Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

luận văn tài chính ngân hàng Phân tích tình hình hoạt động tài chính của công ty cổ phần tập đoàn Đại Phú Tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.62 KB, 73 trang )

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang từng bước đi theo con đường cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Với bước ngoặt là sự hội nhập WTO, Việt Nam đã
đánh dấu vị trí của mình trên thương trường quốc tế.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải tự tồn tại
và trang trải mọi chi phí kinh doanh bằng chính doanh thu của mình. Điều này
chứng minh quản trị tài chính hay nói cụ thể hơn là việc phân tích tình hình
tài chính doanh nghiệp là vô cùng quan trọng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2008 đến nay vẫn
chưa có những chuyển biến khởi sắc đã ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh
nghiệp Việt Nam. Là một doanh nghiệp kinh doanh, công ty cổ phần tập đoàn
Đại Phú Tài cũng gặp không ít khó khăn trong bối cảnh Nhà nước chuyển đổi
cơ cấu quản lý, chịu sức ép từ nhiều phía. Nhờ có sự nỗ lực và tinh thần đoàn
kết của tập thể ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên, công ty đã nhanh chóng
hòa mình vào nền kinh tế thị trường sôi động, giữ vững và mở rộng thị
trường.
Cũng nằm trong số các doanh nghiệp có doanh thu tăng trong cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, công ty cổ phần tập đoàn Đại Phú Tài
nhận thức rõ được vai trò của phân tích tài chính, lợi nhuận chính là chỉ tiêu
chính xác nhất để đánh giá quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ định hướng trên, em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình hoạt động
tài chính của công ty cổ phần tập đoàn Đại Phú Tài” để làm bài khoá luận
tốt nghiệp của mình.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
1
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
Kết cấu của khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tài chính và một số cơ sở lý luận
liên quan đến nghiệp vụ phân tích tài chính doanh nghiệp.
Chương II: Phân tích thực trạng tình hình tài chính của công ty cổ


phần tập đoàn đại phú tài năm (2007- 2009).
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa năng
lực tài chính của công ty cổ phần tập ĐOÀN ĐẠI PHÚ TÀI.
Do sự hạn chế về thời gian và nhận thức nên bài khoá luận sẽ không
tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được những lời góp ý và chỉ bảo của
các thầy cô và các bạn để giúp em thêm kinh nghiệm sau này.
Qua đây em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo –
PGS. TS. Đinh Đăng Quang đã nhiệt tình hướng dẫn để em có thể hoàn
thành tốt bài khoá luận tốt nghiệp này.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
2
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ MỘT SỐ
CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN NGHIỆP VỤ PHÂN
TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1 Những vấn đề cơ bản về tài chính
1.1.1 Khái niệm về tài chính
Từ “tài chính” là một thuật ngữ mơ hồ và có thể hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, nó gợi ý nhiều hơn là chỉ rõ nội dung. Trước hết nó gợi lên thế
giới của kinh tế công cộng. Từ lâu kinh tế tài chính đã là một nghành của
khoa học kinh tế, nó nghiên cứu về quản lý tài chính công cộng, ngân sách,
luật tài chính, kế toán tài chính, hoạt động của kho bạc, các hoạt động của
chính sách tài chính. Theo truyền thống những lĩnh vực khác nhau này đều
thuộc khoa học kinh tế và gắn liền với chính sách của một quốc gia với hoạt
động của các cơ quan quốc gia thế giới thứ hai mà từ tài chính gợi lên là thế
giới của các cơ quan tài chính, các chủ nhà bằng các tổ chức tài chính. Trong
một nền kinh tế trao đổi không ai tránh được quan hệ tài chính, nghĩa là các
việc trao đổi tiền tệ và các tài sản tài chính, số lượng và tính phức tạp của các
nghiệp vụ sẽ dẫn tới sự việc là các nhà trung gian chuyên nghiệp sử dụng các

kỹ thuật tài chính tổ chức ngân hàng cũng như các thị trường tài chính.
Trong doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh nói riêng thì
khái niệm tài chính được hiểu như sau:
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh doanh dưới hình thức
giá trị nảy sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội gắn liền với việc tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp cho yêu cầu sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội. Trong nền kinh tế
thị trường thì hệ thống các quan hệ kinh tế gồm 4 nhóm chỉ tiêu:
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
3
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
+ Quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị của doanh nghiệp với nhà nước,
tuỳ thuộc vào quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp. Nếu là quan hệ nhà nước
thì quan hệ biểu hiện 2 chiều:
- Nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp và doanh nghiệp có trách nhiệm sử
dụng vốn có hiệu quả và bảo toàn vốn.
- Doanh nghiệp phải có trách nhiệm trích nộp đầy đủ nghĩa vị cho nhà
nước như các loại thuế.
Với các loại hình doanh nghiệp khác thì quan hệ giữa doanh nghiệp và
nhà nước là quan hệ một chiều.
+Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và thị trường, doanh nghiệp vừa có
vai trò là người mua người bán và đóng vai trò người tái tạo, tạo lập, sử dụng
các quỹ tiền tệ.
+Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp, quan hệ này chủ yếu là sự dịch
chuyển giá trị trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Nói chung 4 nhóm quan hệ trên đã bao quát toàn bộ những khía cạnh về sự
vận động của vốn. Tuy nó phản ánh những nội dung kinh tế khác nhau nhưng
chúng đều có chung những đặc trưng sau:
- Những quan hệ ấy đề là những quan hệ dưới hình thức giá trị
- Những quan hệ ấy đều nảy sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội

nhằm tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp phục vụ cho quá
trình kinh doanh.
Bản chất của tài chính doanh nghiệp không phải là tiền tệ và quỹ tiền tệ
thông thường mà là sự vận động của giá trị gắn liền với việc tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
1.1.2 Đặc trưng của tài chính
Chừng nào mà các doanh nghiệp chưa có các trung tâm quyết định phức
tạp thì thế giới của tài chính vẫn là thế giới của công cộng và của các trung
gian tài chính. Ở cấp doanh nghiệp, kế toán là kỹ thuật chính để quản lý. Với
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
4
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
nhiệm vụ thu nhập, phân tích xử lý các thông tin về hoạt động của các doanh
nghiệp và các quan hệ giữa các doanh nghiệp và các tác nhân kinh tế khác, kỹ
thuật kế toán đủ để làm chủ việc quản lý.
Mặt khác việc tăng các nhu cầu về tài trợ việc giảm bớt khả năng tự tài
trợ, việc tăng rủi ro về hoạt động kinh tế và rủi ro về tài chính là những yếu tố
chính đảm bảo cho chức năng tài chính trong doanh nghiệp nổi lên. Trong
một thời gian dài chức năng kỹ thuật, rồi đến chức năng thương mại đã giữ
vai trò chủ đạo trong doanh nghiệp. Bây giờ chức năng tài chính giữ một vai
trò quan trọng. Các quyền hạn và phạm vi can thiệp của giám đốc tài chính
mở rộng một cách đáng kể, nhiệm vụ của giám đốc tài chính thì rộng hơn.
Chức trách tài chính có 3 nhiệm vụ :
- Một nhiệm vụ chính trị trong việc xác định chính sách chung của doanh
nghiệp, ở cấp khái niệm (các mục tiêu) cũng như cấp hình thành (kế hoạch hoá)
- Một nhiệm vụ chức năng trong xử lý các thông tin luân chuyển chúng
trong nội bộ và bên ngoài và khai thác chúng để phục vụ các nhà quản lý khi
họ chuẩn bị đưa ra những quyết định chính.
- Một nhiệm vụ điều hành trong việc quản lý các tài sản có tài chính và
thực hiện các nghiệp vụ có tài chính nhất là trong mối liên hệ với các trung

gian tài chính.
1.1.3 Vị trí của tài chính doanh nghiệp
Hiện nay vấn đề tài chính chiếm một vị trí rất quan trọng trong tất cả
các lĩnh vực chỉ là trong phạm vi vi mô (hệ thống tài chính của nền kinh tế)
Nếu xét trong phạm vi một doanh nghiệp người ta coi tài chính doanh
nghiệp là một công cụ quan trọng nhất để quản lý kinh doanh.
Nếu xét trong hệ thống tài chính của nền kinh tế thì tài chính doanh
nghiệp như một cầu nối giữa nhà nước với doanh nghiệp. Bởi vì thông qua
mạng lưới tài chính doanh nghiệp, nhà nước có khả năng thực hiện các chức
năng quản lý vĩ mô để điều tiết nền kinh tế bằng hệ thống các luật thuế, đồng
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
5
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
thời qua mạng lưới tài chính mà doanh nghiệp mở rộng được nguồn thu, mở
rộng ngân sách phục vụ cho các lợi ích công cộng.
1.1.4 Các chức năng của tài chính
Bản chất của tài chính doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các quan
hệ tài chính và biểu hiện ngay trong chức năng vốn của nó.
Tài chính doanh nghiệp có 2 chức năng: :
+ Chức năng phân phối dưới hình thức của cải xã hội.
+ Chức năng giám đốc bằng tiền mọi hoạt động của kinh doanh.
1.1.4.1 Chức năng phân phối
Là chức năng vốn có khách quan của tài chính doanh nghiệp, nó thể hiện
công dụng và khả năng của phạm thù tài chính trong việc phân phối dưới hình
thức giá trị của cải xã hội trên các khâu của quá trình tái sản xuất. Ở đây cần
làm rõ hai vấn đề.
+Tại sao chức năng phân phối lại được coi là chức năng vốn có, khách
quan của phạm trù tài chính?
+Quan niệm về đối tượng phân phối và phân phối. Sự xuất hiện của phạm
trù tài chính doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu trong nền kinh tế. Để tiến

hành kinh doanh thì doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất
định. Lượng vốn này được chia thành những vốn nhỏ hơn (vốn cố định, vốn
lưu động…) tương ứng với các yếu tố của quá trình kinh doanh. Sau khi kết
thúc một chu kỳ kinh doanh nào đó, thu nhập tiền tệ sẽ được trang trải các chi
phí ban đầu đã bỏ ra và tiếp tục cho chu kỳ mới Như vậy, phân phối đã trở
thành một đòi hỏi tất yếu khách quan của mọi quá trình kinh doanh. Cũng vì
vậy, chức năng phân phối cũng có thể coi là một thuộc tính khách quan của
phạm trù tài chính doanh nghiệp. Cũng từ đó ta thấy chức năng phân phối của
tài chính doanh nghiệp được quan niệm cả về phương thức phân phối và đối
tượng phân phối.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
6
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp được biểu hiện trước hết
ở việc phân phối thu nhập của doanh nghiệp. Thu nhập của doanh nghiệp
trước hết phân phối để bù đắp các yếu tố vật chất đã tiêu hao trong quá trình
kinh doanh như: khấu hao máy móc, thiết bị, trả công lao động Phần còn lại
của thu nhập sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh
nghiệp. Lợi nhuận này lại tiếp tục được phân phối: một phần nộp nhà nước
(thuế thu nhập doanh nghiệp), phần còn lại trích nộp các quỹ của doanh nghiệp,
và chia lợi tức cổ phần. Chức năng phân phối của doanh nghiệp không chỉ giới
hạn ở phân phối thu nhập và lợi nhuận mà nó còn hiện diện ở tất cả các khâu
của quá trình tuần hoàn vốn kinh doanh. Như điều chỉnh từ vốn cố định sang
vốn lưu động, thu hút các nguồn tài trợ bên ngoài doanh nghiệp.
Tóm lại, nhờ chức năng phân phối mà các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp
được tạo lập linh hoạt trong việc huy động và sử dụng vốn để đẩy nhanh tốc
độ chu chuyển vốn.
1.1.4.2 Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc cũng là một thuộc tính vốn có khách quan của phạm
trù tài chính doanh nghiệp. Nó biểu hiện trong việc giám sát việc tạo lập và sử

dụng các quỹ, mục đích sử dụng và tính hiệu quả trong quá trình kinh doanh.
Tính chất khách quan của chức năng giám đốc xuất phát từ mục đích của
các doanh nghiệp là bỏ vốn kinh doanh thu lại lợi nhuận càng cao càng tốt và
vì vậy phải giám sát quá trình chi tiêu, quá trình đầu tư sao cho có hiệu quả.
Chức năng giám đốc tài chính là giám đốc bằng tiền thông qua các chỉ tiêu
tài chính. Bởi các chỉ tiêu tài chính phản ánh trung thực và toàn diện quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó đánh giá thực trạng về năng lực tài chính
của doanh nghiệp tại các thời kỳ nhất định, giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp
tăng cường quản lý và điều chỉnh hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Biểu
hiện tập trung nhất của chức năng giám đốc tài chính là giám đốc quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
7
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
Quá trình phân phối sẽ tạo nên hàng loạt các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp,
nhưng các quỹ tiền tệ này được hình thành từ các nguồn tài chính hợp lý và sử
dụng phải có hiều quả, do vậy đây chính là công việc của chức năng giám
sát.Ví như, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau và trong quá trình kinh doanh nó thường xuyên biến động và được
bổ xung như vốn vay, phát hành trái phiếu, cổ phần, hoặc có thể điều chỉnh từ
nguồn vốn lưu động sang nguồn vốn lưu động trong nội bộ Khả năng giám
đốc tài chính cho phép người quản lý lựa chọn những quyết định tài chính
đúng đắn trong việc hình thành và sử dụng các nguồn tài trợ và các quỹ của
doanh nghiệp cho phép lựa chon những dự án đầu tư có hiệu quả và hạn chế
được các rủi ro trong kinh doanh.
Chức năng giám đốc tài chính trong doanh nghiệp còn giúp cho các nhà
quản lý ở các cấp có biện pháp làm lành mạnh hoá các quan hệ tài chính trong
quá trình kinh doanh.
Nói chung hai chức năng tài chính doanh nghiệp là phân phối và giám đốc có
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nhờ có phân phối mà tài chính phải có giám đốc

và ngược lại nhờ có giám đốc thì phân phối mới đúng hướng, có hiệu quả, và
cũng nhờ hai chức năng này sẽ làm lành mạnh hoá tài chính của doanh nghiệp.
1.1.5 Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Như phần trình bày trên, chức năng tài chính doanh nghiệp là khả năng
khách quan và vốn có của phạm trù tài chính thì vai trò của tài chính lại là các
hoạt động chủ quản của người quản lý trong việc nhận thức và tổng hợp các
quy luật, các quan hệ trong quá trình kinh doanh nói chung và trong hoạt động
tài chính nói riêng của doanh nghiệp.
Trong điều kiện hoạt động kinh doanh hiện nay các doanh nghiệp phải tự lo
các nguồn lực tài chính của mình và phải sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu
quả các nguồn lực tài chính đã huy động. Vì vậy, tài chính của doanh nghiệp
có các vai trò sau:
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
8
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
1.1.5.1 Đảm bảo đủ nguồn tài chính cho doanh nghiệp
Vai trò đòi hỏi phải huy động tối đa các nguồn tài chính và đảm bảo cho
tiền của doanh nghiệp được đưa vào kinh doanh một cách hợp lý nhất hiệu
quả nhất. Có nghĩa là doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có đủ tiền để thanh
toán các món nợ đến hạn hoặc huy động thêm tiền để tài trợ cho việc kinh
doanh vào bất cứ lúc nào cần đến. Một doanh nghiệp thiếu nguồn tài chính có
thể dẫn đến phá sản.
Khi huy động nguồn ngân quỹ cho doanh nghiệp, phải đảm bảo rằng các
nguồn tài trợ phải phù hợp với nhu cầu tài chính (về mặt thời gian, kết cấu)
của doanh nghiệp. Các điều kiện điều khoản kèm theo khi huy động càng
thuận lợi càng tốt.
1.1.5.2 Huy động ngân quỹ với chi phí thấp nhất
Vai trò này đòi hỏi phải đảm bảo sự ổn định về nguồn tài chính dài hạn
cho doanh nghiệp, phải phát huy đầy đủ các nhu cầu tín dụng ngắn hạn. Mặt
khác cần tranh thủ mua hàng càng rẻ càng tốt (nhưng phải đảm bảo chất

lượng), để doanh nghiệp ra tăng lợi nhuận.
1.1.5.3 Sử dụng hiệu quả các ngân quỹ
Bên cạnh hai vai trò huy động, vai trò sử dụng tiền bạc của doanh nghiệp
vào các hoạt động phải đem lại lợi nhuận, đầu tư vào các tài sản phải có tỷ lệ
hoàn vốn cao. Không đầu tư vào những vụ đầu tư có độ rủi ro cao, những đầu
tư có thể làm mất khả năng chi trả các món nợ. Vai trò này cũng đòi hỏi phải
xác định được kế cấu hợp lý nhất giữa các loại vốn và nguồn vốn , giữa các
tài sản ngắn hạn và dài hạn mà doanh nghiệp nên thực hiện, hơn thế nữa phải
tìm được những cơ hội đầu tư tốt nhất, những tài sản cần có và nhu cầu thay
thế bổ sung những tài sản mới
1.1.5.4 Vai trò phân tích
Vai trò quan trọng khác của tài chính doanh nghiệp là thực hiện phân tích
tài chính, lập kế hoạch sử dụng vốn và nguồn vốn có kiểm soát các hoạt động
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
9
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
của doanh nghiệp bằng cách sử dụng kỹ thuật ngân quỹ và các kỹ năng kiểm
tra tài chính khác. Vai trò cũng chỉ ra khi phân tích phải xác định được những
điểm mạnh và yếu về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Để từ đó có thể
đầu tư tiền bạc một cách hợp lý nhất, đánh giá đúng nhu cầu gia tăng nhân lực
của doanh nghiệp để chống lại sự cạnh tranh bên ngoài.
1.1.6 Các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp
Khi sử dụng các nguồn lực tài chính bất cứ một doanh nghiệp nào cũng muốn
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhất là về mặt tài chính. Để sử dụng có hiệu
quả tài chính các doanh nghiệp thường đề ra các mục tiêu chính sau:
1.1.6.1 Tối đa hoá lợi nhuận:
Đây là mục tiêu chính của đa số các doanh nghiệp. Tuy nhiên không nên
đặt nó là mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp bởi bất cứ lúc nào cũng có thể
tối đa hoá lợi nhuận hiện tại bằng cách đưa ra những quyết định gây bất lợi
cho các hoạt động dài hạn. Chẳng hạn có thể thực hiện tối đa hoá lợi nhuận

của doanh nghiệp bằng cách mua những máy móc cũ có chất lượng kém và
phân phối sản phẩm loại xấu, trong thời gian đầu điều đó không ảnh hưởng
đến doanh thu của doanh nghiệp nhưng về lâu dài kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ không đảm bảo chất lượng.
1.1.6.2 Tối đa hoá thị phần
Cũng như tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp không nên đặt mục tiêu
chiếm lĩnh thị trường làm mục tiêu duy nhất. Bởi vì khi doanh nghiệp tập
trung vào cải thiện thị phần có thể sẽ phải bán sản phẩm với giá thấp một cách
không khôn ngoan và gánh chịu những chi phí lớn do cạnh tranh với các đối
thủ. Doanh nghiệp sẽ tối đa hoá được thị phần của mình nhưng sẽ phải chi
tiêu nhiều tiền bạc hơn và cuối cùng có thể bị thua lỗ.
1.1.6.3 Tối đa hoá lợi tức của cổ đông
Khi các cổ đông đấu thầu vào một doanh nghiệp nào đó thì chủ yếu nhằm
mục tiêu thu lợi nhuận để đạt được tỷ lệ hoàn vốn cao trên những khoản đầu
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
10
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
tư của họ nếu hoàn cảnh cho phép. Điều này được duy trì trong một khoảng
thời gian càng dài càng tốt. Mặt khác họ vừa muốn tối đa hoá lợi nhuận dài
hạn, đồng thời tối thiểu hoá rủi ro đối với đầu tư của họ. Để thoả mãn mối
quan tâm hàng đầu của các cổ đông, lãnh đạo doanh nghiệp cố gắng tối đa
hoá nhằm làm tăng của cải cho họ. Mặt khác cũng phải xem xét đầy đủ mọi
khía cạnh rủi ro và liên hệ các quyết định tài chính sẽ được đưa ra để quyết
định có nên huy động thêm vốn vào đầu tư cho hoạt động kinh doanh hoặc
phân phối lợi tức hay không.
1.1.7 Tổ chức công tác tài chính trong doanh nghiệp
1.1.7.1 Khái niệm về tổ chức tài chính trong doanh nghiệp
Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc vận dụng tổng hợp các chức năng
của tài chính để đề ra các hình thức, phương pháp thích hợp nhằm xây dựng
các quyết định tài chính đúng đắn về việc tạo lập và sử dụng các nguồn tài

chính các quỹ tiền tệ để phục vụ có hiệu quả cho những mục tiêu kinh doanh
trong những thời kỳ nhất định.
Trong cơ chế thị trường công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp bao gồm
nội dung cơ bản sau:
1.1.7.2 Tham gia thẩm định dự án kinh doanh của doanh nghiệp.
Căn cứ vào những phương thức và mục tiêu của giám đốc hoặc hội đồng
quản trị doanh nghiệp (phân phối sản phẩm hợp lý, đổi mới kỹ thuật ) vạch
ra, trên cơ sở các dự án, dưới góc độ về tài chính phải thẩm định, phân tích về
khả năng thanh toán, lợi nhuận
1.1.7.3 Xây dựng những luận cứ để giám đốc về tài chính
Thực chất đề ra các quy định về tài chính là việc đề xuất hệ thống các biện
pháp tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu đã định
Những quyết định về tài chính thường là:
- Các quyết định về tài trợ dài hạn.
- Các quyết định về tài trợ cho phương án kinh doanh ngắn hạn.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
11
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
- Các quyết định về điều chỉnh quy mô, kết cấu vốn của doanh nghiệp.
- Các quyết định về phân phối thu nhập, lợi nhuận và sử dụng các quỹ.
Tính đúng đắn của những quyết định trên đây sẽ có ảnh hưởng sống còn
đối với doanh nghiệp. Vì vậy việc xác định những luận cứ chính xác cho các
quyết định tài chính được coi là một nhiệm vụ then chốt. Để giúp cho lãnh
đạo có những quyết định tài chính đúng đắn bộ phận tài chính phải có đầy đủ
những dữ kiện về tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch tài chính doanh
nghiệp. Khả năng và nguồn tài chính của doanh nghiệp, những diễn biến và
xu thế của thị trường, nhà nước ở tầm vĩ mô, những thông tin kinh tế.
1.1.7.4 Xây dựng hệ thống kế hoạch tài chính và các biện pháp thực hiện kế
hoạch
Hệ thống kế hoạch tài chính trong doanh nghiệp bao gồm kế hoạch dài hạn

và ngắn hạn.
Kế hoạch ngắn hạn (hàng năm, quỹ) gồm việc xác định kế hoạch vốn và
nguồn vốn lưu động, lợi nhuận và phân phối lợi nhuận, sử dụng các quỹ
doanh nghiệp.
Kế hoạch dài hạn xác định chủ yếu các nguồn tài trợ cho các dự án đầu tư
dài hạn, khả năng trả nợ và lợi nhuận dự kiến.
1.1.7.5 Phân tích kiểm tra, đánh giá kết quả tài chính
Đây cũng chính là một nội dung công tác tài chính của doanh nghiệp.
Thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính như: hệ số thanh toán nhanh, khả
năng thanh toán, hệ số sinh lợi, cho phép những nhà quản lý có thể phân tích
kiểm tra và đưa ra những kết luận chính xác toàn diện về tình hình tài chính
của doanh nghiệp
Qua phân tích và kiểm tra tài chính sẽ giúp cho doanh nghiệp tìm thấy
những biện pháp hữu hiệu để bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.8 Nguyên tắc tổ chức tài chính trong doanh nghiệp
1.1.8.1 Nguyên tắc tuân thủ pháp luật
Mục tiêu chung của các doanh nghiệp nói chung là tối đa hoá lợi nhuận và
để đạt được mục tiêu ấy thì doanh nghiệp có thể không từ bỏ bất cứ một điểm
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
12
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
gì kể cả điều ấy có hại đến lơị ích của doanh nghiệp khác hoặc lợi ích của
quốc gia, từ đó dẫn đến sự hỗn loạn của trật tự xã hội. Vì vậy song song với
bàn tay vô hình của nền kinh tế thị trường thì nhất thiết phải có bàn tay hữu
hình của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế và để điều chỉnh nhà nước phải
sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như: pháp luật, chính sách tiền tệ, chính
sách giá cả Vì vậy, nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp
là phải tôn trọng pháp luật.
1.1.8.2 Nguyên tắc hoạch toán kinh doanh
Tức là dùng tiền làm thước đo kết quả hoạt động kinh doanh lấy thu nhập

của doanh nghiệp để bù đắp chi phí bỏ ra đảm bảo kinh doanh có lãi. Để thực
hiện được điều ấy đòi hỏi việc tổ chức tài chính doanh nghiệp phải hướng vào
hàng loạt các việc khác như:
- Tận dụng khai thác các nguồn vốn
- Bảo toàn và phát huy đồng vốn
- Đầu tư, giám sát nhu cầu thị trường
1.1.8.3 Doanh nghiệp có quyền tự chủ về kinh tế, tài chính và tự chịu trách
nhiệm về hoạt động kinh doanh
1.1.8.4 Tài chính của doanh nghiệp phải thể hiện được trách nhiệm vật chất
và quyền lợi vật chất
Nguyên tắc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trách nhiệm vật chất đối
với các khoản nộp nghĩa vụ cho nhà nước, có trách nhiệm trước pháp luật
trong kinh doanh, trách nhiệm thực hiện các hợp đồng kinh tế.
1.1.8.5 Nguyên tắc tín nhiệm về tài chính trong sản xuất kinh doanh
Đây cũng chính là đạo lý trong kinh doanh. “Chữ tín” không chỉ là một
tiêu chuẩn đạo đức trong đời thường mà còn là một nguyên tắc nghiêm ngặt
trong kinh doanh nói chung và trong công tác tài chính doanh nghiệp nói
riêng. Để giữ được chữ tín doanh nghiệp cần phải nghiêm túc tôn trọng kỷ
luật thanh toán, chi trả phải bảo đảm rõ ràng, chính xác trung thực và đúng
thời hạn. Mặt khác trong kinh doanh cũng cần tỉnh táo đề phòng sự gian dối
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
13
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
bội tín của đối phương.
1.2 Một số cơ sở lý luận liên quan đến nghiệp vụ phân tích tình hình tài chính
của công ty Đại Phú Tài
1.2.1 Khái quát về phân tích tài chính của công ty
1.2.1.1 Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh
về số liệu tài chính hiện hành với các số liệu được chọn trước (tuỳ theo yêu

cầu và phương pháp phân tích). Thông qua việc phân tích tài chính doanh
nghiệp người sử dụng thông tin có thể đánh giá được tình hình tài chính của
doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại và quá khứ cũng như dự báo được tiềm
năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro trong tương lai.
1.2.1.2 Sự cần thiết của việc phân tích tài chính doanh nghiệp
Mục đích quan trọng nhất của phân tích tài chính doanh nghiệp là giúp
những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá
chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc
phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều phía
(chủ doanh nghiệp và bên ngoài).
Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối
quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Bên cạnh
đó, các quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến nhiều mục tiêu khác như tạo
công ăn việc làm, phân phối sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp,
đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ
có thể thực hiện được mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn
và là hai mục tiêu cơ bản: Kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh
nghiệp bị lỗ liên tục, rút cuộc sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng
cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn
cũng bị buộc phải ngừng hoạt động và đóng cửa. Như vậy, hơn ai hết, các nhà
quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin và hiểu rõ doanh nghiệp nhằm đánh
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
14
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
giá tình hình tài chính đã qua, thực hiện cân bằng tài chính khả năng thanh
toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán tình hình tài chính nhằm đề ra quyết định đúng.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan
tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ
đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền
nhanh. Từ đó, so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán

tức thời của doanh nghiệp. Ngoài ra, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay
tín dụng cũng rất quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu. Bởi vì, số vốn
chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp
rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng cho vay nếu các thông tin đó cho thấy người
vay không đảm bảo chắc chắn rằng các khoản vay đó có thể và sẽ được thanh
toán khi đến hạn. Người cho vay cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp vì đó là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay dài hạn.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố
như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn Vì
vậy, họ cần những thông tin và điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết
quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời, các
nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả
của công tác quản lý. Những điều đó nhằm bảo đảm sự an toàn và tính hiệu
quả cho các nhà đầu tư.
Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, (chủ sở hữu), các nhà quản lý, các nhà
đầu tư, các chủ ngân hàng còn có nhiều nhóm người khác quan tâm đến
thông tin tài chính của doanh nghiệp. Đó là các cơ quan tài chính, thuế, thống
kê, chủ quản, các nhà phân tích tài chính, những người lao động Những
nhóm người này có nhu cầu thông tin về cơ bản giống các chủ ngân hàng, các
nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp , bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách
nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
1.2.1.3 Đối tượng nghiên cứu của việc phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
15
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
Là những kết quả kinh doanh cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh
tế thông qua bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
1.2.2 Nội dung và phương pháp phân tích hoạt động tài chính
1.2.2.1 Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích hoạt động tài chính bao gồm một hệ thống các

công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện hiện tượng, các
mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài
chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá hoạt động tài
chính doanh nghiệp.
Để phân tích hoạt động tài chính người ta sử dụng các phương pháp sau:
1.2.2.1.1 Phương pháp so sánh
Là phương pháp sử dụng phổ biến trong phân tích để đánh giá xác định
xu hướng và biến động của chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng phương pháp này
cần bảo đảm các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài chính
(thống nhất về không gian, thời gian nội dung tính chất và đơn vị tính toán )
và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn
về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ
kế hoạch giá trị so sánh có thể được lưa chọn là số tuyệt đối hoặc số tương đối
hoặc số bình quân.
Phương pháp so sánh được áp dụng trong phạm vi các điều kiện sau:
- Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng, số liệu phải nhất trí về mặt nội dung
kinh tế cũng như được tính toán theo một phương thức nhất định.
- Khi so sánh chỉ tiêu chất lượng thì phải thống nhất về mặt số lượng và
ngược lại.
- Khi so sánh chỉ tiêu về mặt số lượng thì phải nhất trí về mặt chất lượng.
- Khi so sánh các chỉ tiêu phức tạp, nhiều thành phần khác nhau phải chú ý
tới sự thay đổi cả các yếu tố của chỉ tiêu tổng hợp, chỉ tiêu phức tạp.
Để phục vụ cho việc phân tích người ta thường tiến hành so sánh bằng
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
16
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
cách cụ thể sau:
* So sánh các chỉ tiêu thực tế với chỉ tiêu kế hoạch
Gốc được chọn để so sánh là chỉ tiêu kế hoạch
Công thức:


a= a1 –a0
Hay

’a = a1 / a0 * 100% -100
Trong đó : a1 : các chỉ tiêu thực tế
a0 : các chỉ tiêu kế hoạch


a : số chênh lệch tương đối


’a : số chênh lệch tuyệt đối
So sánh bằng số tuyệt đối sẽ cho ta biết được khối lượng quy mô mà doanh
nghiệp đạt được vượt mức hay hao hụt của các chỉ tiêu kinh tế giữa kỳ phân
tích với kỳ gốc. So sánh bằng số tương đối phản ánh kết cấu mối quan hệ tốc
độ phát triển và mức độ phổ biến của các chỉ tiêu kinh tế.
- So sánh về số tuyệt đối: là việc xác định số chênh lệch giữa giá trị của chỉ
tiêu kỳ phân tích với giá trị của chỉ tiêu kỳ gốc. Kết quả so sánh cho thấy
sự biến động của hiện tượng kinh tế đang nghiên cứu.
- So sánh bằng số tương đối: là xác định số % tăng (+) giảm (-) giữa thực
tế so với kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích hoặc chiếm tỷ trọng của một hiện
tượng kinh tế trong tổng thể quy mô chung được xác định để đánh giá
được tốc độ phát triển hoặc kết cấu, mức phổ biến của hiện tượng kinh tế.
- So sánh bằng số bình quân: Khi so sánh bằng số bình quân sẽ cho thấy
mức độ mà đơn vị đạt được so với bình quân chung của tổng thể ngành. Ví
dụ: tiền lương bình quân, vốn kinh doanh bình quân
* So sánh các chỉ tiêu thực tế với nhau
Có hai cách so sánh:
- So sánh định gốc: với một số các chỉ tiêu kinh tế không có điều kiện lập

Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
17
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
kế hoạch nhưng thực tế phát sinh thì ta so sánh các số thực tế với nhau. Cách
so sánh định gốc cho thấy phương hướng và tốc độ phát triển.
- So sánh liên hoàn:
Do một yếu tố ngẫu nhiên hoặc để loại trừ những biến đổi theo yếu tố thời
gian thì ta dùng phép so sánh liên hoàn. Trong phép so sánh liên hoàn, gốc
chọn để so sánh giữa hai kỳ thường là số liệu thực tế của kỳ trước và có thể
xác định số chênh lệch tuyệt đối, tương đối. So sánh số liên hoàn cho phép
xác định mối liên hệ qua lại, xác định động thái hoặc xu thế phát triển.
Khi dùng phương pháp so sánh để phân tích các báo cáo tài chính có
thể sử dụng phương pháp phân tích theo chiều dọc hoặc phân tích theo
chiều ngang
- Phân tích theo chiều ngang: là việc so sánh cả về số tuyệt đối và số
tương đối trên cùng một hàng (cùng một chỉ tiêu) trên các báo cáo tài
chính. Qua đó thấy được sự biến động của từng chỉ tiêu.
- Phân tích theo chiều dọc: là xem xét, xác định tỷ trọng của từng chỉ tiêu
trong tổng thể quy mô chung. Qua đó thấy được mức độ quan trọng của
từng chỉ tiêu trong tổng thể.
1.2.2.1.2 Phương pháp tỉ lệ:
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc phương pháp này yêu cầu
phải xác định các ngưỡng (định mức) để nhận xét đánh giá tình hình tài chính
trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của các doanh nghiệp đối với các tỷ lệ tham chiếu.
Như vậy để đưa ra nhận xét đánh giá chính xác, người phân tích không
chỉ sử dụng một phương pháp mà phải biết kết hợp hài hoà cả hai phương
pháp nói trên, nó cho phép người phân tích biết rõ thực chất hoạt động tài
chính cũng như phương pháp biến động của từng chỉ tiêu tài chính doanh
nghiệp qua các giai đoạn khác nhau.

1.2.2.2 Tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.2.1 Tài liệu sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
18
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
Việc phân tích tình hình tài chính đòi hỏi sử dụng nhiều tài liệu và
thông tin khác nhau nhưng trong đó chủ yếu là báo cáo tài chính, báo cáo tài
chính rất hữu ích với việc quản trị doanh nghiệp đồng thời là nguồn thông tin
tài chính chủ yếu đối với người ngoài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính không
những cho thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà
còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được. Việc phân
tích báo cáo tài chính là tiến trình chọn lọc tìm hiểu tương quan và thẩm định
các dữ kiện trong báo cáo tài chính.
Hệ thống báo cáo tài chính gồm:
- Bảng cân đối kế toán.
- Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Thuyết minh báo cáo tài chính.
• Bảng cân đối kế toán: là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình
hình tài sản của doanh nghiệp theo hai cách phân loại cấu thành vốn và
nguồn hình thành vốn hiện có của doanh nghiệp ở các thời điểm nhất định
dưới hình thái tiền tệ.
Cả hai phần tài sản và nguồn vốn đều bao gồm hệ thống các chỉ tiêu tài
chính phát sinh, phản ánh từng nội dung tài sản và nguồn vốn. Các chỉ tiêu
được sắp xếp thành từng muc, khoản theo một trình tự lôgic khoa học, phù
hợp với yêu cần quản lý.
Hai phần tài sản và nguồn vốn phải có số tổng cộng bằng nhau vì phản ánh
cùng một tài sản
Tài sản = nguồn vốn
Hay tài sản = vốn chủ sở hữu + công nợ phải trả

(Phần tài sản bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định)
Xét về mặt pháp lý tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền
quản lý, sử dụng gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
19
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần tài sản của bảng cân đối kế toán
thể hiện vốn của doanh nghiệp có ở thời điểm lập bảng cân đối kế toán.
*Phần nguồn vốn phản ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp
bao gồm:
- Công nợ
- Vốn chủ sở hữu
Công nợ bao gồm:
+ Nợ ngắn hạn là khoản tiền mà doanh nghiệp có trách nhiệm trả trong
vòng một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một
năm.
+ Nợ dài hạn là các khoản nợ dài hạn hơn một năm hoặc phải trả sau một
kỳ kinh doanh.
Nguồn vốn chủ sở hữu: Đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh
nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong
công ty cổ phần. Có 3 nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: Số tiền góp vốn của các
nhà đầu tư, tổng số tiền tạo ra từ kết quả hoạt động kinh doanh (Lợi nhuận
chưa phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản nói chung. Xét về mặt pháp
lý đây là các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất của doanh
nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn cho doanh nghiệp (nhà nước, ngân
hàng, các cổ đông, các bên liên doanh ) hay nói cách khác các chỉ tiêu thể
hiện trách nhiệm pháp lý về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với nhà nước,
về số tài sản đã hình thành bằng vốn vay ngân hàng hoặc của các đối tượng
khác.
Xét về mặt kinh tế các chỉ tiêu thuộc phần nguồn vốn của bảng cân đối kế

toán thể hiện các nguồn hình thành tài sản mà doanh nghiệp hiện có.
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh khái quát tình hình và kết quả kinh doanh cũng như tình hình
thực hiện trách nhiệm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
20
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
* Khái niệm và mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính phản ánh các khoản
thu và chi tiền trong kỳ của doanh nghiệp theo các hoạt động kinh doanh, hoạt
động đầu tư và hoạt động tài chính.
Mục đích của báo cáo là nhằm trình bày cho những người biết tiền tệ được
tạo ra bằng cách nào và doanh nghiệp đã sử dụng chúng như thế nào trong kỳ
báo cáo.
* Nội dung của báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Nội dung của báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm 3 phần chính sau:
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp (hay là các hoạt động chức năng của doanh nghiệp)
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính phản ánh toàn bộ dòng tiền thu
vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
• Bản thuyết minh bổ sung báo cáo
Bản thuyết minh bổ sung báo cáo tài chính là báo nhằm thuyết minh và
giải trình bằng lời, bằng số liệu, một số chỉ tiêu kinh tế – tài chính chưa được
thể hiện trên báo cáo tài chính. Bản thuyết minh bổ sung báo cáo gồm các
thông tin như đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, chế độ kế toán áp dụng ở
doanh nghiệp và chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo kế toán như chi phí,

tình hình gia tăng, giảm TSCĐ, tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu.
1.2.2.2.2 Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích hoạt động tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. Phân tích tài
chính doanh nghiệp có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau với
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
21
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên
cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích.
Quá trình phân tích được tiến hành theo các giai đoạn sau:
- Thu thập thông tin
Khi phân tích tài chính thì phải sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng
lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính. Nó bao gồm cả những
thông tin nội bộ đến những thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo
cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin được đặc biệt quan
trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài
chính doanh nghiệp.
- Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã
thu thập được. Trong giai đoạn này người sử dụng thông tin ở các góc độ
nghiên cứu ứng dụng khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Xử lý
thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định
nhằm tính toán, so sánh giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết
quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
- Dự đoán và quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiêu đề và điều kiện cần
thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định tài
chính. Có thể nói mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài
chính. Đối với người chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm đưa ra quyết
định liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng và phát

triển tối đa hoá lợi nhuận. Còn đối với nhà đầu tư là các quyết định về tài trợ,
đầu tư, khả năng thu hồi vốn
1.2.3 Nội dung phân tích báo cáo tài chính.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
22
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
sinh trong quá trình kinh doanh được được biểu thái dưới dạng tiền tệ.
Việc tiến hành phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp cho người sử dụng
thông tin nắm được thực trạng hoạt động tài chính, xác định rõ nguyên nhân
và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính và tình hình
kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra quyết định
cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
Việc phân tích báo cáo tài chính gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích bảng cân đối kế toán.
- Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Phân tích cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư.
- Phân tích mức độ đảm bảo vốn cho kinh doanh.
- Phân tích hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời.
- Đánh giá doanh nghiệp.
1.2.3.1 Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp
Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp là việc xem xét nhận
định về tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan hay không khả quan.
Nguồn vốn chủ sở hữu
*Tỷ suất tài trợ =
Tổng số nguồn vốn
Chỉ tiêu này càng cao, càng chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp bởi vì hầu
hết tài sản doanh nghiệp hiện có đều được đầu tư bằng số vốn của mình.

Tài sản cố định - đầu tư dài hạn
*Tỷ suất đầu tư =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói
chung và máy móc thiết bị noí riêng của doanh nghiệp, phản ánh năng lực sản
xuất, xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
23
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Đinh Đăng Quang
Tỷ suất Nguồn vốn chủ sở hữu
* tự tài trợ =
TSCĐ Giá trị tài sản cố định
Nếu tỷ suất này lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng tài chính vững mạnh. Khi
tỷ suất này nhỏ hơn 1 thì một số bộ phận của TSCĐ được tài trợ bằng vốn
vay, đặc biệt mạo hiểm khi đấy là vốn vay ngắn hạn.
Hệ số nợ: đây là một chỉ tiêu tài chính phản ánh trong một đồng vốn hiện
nay doanh nghiệp đang sử dụng có mấy đồng vốn vay nợ. Hệ số trên cho phép
doanh nghiệp nhìn nhận kết cấu tài chính của doanh nghiệp ở khía cạnh nhất
định. Phân tích hệ số nợ là vấn đề quan trọng đối với người quản lý doanh
nghiệp cũng như đối với các chủ nợ của doanh nghiệp.
Tổng số nợ
* Hệ số nợ =
Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp
1.2.3.2 Phân tích bảng cân đối kế toán:
• Khi phân tích bảng cân đối kế toán cần xem xét xác định và nghiên cứu
các vấn đề cơ bản sau :
- Xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản thông qua
so sánh giữa số cuối kỳ và số đầu năm kể cả về số tuyệt đối lẫn tương đối của
tổng số tài sản cũng như chi tiết đối với từng loại tài sản. Qua đó thấy được
sự biến động về quy mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.

- Xem xét tính hợp lý của cơ cấu vốn, cơ cấu vốn đó tác động như thế nào
đến quá trình kinh doanh. Muốn làm được điều này, trước hết phải xác
định được tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản. Sau đó, so sánh
tỷ trọng từng loại giữa cuối kỳ với đầu năm để thấy được sự biến động của
cơ cấu vốn. Khi phân tích cần lưu ý đến tính chất của từng loại tài sản đến
quá trình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh đạt được trong kỳ. Có như
vậy mới đưa ra được các quyết định hợp lý về phân bổ vốn cho từng giai
đoạn, từng loại tài sản của doanh nghiệp.
Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
24
Khoỏ lun tt nghip GVHD: PGS.TS inh ng Quang
- Xem xột mi quan h cõn i gia cỏc ch tiờu trong bng cõn i k toỏn:
N ngn hn = Ti sn lu ng v u t ngn hn
TSC v u t di hn = Ngun vn ch s hu + Vay di hn
- Nu doanh nghip t c s cõn bng trờn thỡ cú th thy kh nng t ti
tr cỏc loi ti sn doanh nghip tt, mang li s an ton v mt ti chớnh.
1.2.3.3 Phõn tớch bỏo cỏo kt qu hot ng kinh doanh
kim soỏt cỏc hot ng kinh doanh v hiu qu kinh doanh ca doanh
nghip cn i sõu phõn tớch tỡnh hỡnh bin ng ca cỏc khon mc trong bỏo
cỏo kt qu kinh doanh khi phõn tớch cn tớnh ra v so sỏnh mc v t l bin
ng ca k phõn tớch so vi k gc trờn tng ch tiờu. ng thi so sỏnh tỡnh
hỡnh bin ng ca tng ch tiờu vi doanh thu thun.
1.2.3.3.1 Nhúm ch tiờu phn ỏnh mc s dng chi phớ:
* T sut Tr giỏ vn hng bỏn
giỏ vn hng bỏn = ì 100%
trờn doanh thu thun Doanh thu thun
*
T sut chi phớ bỏn hng
trờn doanh thu thun
=

thuần thu Doanh
hàngbánphí Chi
ì 100%
*
T sut chi phớ qun lý doanh
nghip trờn doanh thu thun
=
Chi phớ qun lý doanh nghip
Doanh thu thun
ì 100%
1.2.3.3.2 Nhúm ch tiờu phn ỏnh kt qu kinh doanh:
* T sut li nhun trc
thu trờn doanh thu thun
=
thuần thu Doanh
thuế trớc nhuậnLợi
ì 100%
*
T sut li nhun sau thu
trờn doanh thu thun
=
thuần thu Doanh
thuế sau nhuậnLợi
ì 100%
Phm Th Huyn Trang Vin H M H Ni
*
T sut li nhun gp
trờn doanh thu thun
=
thuần thu Doanh

gộp nhuậnLợi
ì 100%
25

×