Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

đặc trưng của sáng tạo hình tượng nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.04 KB, 17 trang )

1
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Lớp: Triết học.
Môn: Mỹ học chuyên nghành.
Tiểu luận:
ĐẶC TRƯNG CỦA SÁNG TẠO HÌNH TƯỢNG TRONG
NGHỆ THUẬT
Năm: Triết học- Năm 3.
Người hướng dẫn: TS. Trần Kỳ Đồng.
Sinh viên: Lê Đăng Thân.
MSSV: 1256070065.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 11 năm 2014.
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………………. 3
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài …………………… 4
3. Kết cấu đề tài ……………………………………… 4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
I.1. Sự ra đời của hình tượng nghệ thuật …………………… 5
I.2. Đặc điểm cơ bản của hình tượng nghệ thuật …………… 7
CHƯƠNG II.
ĐẶC TRƯNG CỦA SÁNG TẠO HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
II.1. Vai trò của tình cảm trong cấu trúc nghệ thuật ……… 10
II.2. Vai trỏ của lý trí trong cấu trúc nghệ thuật ……………. 12
II.3. Tài năng nghệ thuật …………………………………… 14
II.4. Qúa trình sáng tạo nghệ thuật …………………………. 16
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
3
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tìm hiểu tư tương triết học nói chung và tư tưởng mỹ học nói riêng có
vai trò to lớn, giúp con người nhận thức được các quy luật tiến hóa của lịch sử
xã hội loài người, thông qua sự nhận thức về thế giới, về cái đẹp. về nghệ
thuật,… Sự nhận thức này luôn gắn liền với sự sinh thành lý tưởng thẩm mỹ,
lý tưởng bao hàm những giá trị nhân văn của dân tộc và thời đại, nó định
hướng cho chúng ta xác lập nội dung cơ bản về mục đích sống, ý nghĩa sống
và tạo ra nguồn động lực, năng lực sống cho con người.
Đất nước đang trong tiến trình đổi mới gắn liền với tiến trình hội nhận
thế giới. Trong tiến trình này, với những tri thức từ lịch sử tư tưởng mỹ học sẽ
giúp cho con người dễ dàng nhận diện những giá trị và phản giá trị của các
trào lưu văn hóa nghệ thuật đang diễn ra trong nước và trên thế giới để từ đó
con người có sự sàng lọc làm cho những giá trị, tư tưởng mỹ học thêm phong
phú đa dạng và muôn màu muôn vẻ hơn nữa.
Mỹ học giúp cho con người có những kiến thức cơ bản về các quy luật
chung nhất của quan hệ thẫm mỹ và quan trọng hơn là những kiến thức về cái
đẹp, về thị hiếu, về lý tưởng thẫm mỹ, về tính nghệ thuật trong mỹ học. Và
như vậy, trên cơ sở những kiến thức cơ bản đó nhằm nâng cao trình độ thẩm
mỹ, năng lực cảm nhận, cảm thụ, đánh giá cái đẹp trong cuộc sống và cung
như trong quá trình sáng tạo ra nghệ thuật của người nghệ sĩ, một năng lực
sáng tạo nghệ thuật theo quy luật của cái đẹp. Không những thế nó còn cung
cấp cho con người cách rèn luyện tư duy nhìn nhận những vấn đề theo chiều
sâu của các giá trị, tư tưởng thẩm mỹ đó.
Quá trình sáng tạo hình tượng trong nghệ thuật kể cả phương Tây và
phương Đông
Trước hết, cần hiểu rõ, mỹ học là một khoa học hợp thành của khoa học
triết học dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử. Mỹ học là khoa học nghiên cứu toàn bộ qui luật, hiện tượng thẫm mỹ
4
trong hoạt động của đời sống con người gồm khách thể thẩm mỹ, chủ thể thẩm
mỹ và nghệ thuật. Trong đó, cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm, hình
tượng là tiếng nói trọng tâm, lý tưởng thẩm myỹ là cơ sở để định hướng thẩm
mỹ, nghệ thuật là thành tựu cao nhất của đời sống thẩm mỹ.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích:
Tiểu luận phần nào làm rõ và sâu sắc thêm đặc trưng của quá trình sáng
tạo trong nghệ thuật.
Nhiệm vụ:
Phân tích những đặc điểm cơ bản của quá trình hình thành nên tượng
nghệ thuật.
Đưa ra những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo nghệ thuật của
người nghệ sĩ.
3. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo, kết cấu của tiểu luận gồm 2
chương và 6 tiết .
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
I.1. Sự ra đời của hình tượng nghệ thuật
Trong hình tượng nghệ thuật ghi lại hoặc biểu hiện những đặc điểm căn
bản nhất của nghệ thuật nói chung. Một trong những vị trí trung tâm mà phạm
trù này giữ trong khoa học mỹ học được lý giải bởi chức năng phản ánh thực
5
tại khách quan dưới một hình thức đặc thù. Hình tượng nghệ thuật là sự thống
nhất phản ánh và sáng tạo, nó đóng vai trò là đường ranh giới phân tuyến thế
giới thật với thế giới của nghệ thuật. Chính nhờ hình tượng mà ý thức nghệ
thuật hàm chứa nhiều tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của cuộc sống thật.

Sáng tạo được các hình tượng nghệ thuật thành công luôn là mong ước
của các nghệ sĩ. Thế giới hình tượng đi liền với tên tuổi và khẳng định tài
năng của người nghệ sĩ. Để tạo ra những hình tượng nghệ thuật dồi dào ý
nghĩa và sức sống, người nghệ sĩ phải giàu khả năng hư cấu nghệ thuật và phải
thật sự sống trong một tâm thế sáng tạo đặc biệt được gọi là cảm hứng nghệ
thuật.
Cảm hứng sáng tạo giúp năng lực hư cấu của người nghệ sĩ vận hành. Hư
cấu nghệ thuật là quá trình nhào nặn chất liệu để thực hiện tốt nhất ý đồ nghệ
thuật đang được ấp ủ. Đó là sự tập hợp, lựa chọn, sắp xếp tài liệu đời sống. Ở
đây có vai trò đặc biệt của trí tưởng tượng phong phú cùng vốn hiểu biết, sự
trải nghiệm của người nghệ sĩ. Trí tưởng tượng cho người nghệ sĩ những gì mà
thực tại không thể cho hoặc chưa kịp cho. Trí tưởng tượng lấp đầy khoảng
trống cho hiểu biết và tư duy của nhà sáng tạo. Tuy nhiên, năng lực tưởng
tượng lại tỷ lệ thuận với vốn sống, vốn hiểu biết của con người. Càng sống
nhiều, sống tỉnh táo và say mê, sống có ý thức và trách nhiệm, người nghệ sĩ
càng có điều kiện tung hoành trong đôi cánh diệu kỳ của tưởng tượng. Có thể
nói, nếu hư cấu nghệ thuật là hành động tất yếu của người nghệ sĩ trong xây
dựng hình tượng thì khả năng hư cấu nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều vào
phẩm chất của tài năng trong đó nổi bật là trí tưởng tượng nhạy bén và vốn
sống dồi dào. Hư cấu nghệ thuật chính là quá trình tập hợp, lựa chọn, sắp xếp
tài liệu từ nhiều hiện tượng khác nhau, trên cơ sở đó thông qua trí tưởng tượng
6
nghệ sĩ sáng tạo ra một hình tượng mới, hình tượng này thể hiện được bản
chất đời sống một cách sinh động, trong sáng và tập trung.
Hình tượng nghệ thuật được sáng tạo bởi một kiểu tư duy đặc biệt – tư
duy hình tượng. Để làm nổi trội lao động và tư duy của người nghệ sĩ, người
ta hay so sánh với lao động và tư duy của nhà khoa học. Kết quả cuối cùng là
nhà khoa học có được những khái niệm, còn người nghệ sĩ đưa ra những hình
tượng. Cả hai đều sáng tạo, song tính chất của sự sáng tạo ở họ không hoàn
toàn giống nhau. Nhà khoa học phát hiện ra những bản chất và qui luật vốn

tiềm ẩn trong thực tại. Người nghệ sĩ phải tự mình làm ra những sản phẩm
mới mẻ chưa từng xuất hiện. Giữa khái niệm khoa học và hình tượng nghệ
thuật, vì vậy, có những điểm khác biệt cơ bản.
Nghệ thuật không đặt ra trước nghệ sĩ nhiệm vụ thể hiện toàn bộ đối
tượng. Yêu cầu đó vừa không cần thiết vừa không thể thực hiện nổi. Nhưng
hình tượng nghệ thuật lại có khả năng tạo ra ảo giác về tính toàn vẹn và đầy
đủ của đối tượng thể hiện. Sức cuốn hút của nghệ thuật mạnh mẽ một phần vì
nét riêng biệt này.
Khái niệm bao giờ cũng xác định về mặt ý nghĩa. Khoa học không cho
phép khái niệm mang tính đa nghĩa. Hình tượng nghệ thuật lại không hàm một
nghĩa duy nhất. Nó có thể gồm nhiều phương diện khác nhau. Công chúng
tiếp nhận nó mỗi người một vẻ. Hình tượng nghệ thuật càng giá trị, càng lấp
lánh ý nghĩa.
Sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức cũng là điểm khác
biệt chính của hình tượng nghệ thuật so với khái niệm khoa học. Hình tượng
nghệ thuật là một chỉnh thể. Mọi sự thay đổi của nội dung hay của hình thức
7
đều đưa đến một sản phẩm khác, không giống với sản phẩm đã có. Tri thức
khoa học thì khác. Một công thức, một định luật có thể trình bày dưới nhiều
hình thức khác nhau, phức tạp có, đơn giản có, nhưng không ảnh hưởng nhiều
đến việc tiếp nhận thực chất của chúng.
I.2. Đặc điểm cơ bản của hình tượng nghệ thuật
Phản ánh hiện thực là quy luật của nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là
hình ảnh của thế giới khách quan. Tuy vậy, không được đánh đồng khái niệm
hình tượng trong nhận thức luận (triết học) với hình tượng trong lý luận nghệ
thuật.
Trong triết học, khái niệm hình tượng hiểu là bất kỳ một sự phản ánh nào
về ngoại giới vào trong ý thức con người. Ở đây, hình tượng đồng nghĩa với
hình ảnh.
Trong nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật không phải là bất kỳ một sự

phản ánh nào về hiện thực mà một sự phản ánh được ghi giữ lại trong một chất
liệu của một loại hình nghệ thuật nhất định. Cụ thể, trong tác phẩm nghệ thuật
sự phản ánh về hiện thực phải có được một sự tái hiện có nghệ thuật trong một
chất liệu nhất định của một loại hình nghệ thuật cụ thể. Như thế, nghệ thuật
bao gồm cả tư duy hình tượng và cả hoạt động thực tiễn nhất định- sự sáng tạo
nghệ thuật, sự nhào nặn thẩm mĩ một chất liệu nhất định.
Nghệ thuật vừa tư duy (bằng hình tượng) vừa là hoạt động thực tiễn trực
tiếp. Ðược vật chất hóa trong một tác phẩm nghệ thuật cụ thể, nghệ thuật tồn
tại như một thực thể tinh thần trong dạng các giá trị nghệ thuật nhất định. Ở
đây, tác phẩm nghệ thuật được tạo ra bằng bàn tay khối óc của con người.
8
Với tư cách là một hình thái đặc thù của ý thức xã hội, nghệ thuật chính
là một sự thống nhất liên tục của nhận thức hình tượng về hiện thực và sự tái
hiện cảm tính- cụ thể hiện thực trong chất liệu của một loại hình nghê thuật.
Do đó, không được xem hình tượng chỉ là một kiểu tư duy (tư duy hình tượng)
mà nó còn là một hành động thực tiễn vật chất- hoạt động sáng tạo, tạo ra một
sự vật mới, tạo ra hiện tượng khách quan. Hình tượng nghệ thuật được vật
chất hóa nhờ chất liệu nhất định. Nó vừa là ý thức tư tưởng của nghệ sĩ vừa là
tài năng sáng tạo- nhào nặn chất liệu vật chất của nghệ sĩ.
Thực ra, trước khi được vật chất hóa ra, hình tượng nghệ thuật đã tồn tại
trong óc người nghệ sĩ, nghĩa là bao hàm sự sáng tạo trong ý thức tư tưởng.
Lênin viết: Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn
sáng tạo ra thế giới khách quan. Hình tượng nghệ thuật không phải là một bức
ảnh chụp, một hình ảnh thu được trong tấm gương, cũng không phải là một sự
tái hiện đơn giản cuộc sống, sự bắt chước máy móc tự nhiên. Sự bắt chước
giỏi lắm cũng chỉ nhân đôi đối tượng mô tả chứ không tạo ra giá trị thẩm mĩ
mới. Hình tượng nghệ thuật không phải là hình ảnh minh họa của khoa học.
Hình ảnh minh họa của khoa học tái hiện các hiện tượng như chúng vốn có
trong hiện thực. Tức là tái hiện thực tế một cách chính xác. Còn hình tượng
nghệ thuật, sáng tạo là bản chất của nó. Hình tượng nghệ thuật bao hàm cả sự

phóng đại, cường điệu, cả sự tỉa xén, nhào nặn. Hình tượng nghệ thuật là kết
quả của trí tưởng tượng và tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ.
Đo đó, phản ánh và sáng tạo là hai mặt của quá trình sinh ra hình tượng
của nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật một mặt là hình ảnh của thế giới khách
quan, mặt khác là sự sáng tạo lại thế giới khách quan.
CHƯƠNG II.
9
ĐẶC TRƯNG CỦA SÁNG TẠO HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
Quá trình sáng tác nghệ thuật có đặc trưng riêng của nó – thể hiện nhân
cách của nghệ sĩ. Đặc điểm của chủ thể nghệ thuật là phản ứng tình cảm đối
với thực tại, nó đóng vai trò lớn trong việc sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật.
Người họa sĩ vẽ cái cảm thấy chứ không phải cái nhìn thấy, đồng thời gởi gắm
tình cảm, tư tưởng (tâm hồn) của mình vào tác phẩm nghệ thuật. Tiếp nhận
nghệ thuật, công chúng không thể dửng dưng. Người ta có thể khóc, cười hồn
nhiên như con trẻ. Song rất khác với những giọt nước mắt vui sướng hay đau
xót của trẻ thơ, cùng với sự rung động của con tim, trí óc của công chúng nghệ
thuật còn được thức tỉnh. Đọc Truyện Kiều chẳng hạn. Nhận thức của người
đọc về thân phận của nàng Kiều tăng thêm, như nhà thơ Tố Hữu đã bài tỏ cảm
xúc về thân phận nàng Kiều ”Nổi chìm kiếp sống lênh đênh”và khi nhận thức
càng tăng thì cảm xúc Tố Hữu càng sâu cùng với nhịp đập dồn dập của trái
tim “Tố như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”.
Đồng thời, trong nghệ thuật ngoài những nhân tố tự nhiên ở nhà nghệ sĩ,
còn có thái độ riêng tư của người nghệ sĩ được thể hiện trong tác phẩm nghệ
thuật của anh ta. Nó phản ánh một phần thực tại bằng ý thức.
Người nghệ sĩ đã bằng lý trí tỉnh táo và tình cảm nồng cháy để tạo nên
hình tượng nghệ thuật. Cảm hứng sáng tạo chân chính vì vậy được coi là sự
“thăng hoa” của lý trí và cảm xúc. Thiếu tư tưởng, hình tượng sẽ trống rỗng và
hời hợt. Thiếu cảm xúc, hình tượng sẽ khô cứng và cằn cỗi. Đúng hơn, trong
sáng tạo nghệ thuật, nhận thức phải được chuyển hóa thành tình cảm, thành
niềm tin. Bởi vậy, sức tác động của nghệ thuật mới mãnh liệt và bền lâu

II.1. Vai trò của tình cảm trong cấu trúc nghệ thuật
10
Nghệ thuật giáo dục con người thông qua con đường tình cảm. Từ xúc
động, lay động về tình cảm mà người đọc liên hệ đến bản thân, tự giác nhận ra
đúng, sai. Nghệ thuật giáo dục con người không phải bằng biện pháp cưỡng
bách, hành chính gò ép mà hoàn toàn tự giác, thoải mái. Nghệ thuật giáo dục
bằng hình thức hấp dẫn vui tươi, cuốn hút. Ở đây, tưởng như giáo dục vui
chơi, giải trí là một. Tác dụng giáo dục của nghệ thuật là lâu bền, từ từ nhưng
vô cùng sâu sắc.
Một thuộc tính căn bản của nhà nghệ sĩ là anh ta có khả năng cảm ngiệm
những hiện tượng nào đó của thực tại với một sức mạnh và chiều sâu kgác
thường. Sáng tạo nghệ thuật thông qua cảm xúc, tình cảm đã thôi thúc trí
tưởng tượng của người nghệ sĩ.
Có ý nghĩa đặc biệt lớn lao đối với sáng tạo nghệ thuật là trí tưởng tượng,
đó là sự liên kết giữa tình cảm và lý trí, tâm lý và xã hội trong sáng tạo nghệ
thuật. Óc tưởng tượng của con người có khả năng đẻ ra những hình tượng vô
nghĩa và kỳ quặc, nhưng nó cũng là một yếu tố cần thiết trong việc sáng tạo
hình tượng nghệ thuật ngay cả trong việc miêu tả sự việc đơn thuần. Cái thật
lại đòi hỏi những điều tưởng tượng táo bạo nhất, tưởng như nó không gạt bỏ
hư cấu, không làm mờ nhạt mà còn giúp cho chúng ta hiểu cuộc sống thông
qua khả năng ngầm của nó. Chúng ta đã biết vô số những trường hợp trong đó
hư cấu không báo giờ tách rời chân lý cuộc sống mà chính óc tưởng tượng
sáng tạo, không đi lệch hướng thực tế mà còn giải quyết thực tế đó, sẽ trở
thành một phương tiện rất thuận lợi cho việc tư duy bình thường.
Gạt bỏ óc tưởng tượng khỏi sáng tác nghệ thuật, thay thế chân lý cuộc
sống bằng chân lý sự kiện, thay thế sự khái quát bằng lối minh hoạ các sự kiện
theo kiểu lập biên bản chẳng khác gì giết chết nghệ thuật. Chân lý nghệ thuật
11
là một giả thiết mang tính chất thẩm mỹ, là sự tái tạo lại cuộc sống hoặc bằng
phương tiện ngôn ngữ hoặc bằng màu sắc, hoặc bằng âm điệu. Tác phẩm nghệ

thuật nếu không có lý tưởng thẩm mỹ, không có sự khái quát, không có sự
đánh giá về mặt thẩm mỹ sẽ biến thành những đoạn trích dẫn rút ra từ bộ môn
khoa học xã hội.
Ở đây có vai trò đặc biệt của trí tưởng tượng phong phú cùng vốn hiểu
biết, sự trải nghiệm của người nghệ sĩ. Trí tưởng tượng cho người nghệ sĩ
những gì mà thực tại không thể cho hoặc chưa kịp cho. Trí tưởng tượng lấp
đầy khoảng trống cho hiểu biết và tư duy của nhà sáng tạo. Tuy nhiên, năng
lực tưởng tượng lại tỷ lệ thuận với vốn sống, vốn hiểu biết của con người.
Càng sống nhiều, sống tỉnh táo và say mê, sống có ý thức và trách nhiệm,
người nghệ sĩ càng có điều kiện tung hoành trong đôi cánh diệu kỳ của tưởng
tượng.
Tưởng tượng là kết quả của sự không thỏa mãn và đo dó nó thôi thúc
hành động. Những ước mơ giúp con người khắc phục được những khó khăn
trong cuộc sống, thôi thúc hành động con người trở nên tích cực hơn, có ý
nghĩa hơn.
II.2. Vai trỏ của lý trí trong cấu trúc nghệ thuật
Người tạo ra hình tượng nghệ thuật không phải chỉ cần có năng lực cảm
xúc, tình cảm, ghi nhận thực tại ở cấp độ hiện tượng, mà phải cần có năng lực
nắm bắt bản chất của quá trình sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật, đó chính là
năng lực tư duy của lý tính. Người nghệ sĩ phản ánh thế giới bằng lý trí ẩn dụ,
tức người nghệ sĩ phải đi thâm sâu vào thực tại của cuộc sống
12
Cùng với khoa học, nghệ thuật có nhiệm vụ giúp con người nhận thức về
thế giới, về con người và đời sống. Các hình tượng nghệ thuật, vì vậy tác động
vào lý trí con người. Qua hình tượng, nghệ sĩ bày tỏ quan điểm, quan niệm và
lý giải những vấn đề đời sống. Bất kỳ một hình tượng nghệ thuật nào cũng
chứa đựng trong đó những nhận thức của người sáng tác. Qua hình tượng nghệ
thuật, bạn đọc tiếp nhận được những vấn đề về đời sống, lý trí bạn đọc bao giờ
cũng được soi sáng, nhận thức của bạn đọc bao giờ cũng được mở rộng, nâng
cao. Nhưng nếu như khái niệm khoa học là kết quả của lý trí thì hình tượng

nghệ thuật lại có sự thống nhất của hai yếu tố: lý trí và tình cảm. Hình
tượng nghệ thuật vừa thức tỉnh lý trí vừa làm rung động trái tim. Hai mặt thức
tỉnh và rung động này của nghệ thuật hòa quyện vào nhau. Từ rung động mà
thức tỉnh càng thức tỉnh càng rung động hơn. Giá trị thức tỉnh của hình tượng
nghệ thuật to lớn bao nhiêu là do sức rung động mãnh liệt bấy nhiêu. Ðối với
nghệ thuật, không thể nói giá trị nhận thức to lớn mà lại không gắn liền với
một tình cảm mạnh mẽ được. Thậm chí giá trị nhận thức của nghệ thuật chỉ có
thể có được khi nghệ thuật đó tác động vào tình cảm con người.
Một đặc điểm căn bản khác của trình độ tư duy nghệ thuật duy lý là liên
tưởng. Khi quan sát những hiện tượng lạ lùng trong thiên nhiên và trong đời
sống con người (giông tố, động đất, sự chết chóc.v.v.) trong ý thức chưa được
vững vàng lắm của con người liền xảy ra một "sự bùng nổ" những quan niệm
chưa được phân hoá. Không có khả năng hiểu được nội dung bên trong của
những hiện tượng kỳ lạ đó, con người đã cố gắng giải thích hiện tượng xảy ra
ấy bằng cách đoán, đề ra những giả thuyết đầy tính chất siêu nhiên. Đối với
giai đoạn mà con người rõ ràng còn mang nặng tính chất thú tính thì quỷ thần
là một sức mạnh nào đó nó tác động một cách bất ngờ. Không ai có thể biết
trước được. Đầu tiên, mối quan hệ giữa hiện tượng và cách giải thích hiện
13
tượng đó phần nhiều theo óc tưởng tượng thường là tuỳ tiện, tuỳ thuộc vào
một cơ hội trùng lặp ngẫu nhiên. Sau đó, trong quá trình cấu tạo hình tượng
tính chất tượng trưng, có khía cạnh liên tưởng đã bắt đầu có tính chất tự giác
hơn. Trong tôn giáo nó trở thành một công cụ tuyên truyền giáo lý, trong nghệ
thuật nó lôi kéo con người đi tìm tòi, thể nghiệm và chế ngự sức mạnh vốn có
của vạn vật.
Đồng thời, yếu tố lý trí của ỳ thức nghệ thuật còn bộc lộ rõ nét hơn nữa ở
cấp độ thế giới quan vốn biểu hiện tính chế định xã hội trong sáng tạo nghệ
thuật. Thế giới quan giữ vai trò định hướng lí tưởng, liên tưởng của con người,
thế giới quan là toàn bộ cách nhìn đời, nhìn người, nhìn xã hội và nhìn mình.
Thế giới quan có 3 yếu tố:

Tính giai cấp: Trong một xã hội có nhiều giai cấp, ắt có một giai cấp tiên
tiến nhất, cách mạng nhất. Lí tưởng phải gắn liền với tính giai cấp tiên tiến
nhất ấy.
Tính khoa học: đó là kiến thức đúng đắn, phù hợp qui luật khách quan và
lịch sử, khác với những ý tưởng viển vông và lỗi thời hoặc phiêu lưu mạo
hiểm.
Tính tổ chức: để thực hiện lí tưởng, không chỉ dựa vào nỗ lực cá nhân,
mà phải vận động, tổ chức xã hội cùng thực hiện. Đó là năng lực tổ chức khi
thực hiện lí tưởng.
Người nghệ sĩ đã bằng lý trí tỉnh táo và tình cảm nồng cháy để tạo nên
hình tượng nghệ thuật. Cảm hứng sáng tạo chân chính vì vậy được coi là sự
“thăng hoa” của lý trí và cảm xúc. Thiếu tư tưởng, hình tượng sẽ trống rỗng và
hời hợt. Thiếu cảm xúc, hình tượng sẽ khô cứng và cằn cỗi. Đúng hơn, trong
sáng tạo nghệ thuật, nhận thức phải được chuyển hóa thành tình cảm, thành
niềm tin. Bởi vậy, sức tác động của nghệ thuật mới mãnh liệt và bền lâu
14
II.3. Tài năng nghệ thuật
Là hệ thống tổ chức phức tạp của nhân cách nghệ sĩ độc đáo có một
không hai, tài năng quy định phương hướng và những khả năng sáng tạo của
người nghệ sĩ, loại hình nghệ thuật mà người nghệ sĩ lựa chọn và các quan hệ
của nghệ thuật với các khía cạnh của thực tại. Tài năng của người nghệ sĩ chỉ
có thể phát triển, thực hiện hóa trong một xã hội cụ thể. Biểu hiện của tài năng
nghệ thuật là đa dạng và phong phú. Ở đây, vai trò của yếu tố thiên
bẩm là không thể thiếu. Môi trường và điều kiện góp phần quyết định chuyển
hóa khả năng thành hiện thực. Tuy nhiên, học tập và rèn luyện nhằm vun đắp
tài năng sẵn có mới mang tính quyết định. Nói như K. Marx: “Thực tiễn sẽ
phát triển những năng khiếu tiềm năng trong bản thân”.
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là bản chất tự do sáng tạo
của nghệ thuật. Nghệ thuật không chỉ là hành động nhận thức, phản ánh đơn
thuần mà còn là một hoạt động có tính chất thực tiễn vật chất, hoạt động sáng

tạo. Mà sự phát triển tài năng sáng tạo của con người không phải bất cứ thời
kỳ nào cũng giống nhau. Có chế độ xã hội trong đó tài năng của con người
được phát triển tự do, có chế độ xã hội thì ngược lại, tài năng bị kìm hãm, mai
một. Chế độ tư bản chủ nghĩa mặc dù sức sản xuất phát triển cao nhưng nhân
cách con người bị què quặt, tự do và sáng tạo của nghệ sĩ bị đè nén, con người
trở thành hàng hóa nên không thể có nghệ thuật tốt đẹp. Chính K. Marx đã
khẳng định nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với một số ngành nhất định
trong sản xuất tinh thần, như nghệ thuật và thi ca chẳng hạn. Nguyên nhân
quan trọng dẫn đễn tình trạng này là nền sản xuất hàng hóa đã biến con người
thành hàng hóa.
15
Nền sản xuất sản sinh ra con người không những với tính cách là hàng
hóa, không những với tính cách là con người hàng hóa, con người với sự quy
định của hàng hóa, nó sản xuất ra con theo sự quy định ấy, như một thực thể
mất tính người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác, sản phẩm của nền sản xuất đó
là hàng hóa có một ý thức và có một hoạt động độc lập, là con người hàng
hóa.
Chế độ Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa sẽ đưa kinh tế phát triển
đến mức thỏa mãn mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội, con người sẽ
được giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc và tự do phát triển.
Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sản phẩm có
ý thức của người nghệ sĩ, là sản phẩm của tài năng tư tưởng tình cảm của
người nghệ sĩ. Vì vậy, chức năng cải tạo của nghệ thuật đạt được tới đâu là do
người đẻ ra nó. Sáng tạo nghệ thuật ngoài sự hiểu biết, tài năng ra còn là vấn
đề lý tưởng sống. Lý tưởng sống của nghệ sĩ gắn liền với chức năng cải tạo
của văn học. Một tâm hồn bệnh hoạn, yếu đuối, một lý tưởng sống hưởng lạc
thì chỉ tạo được những hình tượng nghệ thuật nhằm trụy lạc hóa con người
không hơn, không kém.
II.4. Qúa trình sáng tạo nghệ thuật.
Sáng tác của người nghệ sĩ là sự thống nhất các khía cạnh của tình cảm

và trí tuệ trong nhân cách của người nghệ sĩ, những khía cạnh được hợp nhất
trong lao động của người nghệ sĩ. Với một sự sinh động đặc biệt, lao động
nghệ thuật bộc lộ ra như là trò chơi của sức mạnh thể chất và tinh thần, từ trò
chơi tạo ra cho con người sự sáng tạo trong nghệ thuật nói riêng và trong hoạt
động thực tiễn của con người nói chung. Nguồn gốc lao động nghệ thuật bắt
nguồn từ những trò chơi nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
16
Sáng tạo nghệ thuật trước hết là một hành động nhận thức (tức là sự hiểu
biết) nhận thức về sự vật, về con người, về đời sống xã hội và về cả chính bản
thân mình nữa. Muốn sáng tạo trước hết phải nhận thức, phải hiểu biết. Bản
thân sự nhận thức không phải là cái gì bẩm sinh hay huyền bí, nó có nguồn
gốc từ thực tiễn, từ trong lao động sản xuất, từ trong cuộc đấu tranh chống
thiên nhiên, xã hội của con người. Không hiểu biết cuộc sống thì cũng có
nghĩa là không nhận thức và do đó không thể có nghệ thuật. Nhưng nhận thức
không phải chỉ đơn thuần là hiểu biết theo nghĩa sát sạt của từ này, mà nó phải
tiến lên cấp độ cao hơn là khám phá, tức là phát hiện ra những mặt nào, yếu tố
nào bản chất, là quy luật trong sự phức tạp, muôn màu muôn vẻ của hiện thực.
Hiện thực là muôn màu muôn vẻ, đa tạp, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên tồn tại
lẫn lộn, nhiều khi cái bản chất, cái quy luật lại biểu hiện ra dưới hình thức cái
ngẫu nhiên, cái tạm thời, cái không bản chất. Nghệ thuật nhận thức cuộc sống
là phải luôn luôn tìm ra cho được cái quy luật của đời sống. Nếu không làm
được điều đó thì ý nghĩa nhận thức của nghệ thuật chỉ dừng lại ở hiểu biết đơn
giản, máy móc và bên ngoài của hiện thực mà thôi. Lại nữa, nghệ thuật không
chỉ nhận thức để mà nhận thức, hiểu biết để mà hiểu biết mà là để sáng tạo ra
một công cụ nhận thức mới cho con người. Ðó là tác phẩm nghệ thuật. Cho
nên, ngoài việc hiểu biết sâu sắc, rộng rãi về thế giới, nghệ thuật còn phải
khám phá ra phát hiện ra bản chất bản chất quy luật thế giới. Sáng tạo là một
yêu cầu cực kỳ quan trọng của chức năng nhận thức của nghệ thuật. Lênin nói:
Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra
thế ra thế giới khách quan nữa. Sáng tạo là yêu cầu của mọi hình thức nhận

thức của con người. Nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế
giới một cách thụ động, máy móc là sự sáng tạo lại một hiện thực mới cao
17
hơn, hiện thực mà nghệ sĩ đã nhận thức được. Và tác phẩm nghệ thuật thực sự
là một công cụ của nhận thức khi nghệ sĩ có sự sáng tạo đó.
KẾT LUẬN
Một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải giải đáp không chỉ những vấn
đề của đời sống thẫm mỹ nghệ thuật mà cả những vấn đề căn bản về xã hội,
chính trị, đạo đức của thời đại. Nghệ thuật chân là một sản phẩn kỳ diệu của
con người. Nghệ thuật chân chính có tác dụng phát triển toàn diện con người,
nó đánh giá các hoạt động, tình cảm của con người.
Nghệ thuật là một hình thức ý thức của xã hội, cho nên nghệ thuật phải
phản ánh các vấn đề của xã hội, nhận thức sự thay đổi và các cuộc đấu tranh
giai cấp cũng như các chiều hướng khác nhau đang vận động trong xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình đại cương về những khuynh hướng cơ bản trong lịch sử
mỹ học, GS.TS. Đỗ Huy- PGS.TS. Vũ Trọng Dung, Nxb. Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2011.
2. />văn-hóa/hinh-tuong-va-chan-ly-nghe-thuat1
3. />4. Mỹ học cơ bản và nâng cao, GS.M.F.Ốp-xi-an-nhi-cốp (chủ biên),
Phạm Văn Bích (dịch), Nxb. Văn hóa thông tin, 2001.

×