Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Nhận diện các rủi ro có thể có trong công nghiệp nêu phương pháp nhận diện, biện pháp phòng chống, giảm thiểu”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.65 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Trong các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân thì công
nghiệp là một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng. “ Công nghiệp trở thành
một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó là kết quả của sự phát triển
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế
cùng nhau tham gia hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước thì vần đề công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta là một tất
yếu khách quan của lịch sử nước nhà. Nền kinh tế tri thức đặt ra cho đất nước,
các doanh nghiệp những cơ hội mới những thách thức trong kinh doanh, phát
triển kinh tế xã hội. Sự phát triển của đất nước cũng tạo nên cơ hội cho các
ngành nghề trong xã hội phát triển. Vấn đề là quá trình ra quyết định trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh cần phải tránh các rủi ro tiềm ẩn như thế nào.
Các ngành nghề trong xã hội nói chung và ngành công nghiệp nói riêng
đều có những rủi ro tiềm ẩn. Tuy nhiên cho tới nay ngành công nghệp nước ta,
các vấn đề về rủi ro và quản trị về rủi ro chưa được nghiên cứu một cách hệ
thống về lý thuyế cũng như vận dụng cơ sở lý thuyết đó để quản trị rủi ro trong
việc phát triển của ngành. Vì thế cần phải có một nghiên cứu tổng quan nhận
diện và đưa ra biện pháp phòng chống nhằm đưa ra các định hướng trong quản
trị rủi ro, nhằm giảm thiểu các thiệt hại phát sinh khi rủi ro sảy ra.
Mặt khác ngành công nghiệp là một ngành tạo tiền đề phát triển nền
kinh tế do vậy nhóm chọn đề tài “ Nhận diện các rủi ro có thể có trong công
nghiệp. Nêu phương pháp nhận diện, biện pháp phòng chống, giảm thiểu”
qua đó góp được phần nào sức lực vào sự phát triển của ngành nói riêng và của
đất nước nói chung.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tạo cơ sở khoa học cho các nhận thức về rủi ro và quản rủi ro, góp phần
hoàn thiện các phương pháp đưa ra các quyết định ở các cơ sở kinh doanh,
doanh nghiệp, nhà nước khi lập dự án đầu tư, xây dựng kế hoạch, tổ chức
sản xuất


1.3 Đối tượng nghiên cứu
Những rủi ro trong ngành công nghiệp nói chung và các ngành thuộc
ngành công nghiệp nói riêng.
1.4 Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan các vấn đề lý luận thực tiễn về rủi ro và quản trị rủi ro, đề
xuất các định nghĩa về rủi ro theo quan điểm của nhóm.
Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp quản trị rủi ro trong ngành công
nghiệp.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Để xác định mục đích, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu nhóm đã sử
dụng phương pháp hệ thống hóa để tổng quan lý thuyết và thực tiễn về rủi ro
và quản trị rủi ro.
Để đưa ra những đánh giá rủi ro và kiến nghị quản trị rủi ro cho ngành
công nghiệp nhóm đã áp dụng hệ thống hóa phân loại phương pháp đã được
xác lập sau khi đã tiến hành phân tích những rủi ro ngành công nghiệp gặp
phải.

NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
1. Các khái niện cơ bản về rủi ro
Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những
trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro
khác nhau. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, nhưng tập trung
lại có thể chia thành hai trường phái lớn:
• Trường phái truyền thống
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn,
sự tổn thất mất mát, nguy hiểm.Nó được xem là điều không lành, điều không
tốt, bất ngờ xảy đến.Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận
thực tế so với lợi nhuận dự kiến.Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý
muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động

xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.Tóm lại, theo quan điểm
này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan
đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con
người.
• Trường phái hiện đại
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa
mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn
thất mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những
cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp
phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại
kết quả tốt đẹp cho tương lai.
 Có thể phân biệt rủi ro theo các tiêu thức sau:
- Rủi ro tĩnh và rủi ro động.
- Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt
- Rủi ro thuần túy và rủi ro đầu cơ. Rủi ro động và rủi ro tĩnh:
Rủi ro động là những rủi ro liên quan đến sự luôn thay đổi, đặc biệt là
trong nền kinh tế. Đó là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể có lợi, nhưng
cũng có thể sẽ mang đến sự tổn thất ( sự thay đổi về thị hiếu khách hàng có thể
phù hợp với sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh hay không, sự thay
đổi về công nghệ kĩ thuật có phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp
hay không, sự thay đổi đó có quá nhanh hay không? )
Rủi ro tĩnh là những rủi ro, mà hậu quả của nó chỉ liên quan đến sự xuất
hiện tổn thất hay không, chứ không có khả năng sinh lời, và không chịu sự ảnh
hưởng của những thay đổi trong nền kinh tế. Những rủi ro tĩnh thường liên
quan đến các đối tượng: tài sản, con người, trách nhiệm dân sự.
Ngoài ra theo tác giả Allan William cho rằng “ rủi ro là sự bất chắc có
thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi “. Diễn giải
một cách cụ thể hơn, các tác giả C.Arthur Williams, Jr. Michael, L.Smith trong
cuốn “ Risk management and insurance “ – Quản trị rủi ro và bảo hiểm - có
viết : “ rủi ro là sự biến động tiềm ẩn của các kết quả. Rủi ro có thể xuất hiện

trong hầu hết mọi hoạt động của con người. Khi có rủi ro người ta không thể
dự đoán được chính xác kết quả. Sự hiện diện của rủi ro là bất định. Nguy cơ
rủi rỏ phát sinh bất cứ khi nào một hành động dẫn đến khả năng được hoặc mất
mà không thế đoán định trước “.
Như vậy dù định nghĩa rủi ro theo cách nào đi chăng nữa thì bản chất
của rủi ro cũng là những thiệt hại gắn liền với khả năng nắm bắt thông tin
không đầy đủ, chính xác, kịp thời của con người trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Tóm lại theo quan điểm của nhóm, rủi ro là thiệt hại trong sản xuất kinh
doanh của ngành công nghiệp không thể nắm bắt thông tin không đầy đủ,
chính xác, kịp thời những thông tin để đưa ra những quyết định phòng ngừa
hoặc giảm đến mức thấp nhất thiệt hại đó.
II. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH
TẾ QUỐC DÂN
1. Khái niệm, vị trí và vai trò của ngành công nghiệp.
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc
dân bao gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp
công nghiệp thực hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của
công nghiệp là toàn bộ công cụ lao động phần lớn đối tượng lao động và vật
phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của xã hội.
Công nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của nền
kinh tế quốc dân, trình độ phát triển của công nghiệp là một trong những tiêu
chuẩn đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia.
Tóm lại, công nghiệp là một phạm trù kinh tế với nhiều hình thức phát
triển ở mức độ khác nhau: công nghiệp gia đình, thủ công nghiệp, tiểu công
nghiệp, công nghiệp hiện đại, công nghiệp tư bản chủ nghĩa , công nghiệp xã
hội chủ nghĩa.
Quá trình phát triển sản xuất công nghiệp cả về cơ sở vật chất kỹ thuật
cũng như kinh tế xã hội đã khẳng định vai trò chủ đạo và từng bước phát huy
vai trò chủ đọa của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.

Vai trò của ngành công nghiệp : vai trò chủ đạo là sự ảnh hưởng quyết
định của công nghiệp đến việc phát triển lực lượng sản xuất của các ngành
kinh tế quốc dân đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những hình mẫu để
các ngành kinh tế khác phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa xã hội chủ
nghĩa.
- Có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra khối lượng của cải
vật chất rất lớn cho xã hội:
+ Tạo ra các TLSX, xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho tất cả các
ngành kinh tế.
+ Tạo ra các sản phẩm tiêu dùng có giá trị góp phần phát triển kinh tế và
nần cao trình độ văn hóa cho xã hội.
+ Tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
thúc đẩy sự phân công lao động xã hội.
+ Củng cố an ninh quốc phòng
- Là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế một nước.
Liên hệ hóa quá trình công nghiệp hóa Việt Nam.
2. Cơ cấu ngành công nghiệp.
Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế ngành công
nghiệp hợp lý có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy quá trình
hội nhập của nước ta vào nền kinh tế thế giới.
Cơ cấu ngành công nghiệp của nước ta tương đối đa dạng với 29 ngành
thuộc 3 nhóm ngành (công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công
nghiệp sản xuất - phân phối điện khí đốt, nước), trong cơ cấu công nghiệp hiện
nay đang nổi lên một số ngành trọng điểm, bên cạnh đó hoạt động công nghiệp
lại chỉ tập trung ở một số khu vực có nhiều thuận lợi về tự nhiên và điều kiện
kinh tế xã hội.
Cơ cấu công nghiệp thường thay đổi phụ thuộc vào: các yếu tố KTXH,
khoa học kỹ thuật, lịch sử, tài nguyên thiên nhiên và hợp tác quốc tế,
• Các loại cơ cấu trong CN

+ Cơ cấu CN theo ngành
+ Cơ cấu CN theo lãnh thổ
+ Cơ cấu CN theo thành phần kinh tế.
3. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
QUA.
Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công
nghiệp phải đương đầu với những khó khăn gay gắt. Do những khuyết điểm,
sai lầm trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công
nghiệp nước ta có trên 4584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ 60
% - 70 % mức trung bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15- 20 %.
Nhiều loại thiết bị sử dụng đã làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3
lần mức trung bình của thế giới. nét nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay
thế, thiếu bảo dưỡng và sửa chữa nên thiết bị ngày càng xuống cấp nghiêm
trọng. Phần lớn các xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50 %- 60% công suất máy.
Trình độ sử dụng tài sản thấp phổ biến là làm việc 1 ca ( 36 %). Do chưa ý
thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan điểm rõ ràng việc
nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất nên giấ thành
sản phẩm thường cao, chất lượng kém, mẫu mã xấu, vì thế sản phẩm khó tiêu
thụ trên thị trường. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được HĐH nhưng lại gặp phải khó
khăn về nguồn vốn đầu tư.
Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp địa
phương càng làm gay gắt thêm tình trạng mất cân đối của nền kinh tế và gây
lãng phí lớn trong sử dụng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên vật liệu. Hiện nay
bình quân mỗi tỉnh, thành phố có 60 %- 70 % xí nghiệp công nghiệp, quá khả
năng cho phép của một địa phương. Tuy nhiên cùng với chính sách chuyển
dịch cơ cấu, chuyển đổi sang cơ chế quản lý kinh tế theo đường lối Đại hội lần
thứ V của Đảng đề ra, nhiều cơ sở kinh tế, nhất là các xí nghiệp quốc doanh
trung ương đang thích ứng dần với môi trường kinh doanh mới, bước đầu duy
trì, ổn định và phát triển sản xuất. Điểm nổi bật là hầu hết các xí nghiệp dần
dần gắn sản xuất với thị trường, chú ý đầu tư chiều sâu, đổi mới mặt hàng,

quan tâm đến chi phí giá thành.
III. Các rủi ro có thể có trong công nghiệp .
Rủi ro hệ thống. Còn được gọi là rủi ro thị trường. Rủi ro hệ thống liên
quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế hay đến phân khúc thị trường.
Rủi ro này ảnh hưởng đến tất cả các công ty bất kể tình trạng tài chính hoặc
quản lý của công ty. Tùy thuộc vào đầu tư, nó có thể liên quan đến yếu tố quốc
tế cũng như là các yếu tố nội địa. Ví dụ, rủi ro hệ thống bao gồm rủi ro lãi suất,
rủi ro lạm phát, rủi ro tiền tệ và rủi ro chính trị xã hội.
Rủi ro cụ thể. Cũng được gọi là rủi ro phi hệ thống, rủi ro cụ thể làm ảnh
hưởng đến ít số lượng công ty trong ngành hoặc đầu tư hơn của ngành. Nhìn
chung, rủi ro cụ thể liên quan đến khoản đầu tư vào một sản phẩm, công ty hay
ngành công nghiệp đặc thù. Ví dụ rủi ro cụ thể bao gồm rủi ro quản lý, rủi ro
pháp lý, rủi ro của bên thứ ba và rủi ro tín dụng.
Rủi ro đầu tư khác. Rủi ro đầu tư cũng có thể tăng lên nếu không theo
dõi hiệu năng và không thay đổi kịp thời danh mục đầu tư. Gặp chuyên viên tư
vấn tài chính thường xuyên để xem xét lại hiệu suất, mục tiêu và thời gian đầu
tư có thể giúp giảm rủi ro này. Sử dụng các chiến lược quản lý rủi ro không
đảm bảo lợi nhuận hoặc bảo vệ khỏi thiệt hại.
Vd: các công ty trong ngành đi đầu tu nhưng không xem xét và tìm hiểu
kỹ trước khi đi đầu tư có thể gây thiệt hại, như đầu tư mua thuyền của công ty
vinasin Việt Nam là một công ty đứng đầu về đóng tàu trong nước do không
tìm hiểu kỹ đầu tư không đúng dẫn đến thua lỗ và nợ nhiều.
Rủi ro thị trường: là do thị trường "đông lạnh", không có kẻ mua, người
bán, thường là không có người mua. Tiêu biểu nhất của rủi ro thị trường là bất
động sản. Một miếng đất, một căn nhà muốn bán được trong lúc thị trường
bình thường cũng đã mất cả tháng; Huống hồ trong thị trường "nguội", có khi
cả năm vẫn chưa bán được nhà. Chắc hẳn bạn còn nhớ đầu thập niên 90, thị
trường địa ốc ở California bị đông lạnh, một căn nhà muốn bán thì phải mất
đến 6 tháng mới may ra bán được.
Vd: sản phẩm sản xuất ra nhưng không có người mua, bất động sản ít

nhộn nhịp gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp xi măng, sắt thép chẳng hạn.
Biến động thị trường : Biến động thị trường là sự tăng và giảm giá trị
của các khoản đầu tư hàng ngày trong một khoảng thời gian nhất định. Thường
bị bóp méo bởi các nhà đầu tư và phương tiện truyền thông khi giá xuống thấp,
sự biến động được hoan nghênh khi nó làm giá trị đầu tư tăng.
Vd: một số công ty trong ngành đi đầu tư vào một dự án, dự án được
đánh giá là khả thi và có khả năng sinh lời cao nhưng do biến động thị trường
khiến ngành các công ty này đầu tư giảm hiệu quả do đó khả năng sinh lời
giảm xuống.
Rủi ro lạm phát : là rủi ro khi sự tăng giá hàng hóa và dịch vụ mà sẽ
dẫn đến mất khả năng mua sắm ngoài ra lạm phát hay còn gọi là vật giá leo
thang, trong một lúc thời điểm kinh tế phát triển thịnh vượng, giá nhà cửa, đồ
ăn, đồ dùng cùng nhau lên giá. Đồng tiền không còn đủ giá trị để mua những
vật dụng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày. Rủi ro lạm phát thường đi liền
với những món tiền đầu tư vào quỹ tiết kiệm, và CD với một số tiền lời quá
khiêm nhượng. Là vì, quĩ tiết kiệm và CD có phân lời quá thấp, nhiều khi
không vượt quá chỉ số lạm phát. Khi nói đến lạm phát, ai cũng bị ảnh hưởng.
Ví dụ: Nếu công ty trong ngành là người hoàn toàn sợ rủi ro, thay vì đi đầu tư,
các công ty giấu tiền dưới gối nằm, các công ty này vẫn là đối tượng của rủi ro
lạm phát. Giá của những gì mua sẽ đắt lên. Chúng ta không thể chạy trốn,
nhưng chúng ta có thể thực hiện các bước để giảm ảnh hưởng của lạm phát.
Không ai tránh được ảnh hưởng của lạm phát. An sinh xã hội và một số
tiền lương hưu cổ truyền tạo ra những điều chỉnh của chi phí sinh hoạt. Nếu
bạn may mắn, tiền lương của bạn sẽ tăng như mức độ lạm phát, nhưng tình
huống này không phải lúc nào cũng như vậy. Ví dụ, nếu lương của bạn tăng
3% một năm và lạm phát tăng 4%, tiêu chuẩn sống của bạn bị giảm 1%.
Lạm phát gây nhiều thiệt hại nhất cho người về hưu và những người
sống với thu nhập cố định. Thông thường, họ phụ thuộc vào thu nhập đầu tư
nhiều hơn là những người vẫn nhận tiền lương định kỳ.
Rủi ro môi trường: Sự thay đổi của môi trường hoạt động

Rủi ro công nghệ, rủi ro quốc gia, rủi ro pháp lý, rủi ro uy tín.
Rủi ro mất vốn: Các công ty trong ngàng công nghiệp khi mua chứng
khoán của một công ty khác là một phần chủ nhân của công ty ấy. Các công ty
này cũng cùng chung số phận với tất cả các chủ nhân của công ty. Nếu công ty
"ăn nên làm ra" thì được chia số lợi nhuận của công ty. Còn ngược lại công ty
làm ăn thua lỗ, thì số tiền vốn đầu tư vào đó cũng xuống theo. Theo luật đầu tư
chứng khoán, các công ty chỉ mất tối đa bằng với số tiền mua cổ phiếu của
công ty mà thôi.
Rủi ro tiền lời: Rủi ro tiền lời thường hay đi liền với bonds- trái phiếu.
Một khi tiền lời giảm, các công ty phát hành trái phiếu mua lại hay còn gọi là
"call" các trái phiếu cũ có phân lời cao, và phát hành trái phiếu mới với phân
lời thấp hơn. Khi tiền lời tăng, giá công phiếu giảm, nếu lúc đó chủ nhân trái
phiếu phải bán trái phiếu ra thì giá sẽ thấp hơn lúc mua vào.
Rủi ro thuế vụ: Thuế vụ cũng là rủi ro trong đầu tư và ảnh hưởng rất
nhiều đến đầu tư của doanh nghiệp. Đa số người đầu tư lợi dụng những kẽ hở
của luật thuế để sinh lợi nhiều hơn. Câu nói mà phần lớn ai sinh sống ở Mỹ đều
biết là: "Cuộc sống ở Mỹ này có 2 điều chắc chắn xảy ra, một là sự chết, hai là
đóng thuế." Có người còn mạnh dạn nói rằng, cách làm giàu nhanh nhất là trốn
thuế. Hằng năm có biết bao nhiêu đổi thay về luật thuế.
Bất kỳ ngành sản xuất công nghiệp nào hầu như cũng bị đánh thuế cũng
đều ảnh hưởng đến việc ra quyết định đầu tư, chọn loại sản phẩm để sản xuất
kinh doanh, cũng như các hoạt động đầu tư. Đầu tư mà không tính toán rủi ro
thuế vụ là một điều thiếu sót vô cùng lớn lao.
Rủi ro chính trị và chính quyền: Chính trị và chính quyền mang không
ít rủi ro cho người đầu tư. Nếu chính phủ liên bang Hoa kỳ không còn miễn
thuế liên bang đối với những loại công phiếu do tiểu bang và thành phố ấn
hành, tình trạng này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giới đầu tư trong 2 loại công
phiếu ấy. Hoặc, nếu chính phủ đánh thuế khi gởi email hoặc mua bán qua
Internet, luật thuế này sẽ gây một tác động mãnh liệt đến các công ty trước nay
vốn thâu lợi lớn qua việc tiếp thị miễn phí bằng email và buôn bán không đóng

thuế trên Internet. Cuối cùng, các cổ đông của các công ty đó sẽ bị ảnh hưởng.
Rủi ro chính trị và chính quyền là loại rủi ro lớn nhất cho những người đang
đầu tư ở các nước kém phát triển, và các nước luật pháp đầu tư không rõ ràng.
Do vậy ảnh hưởng rất nhiều đến ngành công nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp trong ngành nói chung.
Rủi ro kinh tế, xã hội, và ngoại tệ: Lại một lần nữa, rủi ro đi liền với
các mối đầu tư nước ngoài, và nhất là các nước đang phát triển. Tiền tệ của một
quốc gia mà không được ổn định thì cho dù đầu tư có lời đi nữa vẫn bị rủi ro
nhiều.
Rủi ro do nguồn lực: Môi trường kinh doanh hiện đại với áp lực cạnh
tranh ngày một gia tăng buộc doanh nghiệp luôn tìm kiếm giải pháp cung cấp
sản phẩm và dịch vụ tới khách hàng nhanh hơn, rẻ hơn, và tốt hơn đối thủ.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về nguồn lực:
Theo nghĩa hẹp, nguồn lực thường được hiểu là các nguồn lực vật chất
cho phát triển, ví dụ tài nguyên thiên nhiên, tài sản vốn bằng tiền… Theo nghĩa
rộng, nguồn lực được hiểu gồm tất cả những lợi thế, tiềm năng vật chất và phi
vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định nào đó. Tuỳ vào
phạm vi phân tích, khái niệm nguồn lực được sử dụng rộng rãi ở các cấp độ
khác nhau: quốc gia, vùng lãnh thổ, phạm vi doanh nghiệp hoặc từng chủ thể là
cá nhân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế….
Nguồn lực doanh nghiệp được hiểu là khả năng cung cấp các yếu tố cần thiết
cho quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
* Các nguồn lực chính của doanh nghiệp:
- Thông tin: do không nắm bắt kịp thời thông tin, hoặc thu thập được
những thông tin không hiệu quả sai lệch, dẫn đến việc ra quyết định sai, ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của ngành.
- Tài chính: một công ty muốn đi vào sản xuất kinh doanh trước hết phải
có vốn để mua yếu tố đầu vào và thuê muốn nguồn lao động, do vậy nếu nguồn
tài chính hẹp và cạn kiệt thì đầu tư cho sản xuất giảm, tiêu tiền vào những việc
không đúng gây lãng phí nguy cơ phá sản là rất cao.

- Nguồn nhân lực: nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu thay đổi
sản xuất hiện tại, gây cho quá trình sản xuất gián đoạn, hoặc không mang lại
hiệu quả.
- Thiết bị máy móc: thiết bị lạc hậu, không đảm bảo yêu cầu sản xuất,
sản xuất không đủ nhu cầu của người tiêu dùng, tạo ra sản phẩm không đúng
chất lượng đưa ra do vậy không tiêu thụ được dẫn đến không có doanh thu.
- Tài sản cố định.
- Khách hàng, nhà cung cấp
- Quy trình sản xuất, quy trình công nghệ của doanh nghiệp
- Năng lực quản lý của doanh nghiệp
- Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp
- Thương hiệu, uy tín của từng sản phẩm, từng dịch vụ của của doanh
nghiệp
Rủi ro do sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong cũng
lĩnh vực sản xuất : có quá nhiều công ty kinh doanh một mặt hàng, và sẽ có
nhiều công ty sẽ mở trong tương lai kinh doanh cùng loại sản phẩm với các
doanh nghiệp trước đó dẫn đến tình trạng cung nhiều nhưng cầu lại it, do đó
không tiêu thụ được hàng các công ty sẽ phải cắt giảm sản xuất và lực lượng
lao động sản xuất, do đó làm ăn không hiệu quả.
Rủi ro nguyên liệu đầu vào để dùng cho sản xuất : Thiếu nguyên liệu,
nguồn nguyên liệu chưa kịp tái sinh. Ví dụ : như dầu mỏ, quặng, sắt, than,
thiếc do vậy gây ra hậu quả rất lớn trong chỉ cho ngành mà còn cho cả quốc
gia đó.
Ngoài ra trong quá trình khai thác chúng cũng gặp nhiều rủi ro như hỏng
thiết bị khai thác, thời tiết, địa hình
Rủi ro ro sản xuất : không đúng tiêu chuẩn quy định, xác định, dự đoán
thị trường sai lệch, không đủ số lượng quy định, quá trình vận chuyển bị trì
hoãn do bão lũ
Rủi ro ro thay đổi cơ cấu các ngành : trong các ngành công nghiệp nhỏ
trong ngành công nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu không đúng hoặc không đạt

hiệu quả, xác định sai cơ cấu, chính sách tái cơ cấu không khớp với ngành
Ngoài ra còn rủi ro thuế quan khi xuất khẩu: các công ty muốn xuất
bán sản phẩm ra nước ngoài đều bị đánh thuế và trải qua một quy trình đánh
giá khắt khe, dẫn tới tình trạng phải xuất khẩu qua trung gian do đó giảm lợi
ích kinh tế.
Khoa học công nghệ kém phát triển, máy móc trang thiết bị lạc hậu:
không mang lại hiệu quả như mong đơi khi sản xuất đối với một số lĩnh vực
yêu cầu máy móc trang thiết bị hiện đại
Cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia: ngành công ngiệp chiếm cơ cấu
cao trong cơ cấu các ngành không những thế còn là ngành sản xuất ra công cụ
lao động cho các ngành khác do đó, việc cạnh tranh về các sản phẩm do ngành
công nghiệp tạo ra là rất lớn và thường xuyên. Do vậy nếu không bắt sẽ bị loại
khỏi vòng sản xuất, cung cấp.
IV. Các phương pháp nhận dạng rủi ro trong công nghiệp
- Lập bảng câu hỏi nghiên cứu về rủi ro và tiến hành điều tra: Câu hỏi
có thể được sắp xếp theo nguồn phát sinh rủi ro, đối tượng phát sinh rủi ro. Các
câu hỏi cần được trả lời chi tiết theo các vấn đề sau.
+ Hiện nay ngành công nghiệp đang gặp phải các loại rủi ro nào?
+ Số lần xuất hiện rủi ro đó trong khoảng một thời gian nhất định?
+ Kết quả đạt được?
+ Rủi ro chưa xuất hiện nhưng có thể xuất hiện? Lý do?
- Phương pháp lưu đồ: phương pháp này được coi là phương pháp để
nhận diện rủi ro. Trước khi tham gia vào một ngành công nghiệp nào đó các
nhà quản trị sẽ xây dựng các lưu đồ, từ đó nhà quản trị sẽ nhận biết các rủi ro
để tránh gặp phải ở từng giai đoạn khác nhau.
Để đánh giá mức độ thiệt hại mà rủi ro gây ra, các nhà quản trị có thể
đánh giá qua tần suất xuất hiện rủi ro trong một khoảng thợi gian nhất định và
mức độ nghiêm trọng của rủi ro đó. Ví dụ, để đánh giá về rủi ro do tai nạn
ngành công nghiệp mỏ ở Nhật Bản, người ta đã sử dụng các số liệu thống kê số
người bị tai nạ do nổ khí, bụi than và nguyên liệu phát sinh do nổ khí, bụi than

ở Nhật suốt từ năm 1950 đến nay. Như vậy, trong công tác đánh giá rủi ro
thống kê chính xác là việc quan trong nhất.
- Phương pháp thanh tra hiện trường: thanh tra hiện trường là việc rất
cần đối với nhà quản trị rủi ro khi tham gia một ngành công nghiệp nào đó.
Băng cách quan sát và nhận xét thực tế về tổng thể nhà quản trị có thể nhận
dạng được các rủi ro
Các nghiên cứu cần thực hiện khi sử dụng phương pháp thanh tra hiện
trường gồm
+ Vị trí địa lý (thành thị, nông thôn, vùng sâu, xa…)
+ Vị trí tọa lạc( trung tâm, khu dân cư lao đông…)
+ Vấn đề an ninh khu vực
+ Môi trường xung quanh
- Phương pháp thông qua tư vấn: Thông qua tư vấn, nhà quản trị có thể
nắm bắt được thêm những thông tin cần thiết về mối hiểm họa và nguy cơ rủi
ro. Mục đích của tư vấn là tìm kiếm những rủi ro mà nhà quản trị không thấy
hay đã bỏ sót. Các nhà tư vấn có thể là: Các luật sư, các chuyên viên thống
kê…
- Phương pháp phân tích gây sai lỗi: Trong đó phân tích sai lỗi là một
kỹ thuật cho phép phân tích một cách hệ thống cũng như các tác động của các
yếu tố tới sự phát sinh của rủi ro, góp phần cho doanh nghiệp hiểu nguyên
nhân chính. Bằng việc thực hiện phương pháp này, các nhà quản lí có thể tìm
ra các nguyên nhân gốc rễ gây ra các sự kiện từ đó đánh giá và tìm kiếm biện
pháp phù hợp để bảo vệ doanh nghiệp khỏi các thiệt hại lớn.
- Phương pháp phân tích các lỗi tiềm ẩn do con người: rủi ro liên quan
đến yếu tố con người cũng là một trong những lĩnh vực rất cần quan tâm vì
người lao động với các hoạt động có thể vô tình hoặc cố ý gây ra những thiệt
hại trong quá trình sản xuất ( lỗi do người lao động bỏ qua các bước vận hành
hoặc quy trình, lỗi do thời gian,
Phân tích báo cáo tài chính, tổng hợp báo cáo toàn ngành trong năm
của quốc gia.

Phương pháp phân tích hợp đồng:
Phương pháp nghiên cứu các số liệu thống kê:
Phân tích chuỗi rủi ro:
V. Các biện pháp phòng chống, giảm thiểu rủi ro trong ngành công nghiệp.
• Rủi ro hệ thống : có thể được giảm nhẹ bằng chiến lược gọi là phân bổ
tài sản. Điều này liên quan đến việc tạo ra một danh mục đầu tư gồm
những tài sản không có sự liên quan. Trong một danh mục đầu tư gồm
những tài sản có sự tương quan, khi có sự kiện hệ thống xảy ra, tất cả
chứng khoán sẽ cùng lúc tăng hoặc giảm giá. Khi một danh mục đầu tư
được phân bổ trên những tài sản không tương quan, một sự kiện hệ
thống có thể làm một số tài sản mất giá, trong khi những tài sản khác có
thể không bị ảnh hưởng, hoặc thậm chí còn tăng giá. Phân bổ tài sản
giúp giảm rủi ro và dàn trải trên toàn danh mục của bạn.
• Rủi ro thị trường: Nếu phát triển được khả năng tập trung trong dài hạn,
sẽ thành thạo được các phương pháp cơ bản để sống với biến động thị
trường khi giá xuống.
• Rủi ro lạm phát :
 Tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách;
kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư vào
các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh nghiệp;
phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại các thị trường truyền thống và mở rộng thị
trường mới để tăng xuất khẩu.
 Tăng cường các giải pháp khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế hàng
nhập khẩu, thúc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ và du lịch;
chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng công cụ thuế để tăng thuế xuất khẩu ở
mức hợp lý đối với than, dầu thô. Điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu
thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu
như: ô tô nguyên chiếc, kinh kiện lắp ráp ô tô dưới 12 chỗ ngồi, một số mặt
hàng điện tử, điện lạnh, xe và linh kiện lắp ráp xe hai bánh gắn máy, rượu, bia

để thực hiện mục tiêu giảm nhập siêu nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với cam kết
hội nhập; kiến nghị điều chỉnh cơ chế, chính sách về thuế, áp dụng các hàng
rào kỹ thuật và các biện pháp khác cần thiết, phù hợp với các cam kết quốc tế
để hạn chế các mặt hàng thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu.
 Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí
lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp
nhà nước, chấn chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả, đầu tư ra ngoài ngành
sản xuất chính và cơ cấu đầu tư bất hợp lý trong thời gian qua của các đơn vị
này, tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng.
 Tăng cường công tắc quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận
thương mại, chấp hành pháp luật nhà nước về
• Rủi ro môi trường kinh doanh: thường xuyên tìm hiểu thị trường nắm
bắt thông tin về giá cả, sản phẩm một cách kịp thời, có những chính sách
ứng phó sự mất giá hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh.
• Rủi ro mất vốn: Để giảm thiểu sự mất vốn, nên tìm mua cổ phiếu của
những công ty có phẩm chất tốt, làm ăn bề thế, có được sự tin cậy của
nhiều người, công ty làm ăn trên đà phát triển, sản phẩm của công ty có
sức cạch tranh với các đối thủ khác trong thị trường; Công ty đầu tư vào
các ngành đang phát triển hay có tiềm năng cao, ban quản trị có tài. Hơn
nữa không nên đổ tiền vào một công ty duy nhất và cũng không nên đầu
tư vào một nhóm duy nhất.
• Rủi ro tiền lời : Để giảm thiểu giảm thiểu rủi ro tiền lời người mua trái
phiếu nên biết trái phiếu đó có bị "call" hay không, và cũng giống như
rũi ro mất vốn, không nên mua một trái phiếu duy nhất của một người
phát hành duy nhất.
• Rủi ro thuế vụ: hiểu luật, nắm vững các yêu cầu về thuế vụ, thực hiện
đúng như hợp đồng đã ký, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp.
• Rủi ro chính trị và chính quyền: cùng nhà nước phát triển kinh tế xã
hội, tăng cường đầu tư cho nhà nước về các công trình phúc lợi, phối
hợp các bộ phận chức năng trong nội bộ ngành hài hòa ăn khớp, để phát

triển đất nước giàu mạnh.
• Rủi ro kinh tế, xã hội, và ngoại tệ: tìm hiểu thông tin chính sác kịp thời,
đề ra các biện pháp phù hợp với mọi sự biến động để giảm thiểu rủi ro.
• Rủi ro do nguồn lực: Để giảm được rủi ro này vươn tới mục tiêu, các
doanh nghiệp trong ngành cần nỗ lực hoàn thiện công tác quản lý để sử
dụng hiệu quả nhất các nguồn lực trong quá trình sản xuất kinh doanh.
• Rủi ro do sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong cũng
lĩnh vực sản xuất : thường xuyên sáng tạo, tạo sự khác biệt hóa, chiếm
lược tiếp thị và marketing độc đáo, khác lạ.
• Rủi ro ro sản xuất : sử dụng hợp lý tiết kiệm các nguồn lực, tạo mối
quan hệ tốt với các nhà cung ứng nguyên liệu, thường xuyên đổi mới tạo
động lực nâng cao chất lượng cho lao động.
• Rủi ro ro thay đổi cơ cấu các ngành : tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi đưa
ra quyết định thay đổi cơ cấu ngành hoặc tái cơ cấu, đảm bảo hài hòa các
ngành trong nội bộ ngành công nghiệp tránh sự mất mãn. Phát triển thay
đổi cơ cấu theo hướng hiện đại lấy ý kiến từ nội bộ ngành.
• Cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia: xây dựng mối quan hệ tốt với
các nước trên thế giới, không ngừng tự đổi mới và hoàn thiện sản xuất,
sáng tạo, tạo dựng được thương hiệu có sự khác biệt hóa giữa các sản
phẩm.
• Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, máy móc trang
thiết bị. Tìm tòi sáng tạo phát minh sáng chế ra các thiết bị phục vụ
sản xuất hiện đại.
• Để giảm thiểu rủi ro trong đầu tư : thứ nhất, người đầu tư không nên
chỉ đầu tư vào một lãnh vực, hay khu vực nào duy nhất cả. Tỷ dụ khi đầu
tư vào chứng khoán, người đầu tư nên đầu tư vào nhiều khu vực khác
nhau như khu vực y tế, năng lượng, họăc máy móc. Khi đầu tư vào trái
phiếu, công phiếu, người đầu tư nên trải tiền ra mua một số công phiếu
của liên bang, một số của tiểu bang, một số của công ty. Người đầu tư,
cũng không nên chỉ chăm chú vào thị trường nội địa mà còn nên hướng

ngoại, có nghĩa là nên đầu tư vào cả thị trường nước ngoài; các nước
đang có tiềm năng phát triển rất mạnh như Trung Quốc.
 Để giảm thiểu rủi ro một cách tối đa, và mang lợi nhuận về một cách tối
đa, đầu tư cần phải được trải rộng ra bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhiều khu vực đầu tư khác nhau, và cũng như nơi chốn khác nhau. Bạn
hãy làm như người đi buôn trứng vậy, không bao giờ bỏ tất cả trứng vào
chung một giỏ. Còn việc đầu tư bao nhiêu vào khu vực nào thì còn tùy
thuộc vào từng cá nhân, và từng trường hợp khác nhau.
 Sau khi đã kiểm định tình huống và nhận diện các rủi ro chính, phải
chuẩn bị hành động để đối phó với những nguy cơ này. Trong những
trường hợp quyết liệt và căng thẳng nhất, bạn có thể thay đổi phạm vi dự
án để tránh các rủi ro mà tổ chức chưa sẵn sàng để đối mặt.
Ví dụ, một nhà sản xuất xúc xích, do lo ngại về sự nhiễm khuẩn ở đâu đó
trong khâu sản xuất hoặc kênh phân phối, có thể quyết định chỉ sản xuất
thịt đã chế biến và được đóng gói trong bao bì tiệt trùng. Trong những
trường hợp khác, nhà quản lý dự án có thể chủ động ngăn ngừa để sự rủi
ro không trở thành cuộc khủng hoảng. Ví dụ, nếu bạn sợ rằng một thành
viên chủ chốt của dự án có thể rời công ty, bạn nên làm một số việc sau
đây để loại bớt rủi ro hay giảm thiểu những hậu quả bất lợi:
 Các biện pháp để phòng tránh và giảm thiểu rỉ ro khác:
• Tạo động lực cho nguồn nhân lực trong công ty : Đảm bảo rằng thành viên
đó sẽ có một công việc hấp dẫn trong công ty. Chuẩn bị các nhân viên
khác để thế chỗ, trong trường hợp thành viên đó ra đi. Đừng giao cho
thành viên đó quá nhiều nhiệm vụ quan trọng; thay vào đó, hãy phân
công những nhiệm vụ quan trọng cho các thành viên đáng tin cậy trong
nhóm dự án. Điều này góp phần chủ động giảm bớt rủi ro đối với dự án.
• Tuy nhiên, cũng có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách lập kế hoạch cẩn
thận. Ví dụ, nếu khách hàng yêu cầu thay đổi một vài chi tiết nào đó của
sản phẩm mới trong dự án, bạn có thể giảm thiểu rủi ro thông qua việc
hoạch định dự án. Hãy tham khảo trường hợp sau:

VD: Công ty Gizmo đang triển khai dự án giới thiệu một loại ghế văn phòng
cao cấp mới. Nhóm dự án tin rằng tất cả thành quả của hoạt động nghiên
cứu chuyên sâu này vẫn sẽ có giá trị sau hai năm nữa, khi sản phẩm được
giới thiệu ra thị trường. Yếu tố không chắc chắn duy nhất là màu sắc.
Nhà quản lý dự án than phiền: “Năm nay mọi người thích màu đen và
xám, đến năm sau lại chuộng màu hạt dẻ. Không làm sao mà đoán được
màu nào sẽ thu hút khách hàng”.
Ở đây, màu sắc là một rủi ro lớn của dự án này. Nhân viên của
Gizmo có thể hóa giải rủi ro này bằng cách sản xuất loại ghế mới với cả bốn
hoặc năm màu, hy vọng rằng một vài màu trong số đó sẽ được khách hàng ưa
chuộng. Nhưng chiến lược đó lại làm nảy sinh vấn đề tồn kho và không giải
quyết dứt điểm những vướng mắc về màu sắc.
Cuối cùng, nhóm dự án gạt rủi ro màu sắc ra khỏi kế hoạch phát triển.
Áp dụng một bí quyết của BeneTTn – nhà sản xuất trang phục Italia – nhóm đã
đưa việc chọn màu vào giai đoạn cuối cùng trong quy trình thiết kế và sản
xuất. Trưởng phòng sản xuất nói: “Chúng ta sẽ làm ra các bộ phận của sản
phẩm nhưng không bọc vải vội. Khi nào có đơn hàng, chúng ta có thể nhanh
chóng bọc ghế theo màu sắc được khách hàng lựa chọn. Về thực chất, chúng ta
sẽ hoàn toàn không có sản phẩm lưu kho”.
 Tư duy về các khả năng có thể xảy ra
 Phương pháp hữu hiệu nhất để nhận diện các nguy cơ rủi ro, đồng
thời tìm cách giảm thiểu tác động của chúng thường là thông qua
các cuộc họp có sự tham gia của nhiều thành phần với những chức
năng và quan điểm khác nhau. Các cuộc họp phát huy hiệu quả thật
sự vì không ai có thể một mình tính toán trước vô số sự việc có thể
diễn tiến sai lệch trong một dự án, đặc biệt là các dự án lớn. Bạn
hãy triển khai một danh sách các rủi ro nghiêm trọng, và sau đó kết
hợp những rủi ro tương tự nhau thành các nhóm để dễ quản lý. Hãy
cố gắng xác định căn nguyên của những rủi ro này.
Ví dụ, căn nguyên của rủi ro đối với nhà sản xuất ghế văn phòng là

sự lựa chọn màu vải của khách hàng. Một khi bạn hiểu được nguồn gốc rủi ro,
bạn sẽ có lợi thế để chủ động đối phó với chúng.
 Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách
 Hoàn thiện tổ chức
 Tiếp tục kiện toàn bộ máy chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến địa phương.
 Rà soát, bổ sung hoàn thiện chức năng nhiệm vụ, quy chế hoạt động, cơ
chế phối hợp của các Ban Chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống lụt bão và tìm
kiếm cứu nạn từ trung ương đến địa phương và các Bộ, ngành liên quan.
 Chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai. Nâng cấp các trụ sở làm việc đồng thời đầu tư trang thiết bị và
công nghệ bảo đảm điều kiện làm việc cho các cơ quan chỉ đạo phòng,
chống giảm nhẹ thiên tai ở các cấp.
 Xã hội hóa và phát triển nguồn nhân lực
 Thực hiện chính sách xã hội hóa đối với công tác phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai, trong đó: tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá
trình xây dựng văn bản pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch, quản lý và
giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án tại địa phương.
 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng. Xây
dựng năng lực tự phòng ngừa thiên tai, phát huy truyền thống tương thân
tương ái, lá lành đùm lá rách trong cứu trợ thiên tai. Tổ chức lực lượng tự
ứng phó tự nguyện của cộng đồng để tham gia cứu hộ, cứu nạn. Phát huy
vai trò của các tổ chức đoàn thể xã hội trong các hoạt động chuẩn bị ứng
phó, khắc phục hậu quả. Phát triển lực lượng tình nguyện viên trong công
tác tuyên truyền, vận động, khắc phục hậu quả, phục hồi sản xuất
Khuyến khích các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có các hình thức
hỗ trợ đa dạng, hiệu quả cho người dân và địa phương bị thiên tai.
 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngành. Đặc biệt
nguồn nhân lực cho bộ máy tổ chức quản lý, tham mưu, điều hành công
tác phòng, chống và giảm nhẹ rủi ro.

 Nguồn tài chính
 Ngân sách nhà nước đảm bảo cho việc đầu tư. Dự trữ quốc gia được sử
dụng cho công tác phòng, chống và giảm nhẹ rủi ro cho ngành trong
trường hợp cần thiết. Tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA cho các
dự án đầu tư, ưu tiên sử dụng các nguồn vốn ODA không hoàn lại trong
việc nâng cao năng lực, chuyển giao khoa học công nghệ và kinh nghiệm
quản lý.
 Nhà nước giao quyền chủ động cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
trong việc đầu tư và huy động các nguồn vốn hợp pháp vào lĩnh vực
ngành công nghiệp.
 Nâng dần nguồn vốn ngân sách hàng năm cho việc tăng cường năng lực
quản lý, thực hiện các dự án xây dựng mới, nâng cấp, tu bổ các công
trình, các dự án quy hoạch, các dự án tăng cường trang thiết bị dự báo,
cảnh báo, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả và phục hồi sản xuất.
 Nhà nước có chính sách ưu tiên và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hóa hiện đại hóa,khuyến
khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ tiên tiến kết hợp với các biện pháp truyền
thống.
 Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào
việc cung cấp tài chính cho sự nghiệp phát triển chung của ngành.
 Phát triển các chương trình
 Phát triển khoa học công nghệ về phòng, chống và giảm nhẹ rủi ro
 Đẩy mạnh các hoạt động điều tra cơ bản, đầu tư nghiên cứu khoa học và
ứng dụng công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất và khai thác.
 Hiện đại hóa hệ thống thông tin cảnh báo sớm từ trung ương đến các
vùng, miền và địa phương.
 Nhà nước khuyến khích áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, thông tin liên lạc; nâng cao
năng lực nghiên cứu theo dõi các biến đổi của trái đất, các biến động của

tự nhiên trong khu vực và lãnh thổ; khuyến khích ứng dụng công nghệ
mới, vật liệu mới .
 Từng bước phát triển các chuyên ngành khoa học
 Chú trọng nâng cao chất lượng.
 Tăng cường đầu tư
 Rà soát quy hoạch, đầu tư xây dựng nâng cao khả năng thoát lũ của các
công trình phân lũ, chậm lũ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt.
 Thường xuyên kiểm tra đánh giá hiện trạng công trình
 Nâng cao năng lực, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế :Tăng cường
hợp tác với các nước trong khu vực và quốc tế trong công tác cảnh báo,
dự báo, giáo dục, đào tạo, chuyển giao công nghệ, chia sẻ thông tin, kinh
nghiệm, các bài học thực tiễn, tiến tới xây dựng các thỏa thuận, các hiệp
định hợp tác; hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc thực hiện Công
ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu; hợp tác với các nước
trong khu vực về quản lý khai thác bảo vệ tài nguyên nước.
 Tiếp tục xây dựng mới : Quy hoạch khu dân cư, khu công nghiệp, khu du
lịch; quy hoạch, xây dựng công trình phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai,
công trình hạ tầng giao
 Chủ động khai thác nguồn tài nguyên có sự quản lý của nhà nước một
cách có hiệu quả.
 Lập bản đồ vùng, quy hoạch sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu, quản lý việc
khai thác khoáng sản tránh gây tác động xấu đến môi trường ; trồng và
khai thác rừng hợp lý.
 Tăng cường hợp tác với các nước, vùng lãnh thổ trong khu vực .
 Các cuộc phỏng vấn là một cách hiệu quả để xác định vùng có nguy cơ .
Nhóm phỏng vấn có thể hỗ trợ trong việc xác định đường cơ sở rủi ro
đối với dự án
 Rút ra bài học kinh nghiệm là kiến thức kinh nghiệm đã được tổ chức
thành thông tin có thể liên quan đến các lĩnh vực khác nhau trong tổ

chức từ những rủi ro trước đó.
VI. Ví dụ về rủi ro ngành công nghiệp điện
A. Rủi ro mà EVN gặp phải
6.1.1
Vấn
đề độc
quyền EVN
EVN là
tập
đoàn thuộc
sở hữu
Nhà
Nước được
thành
lập năm
1995,

chức năng sản xuất, truyền tải
và phân phối
điện, với
các
chức
năng
đó
h

u
như
EVN có
vị

thế
độc
quyền
hoàn toàn trong ngành, do đó

rất
nhi

u
những bất cập
trong
việc
phát
triển
nguồn cung
điện
nh
ư
:
- Đàm phán, ký
kết
các
hợp
đồng mua bán
điện từ
các nguồn
điện
m

i

ngoài EVN khó
khăn, thiếu
minh
bạch

thường
kéo
dài.
- Giá bán
điện
ch

u
phụ thuộc vào
quyết
định của EVN, do đó

×