử dụng phương pháp tính toán thích hợp để xác định phần công việc
23
đã hoàn thành. Tuỳ thuộc vào bản chất của hợp đồng xây dựng, doanh
nghiệp lựa chọn áp dụng một trong ba phương pháp sau để xác định phần
công việc hoàn thành: Tỷ lệ phần trăm (%) giữa chi phí đã phát sinh của
phần công việc đã hoàn thành tại một thời điểm so với tổng chi phí dự toán
của hợp đồng; Đánh giá phần công việc đã hoàn thành; Tỷ lệ phần trăm
(%) giữa khối lượng xây lắp đã hoàn thành so với tổng khối lượng xây lắp
phải hoàn thành của hợp đồng.
Việc thanh toán theo tiến độ và những khoản ứng trước nhận được
từ khách hàng thường không phản ánh phần công việc đã hoàn thành.
* Khi phần công việc đã hoàn thành được xác định bằng phương pháp
tỷ lệ phần trăm (%) giữa chi phí đã phát sinh của phần công việc đã hoàn
thành tại một thời điểm so với tổng chi phí dự toán của hợp đồng, thì những
chi phí liên quan tới phần công việc đã hoàn thành sẽ được tính vào chi phí
cho tới thời điểm đó. Những chi phí không được tính vào phần công việc
đã hoàn thành của hợp đồng có thể là: Chi phí của hợp đồng xây dựng liên
quan tới các hoạt động trong tương lai của hợp đồng như: Chi phí nguyên

vật liệu đã được chuyển tới địa điểm xây dựng hoặc được dành ra cho việc
sử dụng trong hợp đồng nhưng chưa được lắp đặt, chưa sử dụng trong quá
trình thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp những nguyên vật liệu đó được
chế tạo đặc biệt cho hợp đồng; Các khoản tạm ứng cho nhà thầu phụ trước
khi công việc của hợp đồng phụ được hoàn thành.
* Khi kết quả thực hiện hợp đồng xây dựng không thể ước tính được
một cách đáng tin cậy, thì: Doanh thu chỉ được ghi nhận tương đương với
chi phí của hợp đồng đã phát sinh mà việc được hoàn trả là tương đối chắc
chắn; Chi phí của hợp đồng chỉ được ghi nhận là chi phí trong kỳ khi các
chi phí này đã phát sinh.
* Trong giai đoạn đầu của một hợp đồng xây dựng thường xảy ra
trường hợp kết quả thực hiện hợp đồng không thể ước tính được một cách
đáng tin cậy. Trường hợp doanh nghiệp có thể thu hồi được những khoản
24
chi phí của hợp đồng đã bỏ ra thì doanh thu của hợp đồng được ghi nhận
chỉ tới mức các chi phí đã bỏ ra có khả năng thu hồi. Khi kết quả thực hiện
hợp đồng không thể ước tính được một cách đáng tin cậy thỡ khụng một
khoản lợi nhuận nào được ghi nhận, kể cả khi tổng chi phí thực hiện hợp
đồng có thể vượt quá tổng doanh thu của hợp đồng.
* Các chi phí liên quan đến hợp đồng không thể thu hồi được phải
được ghi nhận ngay là chi phí trong kỳ đối với các trường hợp: Không đủ
điều kiện về mặt pháp lý để tiếp tục thực hiện hợp đồng; Việc tiếp tục thực
hiện hợp đồng còn tuỳ thuộc vào kết quả xử lý các đơn kiện hoặc ý kiến
của cơ quan có thẩm quyền; Hợp đồng có liên quan tới tài sản có khả năng
bị trưng thu hoặc tịch thu; Hợp đồng mà khách hàng không thể thực thi
nghĩa vụ của mình; Hợp đồng mà nhà thầu không thể hoàn thành hoặc
không thể thực thi theo nghĩa vụ quy định trong hợp đồng.
* Khi loại bỏ được các yếu tố không chắc chắn liên quan đến việc ước
tính một cách đáng tin cậy kết quả thực hiện hợp đồng thì doanh thu và chi
phí có liên quan tới hợp đồng xây dựng sẽ được ghi nhận tương ứng với

phần công việc đã hoàn thành.
1.3.2. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng mỹ thuật.
1.3.2.1 Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất.
* Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng mỹ
thuật là phạm vi, giới hạn để tập hợp các chi phí nhằm đáp ứng yêu cầu
kiểm soát chi phí và giá thành sản phẩm xây lắp. Giới hạn, phạm vi tập hợp
chi phí sản xuất có thể là nơi phát sinh chi phí cũng có thể là nơi chịu chi
phí. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là khâu rất quan trọng trong
toàn bộ công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Để xác định được đối
tượng tập hợp chi phí cần căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Tính chất đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc
điểm cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
25

×