Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Nghị luận xã hội về môn lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.18 KB, 6 trang )

Nghị luận xã hội về môn lịch sử
Đề bài: Không ít bạn trẻ hiện nay trong khi rành rẽ lịch sử các nước
lại khá mù mờ về lịch sử nước nhà. Còn trong nhà trường, nhiều
học sinh không mấy mặn mà với việc học Sử và ở các kì thi, điểm số
môn học này lại thấp.
Là thanh niên, anh (chị) có suy nghĩ gì vể hiện tượng này?

“Lịch sử là một thành phần mà thiếu nó thì không một ý thức dân tộc
nào đứng vững được”, phải chăng vì thế mà “Hội thảo thực trạng dạy và
học lịch sử…” vừa rồi đã thu hút sự chú ý của dư luận. Ngày 28/3/2008
hàng loạt tờ báo đưa tin về dự thảo này, báo động về điểm thi môn lịch
sử.
Thực ra thì tiếng chuông cảnh báo không phải chỉ mới có hôm nay mà
đã gióng lên từ rất lâu, song như một diễn giả đã phát biểu, nó đã rơi vào
sự “im lặng đáng sợ” và “tất cả đều rơi vào quên lãng để đến hôm nay
lại trở về điểm xuất phát”. Điểm xuất phát ấy, thật ra, đã được đặt ra từ
mấy thập kỉ qua, đặc biệt là từ khi “Đổi mới”, đổi mới tư duy, trong đó
có tư duy về lịch sử. Chuyện học sinh chán học sử cũng đã được nêu lên
Nghị luận xã hội về môn lịch sử
từ lâu, thể hiện rõ trong điểm thi môn này. Gần đây nhất, năm 2006
trong 4622 thí sinh thi vào Đại học Sư phạm Hà Nội, 655 thí sinh bị
điểm “không” môn sử (chiếm 15%) và chỉ có 6 thí sinh đạt điểm 8 trở
lên. Nếu tính gộp cả bốn trường đại học, trong đó có ba là sư phạm,
nghĩa là trường đào tạo ra những người thầv dạy lịch sử, thì 58,5% thí
sinh có điểm lịch sử từ 1 trở xuống. Thế rồi, năm 2007, có 150.234 thí
sinh bị điểm từ 0 đến 4,5 điểm, chiếm tì lệ tới 95,74% tổng số thí sinh
khối C, số bị điểm 0 gần 6000!
Đã có nhiều phân tích sâu sắc trong hội thảo mà các báo đã đưa, trong
đó, sự phê phán tập trung vào Bộ GD-ĐT. Chuyện ấy không oán tí nào.
Nghị luận xã hội về môn lịch sử
Song, nếu chỉ đổ hoàn toàn cho Bộ GD-ĐT thì liệu có thể giả quyết tận


gốc vấn đề học sinh không thích học môn lịch sử không? Sách giáo khoa
lịch sử có nhiều vấn đề, điều ấy Bộ GD-ĐT phải chịu trách nhiệm, thế
còn những công trình nghiên cứu lịch sử chất lượng kém thì do ai chịu
trách nhiệm? Chất lượng của công trình nghiên cứu lịch sử đã được xuất
bản là điểm tựa để đảm bảo tính chính xác khoa học của sách giáo khoa
lịch sử. Khi chất lượng ấy có vấn đề thì trách nhiệm thuộc về ai? Ai chỉ
đạo xây dựng những công trình đó, trình độ khoa học và bản lĩnh của
nhà sử học có ảnh hưởng gì đến chất lượng công trình lịch sử nước nhà
hay không?
Chỉ xin nêu một vấn đề về tính trung thực lịch sử của những công trình
nghiên cứu lịch sử đã được xuất bản và là điểm tựa của việc hình thành
những sách giáo khoa sử. Một khi mà tính trung thực lịch sử của một số
công trình đã đến với đông đảo công chúng chưa cao, điều mà phần lớn
những nhà sử học có nhân cách đều biết, song cho đến nay, dường như
vấn đề này vẫn chưa được đặt ra một cách sòng phẳng, nghiêm túc và
minh bạch. Liệu rồi điều này có rơi vào “sự im lặng đáng sợ” hay không,
Nghị luận xã hội về môn lịch sử
vì xét cho kĩ, vấn đề nói trên với thực trạng dạy sử và học sử không thể
tách rời nhau. Đương nhiên trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tính chân
lí lịch sử sẽ phải được công bố như thế nào còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố, song dù chưa công bố thì rồi tính chính xác khoa học của lịch sử sớm
muộn gì cũng phải thể hiện ra. Vì vậy cùng với việc nâng cao chất lượng
sách giáo khoa lịch sử, nâng cao trình độ dạy sử của người thầy và ý
thức đối với việc học sử của học trò nhằm bồi dưỡng tình cảm yêu nước
và tinh thần dân tộc cho thế hệ trẻ, phải đặt ra vấn đề chất lượng khoa
học của các công trình nghiên cứu lịch sử mà ở đó, tính trung thực của
tác giả công trình nhằm làm sáng tỏ chân lí lịch sử là điều có ý nghĩa rất
quyết định, Ở đây, trình độ chuyên sâu và bản lĩnh của nhà sử học là
điều mà xã hội trông chờ.
Phải chăng, không thể đặt bộ môn lịch sử riêng rẽ trong hệ thống kiến

thức khoa học mà thế hệ trẻ cần được giáo dục, và hệ thống ấy nằm
trong nền văn hoá dân tộc. Chỉ khi chúng ta suy ngẫm và hiểu ra được
những gì đã hun đúc nên văn hoá Việt Nam, hình thành cốt cách con
người Việt Nam, chúng ta mới hiểu rõ bộ môn khoa học lịch sử giữ một
Nghị luận xã hội về môn lịch sử
vị trí quyết định như thế nào trong nền văn hoá ấy. Bởi lẽ, văn hoá
không phải là một hệ thống đóng kín những giá trị loại biệt mà là một
tổng hợp đang phát triển của các thành tựu vật chất và tinh thần của một
dân tộc. Văn hoá là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống xã hội được phản
chiếu ở bề mặt. Dưới bề mặt đó, văn hoá được phân chia theo những
tầng khác nhau, thường tiềm ẩn và vô thức. Ở độ sâu này, ta thấy có một
sự sắp xếp của các quy tắc văn hoá điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Nói
đến “sức mạnh văn hoá”, chính là nói đến sự tiềm ẩn và vô thức này
nằm chìm trong đời sống của dân tộc. Chính cái đó làm nên ý thức dân
tộc, tạo ra sức mạnh Việt Nam, ý thức và sức mạnh làm cho đất nước
này, dân tộc này tồn tại và phát triển. Và, lịch sử là một thành phần mà
thiếu nó thì không một ý thức dân tộc nào đứng vững được. Không có ý
thức đó thì không thể có một nền văn hoá dân tộc và cũng chẳng thể nào
xây dựng được một xã hội Việt Nam hiện đại và văn minh.
Dòng chảy lịch sử là bất tận, nó tạo nên sức mạnh bất diệt của một dân
tộc. Thế hệ trẻ Việt Nam phải được hiểu kĩ về dòng chảy bất tận đó, phải
được tắm mình vào trong dòng chảy bất tận đó để tự hào về ông cha
Nghị luận xã hội về môn lịch sử
mình đã bao đời kiên cường, bất khuất dựng nước và giữ nước để trao
lại cho thế hệ hôm nay giữ gìn và phát triển. Không có niềm tự hào về
dân tộc, tự hào về nền văn hoá dân tộc sẽ không thể vững tin mà đến với
thế giới. Ớ giai đoạn quá trình phát triển và hội nhập đi vào chiều sâu,
càng phải nâng cao sự hiểu biết của thế hệ trẻ về lịch sử, hiểu rõ về ông
cha mình, thấy ra được chỗ mạnh và chỗ yếu của dân tộc mình.
Trên ý nghĩa đó, việc dạy và học lịch sử, những công trình khoa học lịch

sử chất lượng cao có tác động lớn đến việc đào tạo con người, con người
Việt Nam hôm nay đang phải đối diện với những thách thức chưa từng
có.
Quả thật, “môn lịch sử giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần
xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc dân tộc”, như
thư Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi hội thảo nói trên.

×