Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại Trường trung học phổ thông Mỹ Đức B – Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.55 KB, 123 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XXI thế giới với những chuyển biến mới cực kì quan trọng ảnh
hưởng to lớn đến tình hình các nước, các dân tộc và cuộc sống thường nhật
của con người. Trong những chuyển biến đó, nổi bật là sự hình thành một xã
hội thông tin, kinh tế tri thức và sự phát triển nhanh chóng chưa từng thấy
của khoa học công nghệ, xu thế của toàn cầu hoá. Những yếu tố đó đã tác
động mạnh mẽ đến giáo dục, tạo ra một làn sóng cải cách giáo dục chung ở
các nước trên thế giới mà điểm hội tụ là sự chú ý đặc biệt đến khuyến cáo về
"Giáo dục cho thế kỉ XXI" của Tổ chức Liên hiệp quốc về giáo dục, khoa học,
văn hoá (UNESCO) về 4 trụ cột giáo dục:
− Học để biết
− Học để làm
− Học để cùng chung sống
− Học để làm người.
Đổi mới hoạt động dạy học là xu thế của thời đại, là trào lưu chung của
loài người, là yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng đất nước ta trong
thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là đòi hỏi của sự đáp ứng yêu cầu về
đào tạo con em chúng ta thành những người trưởng thành có thể tham gia vào
thị trường lao động đầy cạnh tranh và nhiều thay đổi…, chứ không phải là ý
muốn chủ quan của một người hoặc một nhóm người nào đó.
Tư tưởng về một nền giáo dục phát triển trí thông minh, sáng tạo của học
sinh đó xuất hiện từ lâu nhưng mới dừng lại ở mong muốn, ở lời kêu gọi chứ
chưa biến thành thực tiễn sinh động hàng ngày của nhà trường.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
mục tiêu đến năm 2020 sẽ từ một nước nông nghiệp trở thành nước công
nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Bối cảnh đó đó đặt ra những yêu cầu
mới đối với phẩm chất và năng lực của người lao động. Ngoài các phẩm chất
1
như lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, quý trọng và hăng say lao động,
lòng nhân ái, ý thức trách nhiệm, cần có những phẩm chất và năng lực rất cần


thiết trong quá trình đất nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ kinh tế
nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức, Để đạt được mục
tiêu này, cần phải đổi mới nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức
dạy học, trào lưu cải cách giáo dục ở các nước hiện nay là đổi mới hoạt động
dạy học.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam (khóaVIII) đã nêu rõ: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
- đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học". Điều 4, chương I, Luật giáo dục nước CHXHCN Việt
Nam quy định: "Hoạt động giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên.". Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX nêu rõ: "Để đáp
ứng yêu cầu về con người và nguồn lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất
nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hoá, cần tạo chuyển biến cơ bản,
toàn diện về giáo dục và đào tạo…Đổi mới hoạt động dạy và học, phát huy tư
duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trong thực hành, thực
nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay" ,
[28,tr 201, 203-204].
Đã từ lâu hoạt động dạy học nói chung, hoạt động dạy học môn lịch sử
nói riêng đã bị phê phán, đó là hoạt động dạy học theo lối truyền thụ một
chiều, áp đặt tạo cho người học cách học bị động, hạn chế việc phát triển các
phẩm chất linh hoạt, độc lập sáng tạo của tư duy, khả năng ứng dụng những
kiến thức và kỹ năng thu nhận được áp dụng vào thực tiễn. Với điều kiện phát
triển của các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao
lưu, đặc biệt là Intents, HS được tiếp thu nhiều nguồn thông tin đa dạng,
2
phong phú từ nhiều nguồn sử liệu khác nhau mặt, các em hiểu biết nhiều hơn,
linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi trước đây mấy chục
năm, đặc biệt là học sinh THPT. Trong học tập, HS không thoả mãn với vai

trò của người tiếp thu thụ động, không chấp nhận những hoạt động dạy học đó
nói trên. Vì lẽ đó, đổi mới hoạt động dạy học môn lịch sử là điều hết sức cần
thiết cùng với đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình sách giáo khoa, đổi
mới cách kiểm tra đánh giá.
Trong những năm qua đó có những đề tài nghiên cứu đề cập đến đổi
mới hoạt động dạy học môn lịch sử, nhưng các biện pháp theo hướng tích cực
vẫn chưa được phổ biến trong việc giảng dạy ở các trường THPT. Có rất
nhiều nguyên nhân và một trong những nguyên nhân là việc quản lý chỉ đạo
đổi mới hoạt động môn lịch sử chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương
trình giáo dục trung học phổ thông hiện nay. Dẫn đến kết quả thi tốt nghiệp
THPT, điểm thi vào đại học môn lịch sử còn thấp.
Tiếp cận từ góc độ quản lý, tác giả nhận thấy hiện tại các cán bộ quản
lý (CBQL) mới dừng lại ở những chủ trương đường lối chung cho tất cả các
môn mà thiếu đi biện pháp cụ thể vào một môn học cụ thể để tác động và tạo
ra sự liên kết giữa người dạy với người học, chưa tổ chức chỉ đạo quá trình
hoạt động dạy học một cách khoa học và hữu hiệu. Vì thế chưa đủ để tạo nên
một bước chuyển biến thực sự về hoạt động dạy học, đặc biệt là môn lịch sử
tại các trường THPT.
Từ những lý do trên, đề tài nghiên cứu khoa học được tôi lựa chọn đề
tài: “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại Trường trung
học phổ thông Mỹ Đức B – Hà Nội ”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại
Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội, nhằm nâng cao chất lượng dạy học đáp
ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục THPT hiện nay.
3
3. Khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý chỉ đạo dạy và học môn lịch sử tại Trường THPT Mỹ
Đức B - Hà Nội

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử của HT Trường
THPT Mỹ Đức B – Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng hoạt động dạy học môn lịch sử ở Trường THPT Mỹ Đức B -
Hà Nội, đã có những kết quả nhất định, tuy nhiên việc quản lý hoạt động dạy
và học môn lịch sử vẫn còn hạn chế. Nếu có những biện pháp quản lý hoạt
động dạy học môn lịch sử thích hợp, đồng bộ phù hợp được xác định trong đề
tài nghiên cứu này thì hiệu quả hoạt động dạy học sẽ được nâng cao, đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục THPT hiện nay đối với môn lịch sử.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý của HT đối với hoạt động dạy học
ở trường THPT.
5.2. Khảo sát thực trạng hoạt động dạy học và thực trạng quản lí hoạt động
dạy học môn lịch sử ở Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội .
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử ở Trường
THPT Mỹ Đức B – Hà Nội, theo hình thức và phương pháp mới.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử của
HT Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội.
Giới hạn địa bàn khảo sát: Khảo sát tại Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội.
4
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về lý luận
Hệ thống hoá các tri thức về quản lý hoạt động dạy học và xác định các
biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử.
7.2. Về thực tiễn
Nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy học
môn lịch sử, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học đáp ứng yêu cầu đổi mới
chương trình giáo dục THPT hiện nay.

8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích và tổng hợp nghiên cứu các tài liệu lý luận về khoa học quản
lý giaó dục, quản lý nhà trường, luật giáo dục, các văn bản pháp quy, những
quy định của ngành GD-ĐT, các loại sách báo có liên quan đến quản lý nhà
trường, liên quan đến quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử ở trường THPT.
8.2. các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
Thu thập thông tin qua việc quan sát các hoạt động quản lý của HT và
hoạt động của tổ bộ môn, hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS học
môn lịch sử.
8.2.2. Phương pháp điều tra viết
Bước 1: Xây dựng phiếu điều tra
Bước 2: Tiến hành điều tra
Bước 3 : Thu thập phiếu điều tra và xử lý số liệu
8.2.3. Phương pháp chuyên gia
8.3. Phương pháp thống kê
Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu của đề tài .
5
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động dạy học môn lịch
sử ở các trường THPT.
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học và quản lý
hoạt động dạy học môn lịch sử tại Trường THPT Mỹ Đức B – Hà nội.
- Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại
Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội.
6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ xưa tới nay, giáo dục luôn là một lĩnh vực mà ở bất kỳ thời đại nào,
quốc gia nào cũng dành được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà
khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu các vấn đề trong giáo dục không phải là điều
dễ dàng, bởi lẽ những vấn đề đó luôn luôn có sự gắn kết, ràng buộc với những
lĩnh vực khác trong xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội... Chính vì
vậy, nghiên cứu các biện pháp quản lý HĐDH của Hiệu trưởng nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Thực chất công
tác quản lý trường học của Hiệu trưởng chủ yếu là quản lý HĐDH với mục
tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục của nhà trường.
Để nâng cao chất lượng giáo dục thì trước tiên phải nâng cao chất
lượng giảng dạy trong nhà trường. Để nâng cao chất lượng giảng dạy, vai trò
của các biện pháp quản lý là hết sức quan trọng. Các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước đã nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà trường để tìm ra các biện
pháp quản lý hiệu quả nhất.
Trong những công trình nghiên cứu của mình, các nhà quản lý giáo dục
Xô Viết đã cho rằng: “Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc
rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động của đội ngũ
giáo viên”.
Tương tự, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu chủ yếu về
mặt lý luận như quản lý và các chức năng quản lý, về tiêu chuẩn và các chức
năng cần có của người quản lý, về vai trò của Hiệu trưởng và đội ngũ CBQL,
về sự liên hệ giữa khoa học quản lý và các khoa học khác. Cũng có những
công trình nghiên cứu về chân dung người cán bộ quản lý nhà trường. Có thể
kể đến các công trình của các tác giả: Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Ngọc Quang,
Hà Sĩ Hồ, Lê Tuấn... Trong các công trình đó, các tác giả đã nhấn mạnh vai
7
trò của quản lý trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Tác giả Hà Sĩ Hồ và
Lê Tuấn cho rằng: “Trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo, việc quản lý dạy và

học là nhiệm vụ trung tâm của nhà trường”. Đặc biệt với sự tâm huyết của
mình với công tác GD, các tác giả đã nhấn mạnh: Hiệu trưởng phải là người
“biết kết hợp một cách hữu cơ sự quản lý dạy và học (theo nghĩa rộng) với sự
quản lý các quá trình bộ phận, hoạt động dạy và học các môn và các hoạt
động khác hỗ trợ cho hoạt động dạy và học nhằm làm cho tác động giáo dục
được hoàn chỉnh trọn vẹn”. Các tác giả Lê Ngọc Trà, Nguyễn Ngọc Thanh đã
nhấn mạnh vai trò công tác quản lý trong việc nâng cao chất lượng GD như
sau: “Các nhà làm công tác quản lý giáo dục phải không ngừng cải tiến nâng
cao chất lượng điều hành và quản lý của mình để qua đó tác động một cách
hiệu quả vào quá trình cải tiến chất lượng ở các khâu, các bộ phận của hệ
thống giáo dục ở cấp vi mô cũng như vĩ mô”.
Trong những năm gần đây, nhiều cán bộ quản lý (CBQL) trường Trung
học phổ thông (THPT) trong cả nước cũng đã tập trung nghiên cứu về các
biện pháp quản lý nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học, chẳng hạn
như các Luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục của các tác giả:
Nguyễn Thị Hảo với đề tài “Những biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm
nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Trấn Yên tỉnh Yên
Bái” (2005)…
Luận văn của các tác giả trên đã nêu lên những biện pháp quản lý của
Hiệu trưởng trường THPT, đặc biệt là các biện pháp quản lý HĐDH, đó là
những công trình có giá trị về lý luận và thực tiễn, phù hợp với công việc của
các tác giả trong thực hiện chức trách Hiệu trưởng trường THPT, đồng thời
cũng giúp cho cho các CBQL nhà trường nói chung và các Hiệu trưởng
trường THPT khác tham khảo để vận dụng trong công tác quản lý của mình.
Song việc nghiên cứu hoạt động dạy học của Hiệu trưởng nhằm thực hiện
quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử tại một trường THPT thì chưa có đề
8
tài quản lý giáo dục nào đề cập đến. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn này tác
giả muốn dựa vào cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động dạy học, để
tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử của Hiệu trưởng và

các cán bộ quản lý Trường THPT Mỹ Đức B – Hà Nội, từ đó đề xuất một số
biện pháp quản lý hoạt động này nhằm thực hiện đổi mới GD theo yêu cầu
hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Khái niệm: Trong quá trình hình thành và phát triển của lý luận quản
lý, khái niệm quản lý đó được các nhà nghiên cứu đưa ra theo nhiều cách
khác nhau, tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau
Frederik Winslon Taylo ( 1856 – 1915), người Mỹ, được coi là “Cha đẻ
của thuyết quản lý khoa học”, là một trong những người mở ra “Kỷ nguyên
vàng” trong quản lý đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lý là:
“Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và đều phải quản lý
chặt chẽ”. Ông cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì
cần làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất.”
Theo Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn thì ít nhiều cùng đến một sự chỉ đạo
để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những
khách quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy
mình, còn một dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” [4,tr15]. Như vậy Mác đã lột tả
được bản chất quản lý là một hoạt động lao động, một hoạt động tất yếu vô
cùng quan trọng trong quá trình phát triển của loài người.
Theo GS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là khách
thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [ 19, tr24].
9
Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghệ thuật chính vì vậy trong hoạt
động quản lý người quản lý phải hết sức sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo để chỉ
đạo hoạt động của tổ chức đi tới đích.
Những định nghĩa trên đây tuy khác nhau về cách diễn đạt, về góc độ

tiếp cận nhưng đều gặp nhau ở những nội dung cơ bản của khái niệm quản lý,
các định nghĩa trên ta có thể hiểu:
Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức năng quản lý,
nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của tổ chức để đạt
được mục tiêu đề ra
Chức năng quản lý: Chức năng của quản lý là hình thức biểu hiện sự tác
động có chủ định của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý. Đó là tập hợp những
nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể quản lý phải tiến hành trong quá trình quản lý.
Ta có thể hiểu chức năng quản lý là một nội dung cơ bản của quá trình quản lý,
là nhiệm vụ không thể thiếu được của chủ thể quản lý.
Về số lượng các chức năng quản lý nói chung, những tác giả nghiên
cứu về quản lý có ý kiến không giống nhau. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả
đều đề cập tới bốn chức năng chủ yếu đó là: Kế hoạch hoá tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra và trong đó thông tin vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để thực
hiện chức năng quản lý.
- Chức năng kế hoạch hoá: Để thực hiện chủ chương, chương trình, dự
án kế hoạch hoá là hành động đầu tiên, chức năng cơ bản để hoàn thành các
chức năng khác. Đây được coi là chức năng chỉ lối làm cho tổ chức phát triển
theo kế hoạch. Trong quản lý đây là căn cứ mang tính pháp lý quy định hành
động của cả tổ chức.
- Chức năng tổ chức: Người quản lý phải hình thành bộ máy tổ chức là
cơ cấu các bộ phận (tuỳ theo tính chất công việc, có thể tiến hành phân công,
10
phân nhiệm cho các cá nhân), quy định chức năng nhiệm vụ từng bộ phận,
mối quan hệ giữa chúng.
Như vậy thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ, liên hệ giữa con
người với con người, giữa các bộ phận riêng rẽ thành một hệ thống hoạt động
nhịp nhàng của một cơ thể thống nhất. Một tổ chức được thiết kế phù hợp sẽ
phát huy được năng lực nội sinh và có ý nghĩa quyết định đến việc chuyển

hoá kế hoạch thành hiện thực, tổ chức tốt sẽ khơi nguồn cho các tiềm năng.
- Chức năng chỉ đạo: Chức năng này đòi hỏi người quản lý phải vận
dụng khéo léo các PP và nghệ thuật quản lý. Đây là quá trình tác động qua lại
giũa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần thực
hiện hoá các mục tiêu đề ra. Bản chất của chức năng chỉ đạo xét cho cùng là
sự tác động lên con người, khơi dậy những tiềm năng của con người trong hệ
thống quản lý, thực hiện tốt mối liên hệ giữa con người với con người và quá
trình đó giải quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện, tự giác và hăng
hái phấn đấu trong công việc.
- Chức năng kiểm tra: Chức năng kiểm tra nhằm đánh giá việc thực hiện
các mục tiêu đề ra, điều cần lưu ý là khi kiểm tra phải theo chuẩn. Chuẩn phải
xuất phát từ mục tiêu, là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi thành viên của tổ chức.
Cuối cùng, tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin.
Thông tin đầy đủ, kịp thời, cập nhật, chính xác là một căn cứ để hoạch định
kế hoạch ; thông tin cũng cần cho các bộ phận trong cơ cấu tổ chức, là chất
liệu tạo quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức, thông tin truyền tải mệnh
lệnh chỉ đạo (thông tin xuôi) và phản hồi (thông tin ngược) diễn tiến hoạt
động của tổ chức và thông tin từ kết quả hoạt động của tổ chức giúp cho
người quản lý xem xét mức độ đạt mục tiêu của toàn tổ chức.
Các chức năng nêu trên lập thành chu trình quản lý. Chủ thể quản lý khi
triển khai hoạt động quản lý đều thực hiện chu trình này.
11
Sơ đồ 1.1: Các chức năng trong chu trình quản lý
1.2.2. Quản lý giáo dục
Theo sơ đồ phân loại khoa học (tam giác khoa học) của B.M Kêđrốp thì
quản lý giáo dục thuộc ngành khoa học xã hội. Do mỗi phương thức xã hội
đều có một cách quản lý khác nhau, cho nên khái niệm quản lý giáo dục đã ra
đời và hình thành từ nhiều quan niệm khác nhau.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, do vận dụng lý luận quản lý xí nghiệp vào
quản lý cơ sở giáo dục (trường học) và coi quản lý giáo dục như một loại “xí

nghiệp đặc biệt”.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, do vận dụng quản lý xã hội vào quản lý
giáo dục, nên quản lý giáo dục thường được xếp trong lĩnh vực quản lý văn
hoá tư tưởng như A.G. Afanaxep đã phân chia trong cuốn sách kinh điển nổi
tiếng của mình: "Con người trong quản lý xã hội”. Như vậy, quản lý giáo dục
được coi là bộ phận nằm trong lĩnh vực quản lý văn hoá tinh thần.
Ở Việt Nam, quản lý giáo dục cũng là một lĩnh vực được đặc biệt quan
tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII đã viết: “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
tới khách thể quản lý nhằm đưa ra hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục
đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất” [28, tr50]
12
Thông tin
Chỉ đạo
Kiểm tra
Tổ chức
Tổ chức
Kế hoạch
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì : “Quản lý giáo dục thực chất là
tác động đến nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu được quá trình dạy học,
giáo dục thể chất theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt
được những tính chất trường THPT xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bằng cách đó
tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới”[19, tr32]
Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện
pháp tổ chức, phương pháp giáo dục, kế hoạch hoá tài chính, cung tiêu…
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng,
cũng như về chất lượng” [23, tr29]
Những định nghĩa nêu trên về quản lý giáo dục tuy có những cách diễn
đạt khác nhau nhưng đều thể hiện một quan điểm chung về quản lý giáo dục

đó là quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý trong việc vận dụng
nguyên lý, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm đạt được những mục
tiêu đề ra. Những tác động đó thực chất là những tác động khoa học đến nhà
trường làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học, có kế hoạch quá trình
dạy và học theo mục tiêu đào tạo.
1.2.3. Quản lý nhà trường
1.2.3.1. Nhà trường
“Nhà trường là một tổ chức chuyên biệt trong hệ thống tổ chức xã hội
thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát
triển xã hội ” [4,tr3]
Nhà trường là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước, xã hội, là
nơi trực tiếp làm công tác đào tạo thế hệ trẻ, là cơ quan giáo dục chuyên biệt,
có đội ngũ các nhà giáo được đào tạo, nội dung chương trình được chọn lọc,
phương pháp giáo dục phù hợp với mọi lứa tuổi, các phương tiện kỹ thuật
phục vụ cho giáo dục, mục đích giáo dục của nhà trường phù hợp với xu thế
phát triển của xã hội và thời đại.
13
1.2.3.2. Quản lý nhà trường
Có nhiều tác giả quan niệm về quản lý nhà trường khác nhau:
Theo tác giả Trần Kiểm "Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”
[11, tr29]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt
động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục”[19, tr34]
Là một thiết chế đặc biệt của xã hội nên nhà trường cùng với công tác
quản lý trường học là vô cùng quan trọng, bao gồm sự quản lý các tác động
qua lại giữa trường học và xã hội đồng thời quản lý chính nhà trường. Người

ta có thể phân tích quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ thống gồm
các thành tố và được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Quản lý các thành tố của quá trình dạy học [27]
M: Mục tiêu DH
N: Nội dung DH
P: Phương pháp DH
Th: Giáo viên
Tr: Học sinh
QL: Quản lý
ĐK: CSVC- TBDH
Vai trò của người quản lý là phải làm sao cho hệ thống các thành tố vận
hành liên kết chặt chẽ với nhau đưa đến kết quả mong muốn.
Như vậy, quản lý nhà trường thực chất là tác động có định hướng, có kế
QL
P
N
Tr
Th
14
M
ĐK
hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực nhằm đẩy mạnh hoạt động
của nhà trường theo nguyên lý giáo dục nhằm đạt mục tiêu giáo dục. Do vậy,
công tác quản lý giáo dục nói chung, quản lý nhà trường nói riêng, gồm có
quản lý các hoạt động trong nhà trường và quản lý các quan hệ giữa nhà
trường với xã hội.
1.2.4. Quản lý trường Trung học phổ thông
1.2.4.1. Truờng Trung học phổ thông
Là cấp cuối cùng của hệ thống giáo dục phổ thông gồm 3 năm học,
trường THPT là cấp học hoàn thiện kiến thức phổ thông cho HS, là cấp học

tạo nguồn lực cho các yêu cầu đào tạo của xã hội, đồng thời chuẩn bị tích cực
cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống xã hội và lao động sản xuất. Do vậy trường
THPT có mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục mang tính phổ thông cơ
bản, toàn diện với những đặc thù riêng nhằm thực hiện nhiệm vụ của cấp học.
Nhiệm vụ và quyền hạn của trường THPT được quy định tại Điều 3, Điều lệ
Trường Trung học (Ban hành kèm theo Quyết định 07/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày
02 tháng 04 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
1.2.4.2. Quản lý trường Trung học phổ thông
Theo tác giả Trần Hồng Quân: "Quản lý nhà trường phổ thông là quản lý
dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác, để dần tiến tới mục tiêu giáo dục" [20,tr 37].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý trường phổ thông là tập hợp
các tác động tối ưu (công tác tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp)
của chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh nhằm tận dụng
nguồn nhân lực dự trữ do nhà nước đầu tư, các lực lượng xã hội đóng góp và
do hoạt động xây dựng vốn tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của
nhà trường và tiêu điểm hội tụ là đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện có chất lượng
mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên một trạng thái mới" [19,
tr. 43].
15
1.2.5. Biện pháp quản lý
Có nhiều định nghĩa khác nhau về biện pháp, nhưng nói chung biện
pháp được hiểu “là cách thức, là con đường để tác động đến đối tượng”.
Trong GD, người ta thường quan niệm biện pháp là yếu tố hợp thành của
phương pháp, phụ thuộc vào phương pháp. Trong từng tình huống sư phạm cụ
thể, phương pháp và biện pháp giáo dục cụ thể có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Điều này có nghĩa là: Một phương pháp nào đó bao giờ cũng có thể và cần
được thực hiện bằng những hành động khác nhau của GV và của HS, theo
những cách thức khác nhau nhưng đều có chung một chức năng và một mục
đích. Mỗi hành động như vậy là một biện pháp GD. Tùy theo từng tình huống

cụ thể trong từng quá trình GD cụ thể mà việc sử dụng PPGD nào đó sẽ được
nhà GD tiến hành bằng cách thực hiện một hay nhiều biện pháp nào đó.
1.3. Quản lý hoạt động dạy học ở các trường Trung học phổ thông.
1.3.1. Đổi mới chương trình giáo dục THPT.
1.3.1.1. Sự cần thiết phải đổi mới chương trình.
Đặc điểm của cấp THPT: Cấp THPT nối tiếp cấp THCS và có trách
nhiệm hoàn thành việc đào tạo tiếp thế hệ trẻ đã qua các cấp học trước đó của
nhà trường phổ thông. Cấp học này một mặt, cần chuẩn bị cho HS những tri
thức và kỹ năng về khoa học xã hội, nhân văn, toán học, khoa học tự nhiên,
kỹ thuật để họ có thể tiếp tục được đào tạo ở bậc học tiếp theo, mặt khác cần
hình thành và phát triển cho họ những hiểu biết về nghề phổ thông cần thiết
cho cuộc sống, tham gia lao động sản xuất, xây dựng xã hội và khi có điều
kiện tiếp tục học lên.
Lý do của việc đổi mới
a. Do yêu cầu của sự phát triển KT – XH đối với việc đào tạo nguồn
nhân lực trong giai đoạn mới; Nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của giai
đoạn mới, ngoài các phẩm chất như lòng yêu nước, yêu CNXH, quý trọng và
hăng say lao động, có lòng nhân ái, ý thức trách nhiệm, còn có những phẩm
16
chất và năng lực cần thiết khác, đó là phẩm chất tôn trọng và nghiêm túc tuân
theo pháp luật; quan tâm và tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc mang tính
toàn cầu; có tư duy phê phán để thích ứng với những thay đổi trong cuộc
sống; đó là năng lực hợp tác và giao tiếp có hiệu quả, năng lực chuyển đổi
nghề nghiệp theo yêu cầu mới của sản xuất và thị trường lao động, năng lực
quản lý, nổi bật nhất là năng lực thích ứng với cốt lõi là khả năng phát hiện và
giải quyết vấn đề. Những phẩm chất và năng lực nêu trên phải được xem là
những nội dung chủ yếu của mục tiêu giáo dục và trước hết là mục tiêu của
nhà trường phổ thông.
b. Do sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ của khoa
học công nghệ: thể hiện qua các lý thuyết, các thành tựu mới và khả năng ứng

dụng cao, rộng và nhanh vào thực tế. Học vấn mà nhà trường phổ thông trang
bị không thể thâu tóm được mọi tri thức mong muốn, vì vậy phải coi trọng
việc dạy phương pháp, dạy cách đi tới kiến thức của loài người, trên cơ sở đó
mà tiếp tục học tập suốt đời. Xã hội đòi hỏi người có học vấn hiện đại không
chỉ có khả năng lấy ra từ trí nhớ các tri thức dưới dạng có sẳn, đã lĩnh hội ở
nhà trường phổ thông mà còn phải có năng lực chiếm lĩnh, sử dụng các tri
thức mới một cách độc lập; khả năng đánh giá các sự kiện, các tư tưởng, các
hiện tượng mới một cách thông minh, sáng suốt khi gặp trong cuộc sống,
trong lao động và trong quan hệ với mọi người. Nội dung học vấn phải góp
phần quan trọng để phát triển hứng thú và năng lực nhận thức của học sinh;
cung cấp cho học sinh những kỹ năng cần thiết cho việc tự học và tự giáo dục
sau này.
c. Do có những thay đổi trong đối tượng giáo dục; Những kết quả
nghiên cứu tâm, sinh lý của HS và điều tra xã hội học gần đây trên thế giới
cũng như ở nước ta cho thấy thanh thiếu niên có những thay đổi trong sự
phát triển tâm sinh lý. Trong điều kiện phát triển của các phương tiện truyền
thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, HS được tiếp nhận nhiều
17
nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống, có hiểu biết
được nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi
trước đây mấy chục năm, đặc biệt là HS cấp THPT. Trong học tập họ không
thỏa mãn với vai trò của người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận các
giải pháp đã có sẵn được đưa ra, họ yêu cầu sự lĩnh hội độc lập các tri thức
và phát triển kỹ năng.
d. Do nhu cầu phải hòa chung với xu thế đổi mới tiến bộ trên thế giới;
đây cũng là một trong những yêu cầu bức thiết, đặc biệt là các bối cảnh thế
giới hiện nay với xu thế hòa nhập. Chương trình của các nước đều hướng tới
việc thực hiện yêu cầu nâng cao chất lượng GD, trực tiếp góp phần cải thiện
chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sống của con người khắc
phục tình trạng học tập nặng nề căng thẳng ảnh hưởng đến sức khỏe, hứng thú

và niềm tin đối với việc học tập của HS. Xu thế đổi mới cũng nhằm khắc phục
tình trạng sản phẩm của GD không đáp ứng được yêu cầu biến đổi nhanh và
đa dạng của sự phát triển xã hội, sự bất bình đẳng về cơ hội tiếp nhận GD mà
biểu hiện chủ yếu là sự cách biệt về điều kiện, về trình độ giữa các địa
phương và khu vực, cách biệt giữa giới tính và địa vị xã hội.
1.3.1.2. Những định hướng đổi mới
Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo đổi mới của giáo dục phổ thông trong
giai đoạn từ nay đến năm 2010.
a. Quán triệt mục tiêu GD
b. Đảm bảo tính khoa học và sư phạm
c. Thể hiện tinh thần đổi mới phương pháp dạy học
d. Đảm bảo tính thống nhất
e. Đáp ứng yêu cầu phát triển của từng đối tượng HS
1.3.1.3. Những vấn đề chung về chương trình
1) Nội dung GDPT phải đạt được các yêu cầu sau
18
a. Đảm bảo giáo dục toàn diện; phát triển cân đối, hài hòa về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản; hình thành và phát triển
những phẩm chất, năng lực cần thiết của con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
b. Bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, hiện đại, hướng nghiệp và có hệ
thống; chú trọng thực hành, gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh
lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu GDPT.
c. Tạo điều kiện thực hiện phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng năng lực tự học.
d. Bảo đảm tính thống nhất của chương trình GDPT trong phạm vi cả
nước, đồng thời có thể vận dụng cho phù hợp với đặc điểm các vùng miền,
nhà trường và các nhóm đối tượng HS.
e. Tiếp cận trình độ GDPT của các nước có nền giáo dục phát triển
trong khu vực và trên thế giới.

2) Chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông.
Chuẩn kiến thức, kỹ năng là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức,
kỹ năng của môn học, hoạt động GD mà HS cần phải và có thể đạt được sau
từng giai đoạn học tập. Mỗi cấp học có chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu
về thái độ mà HS cần phải đạt được.
Chuẩn kiến thức, kỹ năng là căn cứ để biên soạn SGK, quản lý dạy học,
đánh giá kết quả giáo dục ở từng môn học, hoạt động giáo dục nhằm bảo đảm
tính thống nhất, tính khả thi của chương trình GDPT, bảo đảm chất lượng và
hiệu quả của quá trình GD.
3) Phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục phổ thông.
Phương pháp GDPT phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của HS; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm, đối tượng HS,
điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng
hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
19
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS. SGK và
phương tiện dạy học phải đáp ứng yêu cầu của phương pháp GDPT.
Hình thức tổ chức GDPT bao gồm các hình thức tổ chức dạy học và
hoạt động GD trên lớp, trong và ngoài nhà trường. Các hình thức tổ chức GD
phải bảo đảm cân đối, hài hòa giữa dạy học các môn học và hoạt động GD;
giữa dạy học theo lớp, nhóm và cá nhân; bảo đảm chất lượng GD chung cho
mọi đối tượng và tạo điều kiện phát triển năng lực cá nhân của HS.
Để bảo đảm quyền học tập và học tập có chất lượng cho mọi trẻ em , có
thể tổ chức dạy học và hoạt động GD theo lớp ghép, lớp hòa nhập,…
Đối với HS có năng khiếu, có thể và cần phải vận dụng hình thức tổ
chức dạy học và hoạt động GD thích hợp nhằm phát triển năng khiếu, góp
phần bồi dưỡng tài năng ngay từ bậc học phổ thông.
GV chủ động lựa chọn, vận dụng các phương pháp và hình thức tổ
chức GD cho phù hợp với nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể.
4) Đánh giá kết quả giáo dục phổ thông

Đánh giá kết quả GD của HS ở các môn học và hoạt động GD trong
mỗi lớp, mỗi cấp học nhằm xác định mức độ đạt được mục tiêu GD, làm căn cứ
để điều chỉnh quá trình GD, góp phần nâng cao chất lượng GD toàn diện.
Đánh giá kết quả GD ở các môn học và hoạt động GD trong mỗi lớp,
mỗi cấp học cần phải:
a. Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, khoa học và trung thực.
b. Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ được cụ
thể hóa ở từng môn học, hoạt động GD.
c. Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ, đánh giá
của GV và tự đánh giá của học sinh, đánh giá của nhà trường và đánh giá của
gia đình, của cộng đồng.
d. Kết hợp giữa hình thức trắc nghiệm khách quan, tự luận và các hình
thức đánh giá khác.
20
e. Sử dụng bộ công cụ đánh giá thích hợp .
Bộ GD&ĐT quy định việc đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét
của GV hoặc chỉ đánh giá bằng nhận xét của GV cho từng môn học và hoạt
động GD. Sau mỗi lớp, cấp học có đánh giá xếp loại kết quả GD của HS. Kết
thúc lớp 12, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT.
1.3.2. Đổi mới quản lý trường THPT
Trong Nghị quyết số 40/2000/QH 10 ngày 9/12/2000 về đổi mới
chương trình GDPT đã xác định: “ Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo
khoa, phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp
và đổi mới trong thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn hóa trường
sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lý giáo dục.”. Chỉ thị số
14/2001/CT – TTG của Thủ trướng Chính phủ hướng dẫn cách thực hiện
Nghị quyết này, đổi mới quản lý trường THPT sẽ tập trung vào những nội
dung cụ thể sau :
1.3.2.1. Về nội dung, chương trình, sách giáo khoa.
Hiệu trưởng cần quan tâm đến bồi dưỡng chuyên môn, làm cho GV

hiểu được nội dung, chương trình, hiểu biết những ý định, mong muốn của
nội dung, chương trình, hiểu biết những nội dung dạy học, nắm vững SGK,
bước đầu có năng lực thực hiện chương trình.
Hiệu trưởng phải có kế hoạch chủ động tham gia tiếp tục hoàn thiện và
cụ thể hóa những nội dung và tổ chức thực hiện trong thực tế, đặc biệt đối với
các hoạt động giáo dục, các nội dung chương trình gắn với địa phương, những
hoạt động tham gia vào công tác thực tiễn và đời sống, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện một số chủ đề tự chọn, một số bài giảng cụ thể … Cần phải có khả
năng lập kế hoạch tổng thể dài hạn, đồng thời sắp xếp kế hoạch thực hiện
những nhiệm vụ trước mắt nhằm hướng tới mục tiêu chung của chương trình.
Hiệu trưởng cần tổ chức lao động một cách khoa học và xây dựng
phong cách quản lý mới, thể hiện ở các dấu hiệu: Dân chủ trong quản lý; Tôn
21
trọng nhân cách của GV; Phân biệt rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng
thành viên trong nhà trường; Tôn trọng tính sáng tạo của GV, đồng thời coi
trọng tinh thần hợp tác trong nhà trường.
1.3.2.2. Về việc đổi mới phương pháp dạy học.
Hiệu trưởng cần quan tâm chỉ đạo hoạt động đổi mới PPDH bởi đây là
yếu tố liên quan trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng giáo dục thông qua
quản lý một số hoạt động sau:
1. Tổ chức hoạt động nghiên cứu, học tập, ứng dụng những lý luận, học
hỏi về PPDH mới thông qua học tập chuyên đề, tổ chức hội thảo, trao đổi
kinh nghiệm, tổ chức nghiên cứu sách báo tạp chí…
2. Quy định và quản lý nền nếp và chất lượng các hoạt động của tổ,
nhóm chuyên môn, chú trọng đổi mới hoạt động sinh hoạt nhóm chuyên môn:
trao đổi giáo án, tìm hiểu những vấn đề khó, thảo luận đổi mới cách thiết kế
bài học, trao đổi các tình huống dạy học theo hướng đổi mới PPDH, tổ chức
dự giờ rút kinh nghiệm các tiết học theo hướng tích cực hóa và tăng cường
mối quan hệ tương tác giữa các hoạt động của HS.
3. Tổ chức hoạt động tham quan, trao đổi, học tập kinh nghiệm những

đơn vị thực hiện đổi mới PPDH có kết quả.
4. Tổ chức có định kỳ các kỳ thi tay nghề sư phạm.
5. Đổi mới phương pháp đánh giá.
Nội dung cơ bản của quy trình chỉ đạo đổi mới PPDH ở các trường
THPT theo các bước: Chuẩn bị – Tổ chức chỉ đạo điểm – Chỉ đạo phát triển
đại trà - Kiểm tra, đánh giá kết quả, rút ra các bài học kinh nghiệm.
1.3.2.3. Về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
Hiệu trưởng cần hướng tới các biện pháp quản lý để khai thác, sử dụng
triệt để và có hiệu quả những thiết bị dạy học (TBDH) hiện có, được cấp, tự
trang bị, mặt khác, cần khai thác tiềm năng của GV, HS, các lực lượng xã hội
trong việc sưu tầm các mẫu vật, tranh ảnh, trong việc làm ra các TBDH, vừa
22
chú ý quản lý, kiểm tra, ngăn ngừa tình trạng không sử dụng hoặc sử dụng
kém hiệu quả các TBDH hiện có.
1.3.2.4. Về phương pháp đánh giá kết quả học tập.
Bộ GD& ĐT đã ban hành các văn bản đánh giá xếp loại GV và học
sinh và thực hiện quá trình đổi mới đánh giá kết quả GD như : Hướng dẫn HD
10227/THPT ngày 11/9/2001 về đánh giá xếp loại giờ dạy; Quyết định QĐ
12/2006/QĐ- BGD&ĐT ngày 5/4/2005 về việc ban hành Quy chế tuyển sinh
THCS và THPT… Trong các kỳ thi tốt nghiệp và tuyển sinh vào Đại học –
Cao đẳng hàng năm, đề thi được định hướng: đảm bảo cơ bản, không đánh đố,
nhưng yêu cầu phải suy luận để chống lối học tủ, học vẹt của HS.
Căn cứ vào đặc điểm của từng môn học và hoạt động giáo dục của mỗi
cấp học, Hiệu trưởng cần có quy định đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận
xét của GV hoặc đánh giá chỉ bằng nhận xét của GV cho từng môn học và
hoạt động giáo dục.
1.3.2.5. Về việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
Thực hiện chỉ thị số 40- CT/TƯ ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc
xây dựng, nâng cao chất lượng nhà giáo và CBQL giáo dục, Chỉ thị số
22/2003/CT- BGD&ĐT về việc bồi dưỡng nhà giáo và CBQL giáo dục, Hiệu

trưởng trường THPT quản lý đổi mới bồi dưỡng đội ngũ GV góp phần quan
trọng nâng cao chất lượng giáo dục THPT
1.3.3. Quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng ở các trường Trung học
phổ thông
1.3.3.1. Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học trong trường THPT bao gồm hoạt động dạy của
giáo viên và hoạt động của học sinh. Hai hoạt động này luôn gắn bó mật thiết
với nhau, quy định lẫn nhau bởi hai chủ thể dạy học (giáo viên và học sinh)
nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức khoa học, những kỹ năng và kỹ xảo hoạt
23
động nhận thức và thực tiễn, để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát
triển năng lực sáng tạo và xây dựng các phẩm chất nhân cách cho học sinh.
* Hoạt động dạy của giáo viên:
Là truyền thụ tri thức, tổ chức, điều khiển hoạt động chiếm lĩnh tri thức
của học sinh, giúp học sinh nắm được kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ.
Hoạt động dạy có chức năng kép là truyền đạt và điều khiển nội dung học
theo chương trình quy định. Có thể hiểu hoạt động dạy là quá trình hoạt động
sư phạm của giáo viên, làm nhiệm vụ truyền thụ tri thức, tổ chức, điều khiển
hoạt động nhận thức của học sinh.
* Hoạt động học của học sinh :
Học sinh làm việc tự giác, tích cực dưới sự điều khiển của giáo viên
nhằm chiếm lĩnh tri thức khoa học. Hoạt động học cũng có chức năng kép là
lĩnh hội và tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học một cách tự
giác, tích cực nhằm biến tri thức của nhân loại thành học vấn của bản thân. Có
thể hiểu hoạt động học của học sinh là quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành
hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn và hoàn
thiện nhân cách của bản thân. Hai hoạt động dạy và học có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, nó tồn tại song song và phát triển trong cùng một quá trình
thống nhất, chúng bổ sung cho nhau, kết quả hoạt động học của học sinh
không thể tách rời kết quả hoạt động dạy của giáo viên và kết quả hoạt động

dạy của giáo viên không thể tách rời kết quả học tập của học sinh.
Tóm lại, hoạt động dạy học có ưu thế tuyệt đối trong việc hình thành tri
thức phát triển năng lực tư duy thông qua việc dạy các môn học cơ bản, đồng
thời đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách toàn diện. Vì thế, hoạt động
dạy học được hiểu một cách đầy đủ bao gồm toàn bộ việc giảng dạy, giáo dục
của giáo viên, việc học tập, rèn luyện của học sinh theo nội dung giáo dục
toàn diện nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những người làm chủ đất nước, có
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hóa, kỹ thuật, có sức khỏe, để đáp ứng nhu
24
cầu xây dựng xã hội mới.
1.3.3.2. Quản lý hoạt động dạy học.
Để quản lý tốt HĐDH ở trường THPT, Hiệu trưởng phải xác định từ
mục tiêu giáo dục: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
Mục tiêu của giáo dục THPT“Nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những
hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học lên đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động”[17 tr21]
Để quản lý có hiệu quả HĐDH trong nhà trường THPT thì người Hiệu
trưởng cần phải chú ý đến các vấn đề sau đây:
Lập kế hoạch: Xây dựng mục tiêu, xây dựng kế hoạch năm học của
nhà trường, chỉ đạo các tổ chuyên môn, các cá nhân lập kế hoạch cụ thể đúng

quy định.
Xây dựng nền nếp dạy học: Đưa HĐDH vào nền nếp bằng hệ thống các
nội quy, quy định, quy chế chặt chẽ, sao cho mọi thành viên trong nhà trường
nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các nội quy, quy
định… trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học: Dạy học theo phương pháp
mới, lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh trong
25

×