Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Nhà Nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.51 MB, 43 trang )

Nhà Nguyễn
1
Nhà Nguyễn
Việt Nam (1804–39)
Đại Nam (1839–1945)
Nhà Nguyễn
Vương Quốc , Đế Quốc
[[Nhà Tây Sơn<span style="font-size:300%;">←</span>
1802‚–‚1945
[[thời Pháp thuộc<span style="font-size:300%;">→</span>
Quốc kì Việt Nam triều Nguyễn
Quốc ca
Đăng Đàn Cung
Thủ đô Phú Xuân
Ngôn ngữ Tiếng Việt
Tôn giáo Nho giáo
Chính thể Quân chủ
Hoàng đế
- 1802-1820 Gia Long
Lịch sử
-‘Vua Gia Long lên ngôi 1 tháng 6, 1802
-‘Quân Pháp xâm lược 1 tháng 9, 1858
-‘Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng 22 tháng 9, 1940
-‘Vua Bảo Đại thoái vị 30 tháng 8, 1945
-‘Proclaimed independence 2 tháng 9, 1945
Loạt bài
Lịch‚sử‚Việt‚Nam
Thời tiền sử
Hồng Bàng
An Dương Vương
Bắc thuộc lần I (207 TCN - 40)


Nhà Triệu (207 - 111 TCN)
Hai Bà Trưng (40 - 43)
Bắc thuộc lần II (43 - 541)
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương (541 -
602)
Bắc thuộc lần III (602 - 905)
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng
Nhà Nguyễn
2
Tự chủ (905 - 938)
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô (938 - 967)
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh (968 - 980)
Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Nhà Lý (1009 - 1225)
Nhà Trần (1225 - 1400)
Nhà Hồ (1400 - 1407)
Bắc thuộc lần IV (1407 - 1427)
Nhà Hậu Trần
Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê (1428 - 1788)
Lê sơ

trung
hưng

Nhà Mạc
Trịnh-Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn (1778 - 1802)
Nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Pháp thuộc (1887 - 1945)
Đế quốc Việt Nam (1945)
Chiến tranh Đông Dương (1945 - 1975)
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ
1976)
Xem thêm
• Vua Việt Nam
• Nguyên thủ Việt Nam
• Các vương quốc cổ
• Niên biểu lịch sử Việt Nam
Nhà Nguyễn (chữ Hán: 阮朝 (Nguyễn triều)) là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi
hoàng đế Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và sụp đổ hoàn toàn khi hoàng đế Bảo Đại
thoái vị vào năm 1945 – tổng cộng là 143 năm. Triều đại Nhà Nguyễn được ghi nhớ với các giai đoạn chính:
• Giai đoạn độc lập (1802 - 1858)
• Giai đoạn bị đế quốc Pháp xâm lăng và đô hộ (1858 - 1945)
Nhà Nguyễn
3
Thành lập
Thời kì các chúa Nguyễn
Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim (1468 - 1545). Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi
vào năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống lại nhà Mạc. Sau đó Nguyễn Kim còn kiếm được một

người con của vua Lê Chiêu Tông lập lên ngôi để nối tiếp nhà Lê, là vua Lê Trang Tông. Nhờ công này, Nguyễn
Kim được vua phong chức Quốc công, trông coi tất cả quân đội. Nguyễn Kim sau bị người nhà Mạc dùng thuốc độc
giết. Nguyễn Kim có hai người con trai là: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều được phong chức Quận công, nhưng
binh quyền lọt vào tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm nắm quyền chỉ huy quân đội, trông coi tất cả mọi
việc trong triều đình. Để giảm bớt quyền lực của họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho chính mình,
Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa, về sau được Trịnh Kiểm giao quyền cai quản luôn cả Quảng Nam, tức
là miền nam của Việt Nam lúc đó (phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam bây giờ), vào năm 1558
để tránh xa Chúa Trịnh.
Từ đó Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ của mình tại phương nam, mở rộng ranh giới bằng cách xâm lấn đất đai của
Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế quốc Khmer để họ nhường đất của xứ Phù Nam cũ (tức
là miền Nam Việt Nam bây giờ). Tuy nhiên, các chúa Nguyễn lúc đó về hình thức vẫn thần phục vua Lê và cũng chỉ
xưng "Chúa" (Chúa Nguyễn). Nguyễn Hoàng (sau được tôn là Chúa Tiên) là người mở đầu cho việc xây dựng cơ
nghiệp họ Nguyễn ở phương nam.
Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, hay Chúa Sãi, lên ngôi chúa năm 1613, là người đầu tiên mang họ
Nguyễn Phúc. Từ đó con cháu trong giòng họ này đều mang họ này. Sáu đời sau, Nguyễn Phúc Khoát, lên ngôi vào
năm 1738, là người đầu tiên xưng "vương" vì Chúa Trịnh tại phương bắc cũng đã xưng vương – vua Lê chỉ còn hư
vị. Nguyễn Phúc Khoát xưng mình là Vũ Vương.
Sau khi Vũ Vương chết, theo di chúc người nối ngôi phải là Nguyễn Phúc Luân nhưng một vị quan trong triều là
Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi, lên ngôi để dễ bề thao túng. Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi
năm 1765, tức là Định Vương. Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên dân chúng nổi lên khởi nghĩa, trong
số đó là anh em nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm
đối phó, nhân dịp này chúa Trịnh đem quân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị Trương Phúc Loan nhưng sau khi bắt
được Trương Phúc Loan rồi họ tiếp tục đánh và chiếm được Phú Xuân năm 1775. Vì đó chúa Nguyễn phải vào
Quảng Nam. Đến năm 1777, Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn, bắt giết cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc
Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương cùng rất nhiều người và thuộc tướng của họ Nguyễn Phúc. Chỉ có
một người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát.
Nhà Nguyễn
4
Thành lập nhà Nguyễn
Gia Long, vị vua sáng lập triều

Nguyễn
Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượng chiếm được Gia Định và
đến năm 1780, ông xưng vương. Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Ánh
khiến ông trốn chạy rồi quay về nhiều lần. Đến năm 1790, Nguyễn Ánh chiếm
được hẳn Gia Định.
Trong 24 năm liên tiếp sau đó, Nguyễn Ánh ra sức củng cố lại vùng Gia Định;
tranh thủ những sự ủng hộ, nhất là về các vũ khí, của các nhà truyền giáo người
Pháp mà tiêu biểu sự giúp đỡ của giám mục Pigneau de Béhaine để củng cố quân
đội và tạo cho mình một thế đứng vững vàng. Cũng đồng thời lúc đó vua Quang
Trung của Tây Sơn đột ngột qua đời, nhà Tây Sơn rơi vào cảnh "cốt nhục tương
tàn", triều đình nhanh chóng suy yếu và mất lòng dân. Nguyễn Ánh ra sức tấn
công và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn. Sau đó, ông lên ngôi hoàng
đế, lấy niên hiệu là Gia Long, nhà Nguyễn thành lập.
Thời kì độc lập
Từ thời Gia Long bắt đầu có quốc hiệu Việt Nam. Ban đầu, Gia Long cho đổi quốc hiệu Đại Việt sang Nam Việt
nhưng về sau, vì vua Gia Khánh nhà Thanh sợ lầm với nước Nam Việt của nhà Triệu mà lãnh thổ bao gồm cả Lưỡng
Quảng nên đổi tên thành Việt Nam.
Đối nội
Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương
Hiệu kỳ hoàng đế nhà Nguyễn từ 1802
đến 1885
Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong vương, đặt quan lại cho những người theo
phò tá mình. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế Gia Long,
ông lại tiếp tục kiện toàn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính quyền
mới.
Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính
quyền trung ương giống như các triều đại trước đó. Đứng đầu nhà nước là vua,
nắm mọi quyền hành trong tay. Giúp vua giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép
có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các). Về việc quân quốc trọng sự thì có
4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ

mật. Ngoài ra còn có Tông nhân phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia
[1]
.
Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư chịu trách nhiệm chỉ đạo các công việc chung
của Nhà nước, các bộ gồm: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình và Bộ Công.
[2]
Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát
viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) chịu trách nhiệm thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ,
công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc các kho tàng, Quốc tử giám phụ trách giáo dục, Thái y
viện chịu trách nhiệm về việc chữa bệnh và thuốc thang, cùng với một số Ti và Cục khác.
Theo Trần Trọng Kim, người ta "thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo nghĩa của các nước Tây Âu ngày
nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái
Nhà Nguyễn
5
Phẩm phục của một viên quan nhỏ
triều Nguyễn-Hình vẽ của họa sĩ Pháp
E. Ronjat tại Huế (1874)
học Nho giáo có nhiều chỗ khác nhau "
[3]
Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi
có việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét.
Quan lại bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã
quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Hoàng đế tuy có
quyền lớn nhưng lại không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm
điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn vua và thường là
vua phải nghe lời can ngăn của những người này
[4]
.
Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về
quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản

trị mọi việc tại đia phương. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và
một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê
điều và trị an trong tổng.
Ngạch quan lại chia làm 2 ban văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được xác
định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra
chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc còn bình thường quan võ phải
dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa
chỉ huy quân lính của tỉnh nhà
[5]
.
Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng nhiều quyền lợi, cha họ được khỏi đi lính, làm sưu
và miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao hay thấp. Ngoài ra con cái các quan còn được hưởng lệ tập ấm
[6]
.
Tuy bộ máy không thật sự cồng kềnh, nhưng tệ tham nhũng vẫn là một trong những vấn đề lớn. Trong bộ luật triều
Nguyễn có những hình phạt rất nghiêm khắc đối với tội này.
Phẩm phục của quan văn (trái) và quan võ (phải).
Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc
xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền
thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ
việc quản lý đất nước. Đặc biệt là những thành tựu
trong cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng còn có
nhiều giá trị. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho
rằng: "Nhà Nguyễn có nhiều chính sách hay. Chính
sách Đình Nghị: Đã đi họp là phải phát biểu. Ý kiến
trong Đình Nghị phải được ghi chép. Nếu không phát
biểu trong kỳ họp trước, kỳ sau sẽ không được đi họp
nữa. Hay chủ trương Hầu trị: Người của địa phương
không được đứng đầu trong địa phương. Phải đi nơi
khác làm quan, khi đến địa phương khác, không được

lấy vợ, mua đất ở đó. Giám khảo chấm thi không được
tham gia khi có người nhà đi thi, hoặc phải trình báo…Đây là những chính sách mà ngày nay chúng ta cần học
tập."
[7]
Triều Nguyễn từng bị Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đánh giá là "Chế độ quân
chủ chuyên chế cực kỳ phản động" và cho rằng nhà Nguyễn đã "tăng cường bộ máy đàn áp", "Bộ máy quan lại hủ
lậu mục nát"
[8]
. Nhưng nhiều nhà sử học về sau cho rằng bộ máy quan lại triều Nguyễn không thực sự hủ bại, thối
nát, rằng từ thời vua Gia Long (1802-1820) đến Minh Mạng (1820-1840), nhà Nguyễn đã "thực hiện công cuộc cải
cách hành chính theo xu hướng đơn giản, hợp lý, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội ngũ quan lại có năng lực, đáp ứng
yêu cầu của đất nước". Sự thay đổi về quan điểm này được cho là do hiện nay các nhà sử học đã có được "nguồn sử
Nhà Nguyễn
6
liệu toàn diện, phong phú và phương pháp tiếp cận khách quan, khoa học, cộng với độ lùi thời gian cần thiết"
[9]
.
Phân chia hành chính
An Nam Đại Quốc Họa Đồ (Bản đồ nước An Nam to
lớn), bản đồ vẽ bởi giáo sĩ Jean-Louis Taberd thời gian
ông ở Việt Nam thời vua Minh Mạng. Ấn hành trong
sách Dictionarium Latino-Annamiticum completum et
novo ordine dispositum (Từ điển Việt-La) năm 1838.
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn
Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ
ngày nay) thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một
Tổng trấn đứng đầu.
Đến thời Minh Mạng, để nhất thể hóa các đơn vị hành chính trong
cả nước, năm 1831-1832 nhà vua thực hiện một cuộc cải cách
hành chính lớn, theo đó bỏ các tổng trấn, đổi các dinh, trấn trấn

thành tỉnh. Đây là lần đầu tiên đơn vị hành chính tỉnh xuất hiện ở
Việt Nam. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra
thành 18 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh
Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương,
Quảng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng. Vùng còn lại ở phía Nam được chia
làm 12 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, An Giang, Vĩnh
Long, Định Tường, Hà Tiên. Thừa Thiên, nơi chứa kinh đô Phú
Xuân là phủ trực thuộc Trung ương. Cả nước được chia làm 30
tỉnh và phủ Thừa Thiên
[1]
.
Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và
chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1
tỉnh). Giúp việc có Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành
chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự
có chức lãnh binh. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính
quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao
cấp, về sau mới bổ dụng thêm các quan văn
[1]
. Hệ thống chính
quyền được phân biệt rõ rệt giữa Trung ương và địa phương, và
trong hệ thống này nhà vua, người đứng đầu đất nước, nắm nhiều
quyền lực hơn hẳn so với các thời kỳ trước
[1]
.
Một vị quan phủ (Le préfet) tại Bắc Kỳ năm 1884
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều
đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự

lựa chọn cử ra quản trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai
tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra
quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng
[10]
. Nhìn chung, cơ
cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều
đình dễ dàng quản lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra
[1]
.
Đối với vùng thượng du và với các khu vực sinh sống của các dân
tộc thiểu số, Minh Mạng thực hiện nhất thể hóa về mặt hành chính
cùng với các vùng miền xuôi. Năm 1829 ông bãi bỏ chế độ thế tập
của các Thổ ti (các tù trưởng của dân tộc thiểu số) mà cho quan lại
lựa chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri các châu huyện. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu
quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy nhiên,
do phản ứng của người dân địa phương, vua Tự Đức sau đó đã bãi bỏ chế độ lưu quan
[1]
.
Nhà Nguyễn
7
Tính đến cuối thế kỷ 19, Việt Nam có 98 phủ bao gồm 342 huyện và châu.
[11]
Đối với những hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vua Gia Long từ năm 1816 đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng
Sa, cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Sang triều Minh Mạng, nhà Nguyễn cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng
cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và
nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.
Từ thập niên 1890 chính quyền Bảo hộ nhân danh triều đình Huế của nhà Nguyễn cũng có dự định dựng ngọn hải
đăng để khẳng định chủ quyền của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa nhưng đồ án không thực hiện được và mãi đến năm
1938 mới có lực lượng chính thức chiếm đóng quần đảo này.
[12]

Dù vậy khi nhà Thanh gửi thuyền xâm phạm Hoàng
Sa vào những năm đầu thế kỷ 20 thì Bộ Ngoại giao Pháp đã có công văn phản đối.
[13]
Cuộc tranh chấp này kéo dài
cho đến khi người Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương và vẫn chưa kết thúc.
Quân đội
Binh lính người Việt thời Nguyễn
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến
với Tây Sơn là quân đội tương đối mạnh với trang bị và tổ chức kiểu
phương Tây. Sau khi quản làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây
dựng quân đội hoàn thiện hơn, chính quy hơn.
Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện phép giản binh,
theo hộ tịch tuỳ nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh tuyển 1 người
lính
[14]
.
• Về tổ chức: Quân chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung
yếu; các địa phương đều có lực lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ
trị an. Quân chính quy có 14 vạn người
[15]
, ngoài ra còn có quân trù
bị
Quân đội được tổ chức thành 4 binh chủng: bộ binh, tượng binh,
thuỷ binh và pháo binh, trong đó bộ binh và thuỷ binh được chú
trọng xây dựng để tác chiến độc lập. Trình độ chính quy thống nhất
cao.
• Về trang thiết bị: ngoài vũ khí cổ truyền, quân chính quy được trang bị
hoả khí mua của phương Tây như đại bác, súng trường, thuyền máy,
thuốc nổ
Các loại súng thần công, đại bác được đúc với kích thước, trọng lượng thống nhất; thành luỹ, đồn to nhỏ cũng

được quy định cho từng cấp với số lượng quân nhất định.
Sự quan tâm tới khoa học quân sự phương Tây của Gia Long được xem là do tình thế bắt buộc thì với Minh Mạng lại
hoàn toàn tự nguyện. Minh Mạng lấy phương Tây làm kiểu mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng đến việc quân cần
tinh nhuệ, không cần nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500
người)
[16]
.
Sang thời Tự Đức, công tác quốc phòng của nhà Nguyễn có sự tương phản rõ rệt với các triều trước. Một trong các lý
do khiến tình hình quân đội suy sút là vấn đề tài chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như không có. Trang bị
bộ binh rất lạc hậu: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí được bảo dưỡng cũng
kém. Về thuỷ binh, không tàu hơi nước nào được đóng mới, thuỷ quân thậm chí không đủ khả năng bảo vệ bờ biển
chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư
yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống quân lính không được quan tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó
tinh thần chiến đấu của quân sĩ không cao
[16]
.
Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong
kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời Tự Đức khiến quân sự Việt Nam bị lạc
Nhà Nguyễn
8
hậu nhiều. Do đó, khi người Pháp vào xâm lược Việt Nam (1858), khoảng cách về trang thiết bị giữa quân đội nhà
Nguyễn và quân Pháp đã khá xa
[16]
.
Thuế khóa và lao dịch
Việc sinh hoạt quốc gia đòi hỏi phải có đủ tài chính để duy trì bộ máy triều đình nên sau khi lên ngôi, vua Gia Long
đã tổ chức lại vấn đề đăng tịch, bắt buộc mỗi làng xã phải ghi vào sổ đinh trong làng số đàn ông từ 18-60 tuổi
[17]
.
Các đinh bộ không bao giờ kê khai hết tất cả số đàn ông trong làng vì ngoài dân đinh còn có một số người là dân

ngoại tịch, dân lậu, những người bần cùng, vô sản, không thể đánh thuế cũng như những người mới tới làng định

[18]
.
Do tổ chức xã hội Việt Nam căn bản dựa trên xã, thôn nên triều đình không đòi hỏi người dân phải trả thuế trực tiếp
mà giao cho làng lo việc thuế má và sưu dịch, không cần biết làng sẽ phân chia trách nhiệm giữa các dân làng ra sao.
Mỗi làng hưởng quyền tự trị rất lớn, tự họ cai trị theo những tục lệ riêng ghi trong hương ước của làng.
Hội đồng Kỳ mục trông coi tất cả công sản (tài sản công) và thuế khóa, đê điều, trị an. họ cũng phải lo phân phối
công điền (ruộng công) giữa các dân đinh mỗi kỳ quân cấp và chỉ định thanh niên đi lính.
Thuế nhân đinh và thuế ruộng
Nhà Nguyễn xoá bỏ tất cả chế độ thuế khoá cũ của Tây Sơn để đặt lại thuế khoá mới nặng hơn thời trước. Vua Gia
Long cho sửa lại hộ tịch và điền tịch đã hư hỏng qua thời nội chiến.
Hộ tịch phân ra 9 hạng, tuỳ từng hạng mà nộp thuế toàn bộ hay được miễn giảm một nửa hoặc miễn trừ cả sưu thuế
lẫn sai dịch. Thuế đinh nhà Nguyễn đặc biệt đánh nặng lên dân Thanh Nghệ và Bắc Hà. Dân công nghệ thì nộp thuế
sản vật.
Thời Minh Mạng thì định lại thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế. Thuế điền thì dân Thanh Nghệ và
Bắc Hà cũng bị nặng hơn ở các miền khác.
Theo thống kê của bộ Hộ thì số nhân khẩu năm đầu đời Gia Long là 992.559 người, cuối đời Thiệu Trị là 1.024.380
người. Về điền thổ thì đầu đời Tự Đức có 3.398.584 mẫu ruộng và 502.672 mẫu đất
[19]
.
Lao dịch
Mỗi người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch cho triều đình. Lao dịch thường là để làm các mục đích: xây sửa hệ
thống đê điều, kênh rạch, sông ngòi; xây đắp các thành lũy; xây dựng các cung điện cho hoàng gia.
Trên thực tế, người dân phải lao dịch khá nặng trong thời gian vương triều Nguyễn xây dựng các cung điện, lăng
tẩm, dinh thự, Ví dụ năm 1807, ngay khi kinh thành Huế vừa được xây xong, vua Gia Long lại huy động hàng
nghìn dân đinh và binh lính tiếp tục sửa chữa và tu bổ thêm trong một thời gian dài. Vua Minh Mạng cũng tiếp tục
công việc xây dựng kinh đô. Vua Thiệu Trị thì không tập trung xây dựng kinh đô nữa, nhưng, trong một cuộc tuần du
lớn ra Bắc Kì năm 1842, người dân đã phải xây 44 hành cung cho một phái đoàn đông đến 17.500 người, 44 con voi
và 172 con ngựa của nhà vua

[20]
.
Theo nhận xét của giáo sĩ Pháp Guérard: " sự bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây Sơn: thuế
khóa và lao dịch đã tăng lên gấp ba"
[20]
. Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca miêu tả sự nặng nề của chế
độ lao dịch, ví dụ bài "Tố khuất khúc" của dân Sơn Nam Hạ có câu:
Binh tài hai việc đã xong:
Lại còn lực dịch thổ công bao giờ
Một năm ba bận công trình
Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao
[20]
Nhà Nguyễn
9
Luật pháp
Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, chi tiết. Vua Gia Long chỉ mới lệnh cho các quan tham khảo bộ
luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất
[21]
.
Năm 1811, theo lệnh của Gia Long, tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành đã chủ trì biên soạn một bộ luật mới
và đến năm 1815 thì nó đã được vua Gia Long ban hành với tên Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là luật Gia Long. Bộ
luật Gia Long gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp mọi
nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh nhưng kỳ thực là chép luật
của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều.
Chương "Hình luật" chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác như "Hộ luật" chỉ có 66 điều còn
"Công luật" chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội
tuyên truyền "yêu ngôn, yêu thư"
[21]
. Tuy nhiên, bộ luật cũng đề cao việc chống tham nhũng và đặt ra nhiều điều
luật nghiêm khắc để trừng trị tham quan.

Tất nhiên, đến các đời vua sau Gia Long, bộ luật này cũng được chỉnh sửa và cải tiến nhiều, nhất là dưới thời Minh
Mạng
[21]
.
Đối ngoại
Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam
bao gồm cả Cao Miên và Lào
Với Trung Quốc
Sau khi lấy được Bắc Hà, vua Gia Long đă cử một sứ
đoàn do Trịnh Hoài Đức dẫn đầu sang nhà Thanh xin
cầu phong. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó
vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê
Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh nhà Thanh
đổi quốc hiệu là Nam Việt. Sau những tranh luận về tên
gọi vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa
nằm ở lưỡng Quảng và cùng đồng ý đảo ngược lại thành
Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây sang
làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt Nam quốc vương,
ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm
một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.
Tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ
vua Gia Khánh 50 tuổi. Liên tục từ 1813, 1817 và 1819
việc giao thiệp giữa Gia Long và nhà Thanh được êm
đẹp
[22]
. Về sau, nhà Thanh đã nhiều lần cử người giúp
triều Nguyễn trong vụ đàn áp Khởi nghĩa Lê Duy Phụng
ở Bắc Kỳ những năm 1861-1865.
Với Xiêm La
Dù có xung đột từ thời kỳ trước đó đến khi Gia Long

nắm quyền, việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Xiêm
La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên
vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt ảnh hưởng, Quốc vương
Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng Cam Lộ, dân ở các vùng Cao nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, người
Thượng (tức người Rhadé) ở các nước Thủy Xá và Hỏa Xá cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền
của triều Nguyễn
[23]
.
Nhà Nguyễn
10
Năm 1827, Quân Xiêm La đánh Vạn Tượng khiến quốc vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải sang cầu cứu
triều đình Việt Nam. Vua Minh Mạng cho Thống chế Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân
Xiêm đánh bại. Năm 1828 Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục đem 3.000 quân và 24
con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane) nhưng đạo quân của nhà Nguyễn và A Nộ lại bị
thua phải xin viện binh Nghệ An. Vua Minh Mạng chán việc này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ còn phòng vệ vùng biên giới.
Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị bắt nộp cho Xiêm La
[24]
.
Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống chế Phạm Văn Điển và Tham tán Quân vụ Lê
Đăng Doanh cùng với các đạo quân nhà Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư cho họ để trách
cứ. Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy họ vẫn bí mật giúp người Chân Lạp nổi lên chống lại
chính quyền Đại Nam hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình.
Cuối năm 1833, nước Xiêm mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi. Theo sử
gia Phạm Văn Sơn thì "Xiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam, lúc không sinh sự
được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra trên đất Việt Nam liền nắm
ngay cơ hội để xâm lấn"
[24]
.
Với Ai Lao
Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ của Việt Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn

Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đều xin làm nội thuộc và trở
thành các châu, phủ của Việt Nam
[25]
.
Với Chân Lạp
Lãnh thổ bảo hộ Chân Lạp 1818-1863
Khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên tuy mất
Thủy Chân Lạp cho người Việt nhưng vẫn phải chịu
thần phục. Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân
Xiêm, Tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại
Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ
Chân Lạp
[25]
.
Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc
Ông Chân mất, không có con trai nối dõi, quyền bính
chuyển sang cho Trà Long và Lê Kiên - hai người Chân
Lạp làm quan cho người Việt. Năm sau, Trương Minh
Giảng lập công chúa Angmey, con của Nặc Ông Chân,
còn gọi là Ngọc Vân công chúa, làm quận chúa. Ông
đổi nước Chân Lạp thành Trấn Tây thành, chia làm 32
phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan coi sóc mọi việc quân sự và dân sự
[25]
.
Do quan lại Đại Nam tại Chân Lạp làm nhiều điều ức hiếp, nhũng nhiễu dân Chân Lạp; do nhà Nguyễn bắt Ngọc
Vân công chúa về Gia Định, đày Trà Long và Lê Kiên ra miền Bắc Việt Nam, nhân dân Chân Lạp oán giận và nổi
dậy chống quân Việt Nam ở khắp nơi. Người em của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa với sự giúp đỡ của
Xiêm La. Quân nhà Nguyễn đánh dẹp không nổi, đến khi vua Minh Mạng qua đời thì Trương Minh Giảng phải bỏ
Trấn Tây thành rút về An Giang
[25]

.
Ký ức của người Khmer về các cuộc nổi dậy của họ thời đầu thế kỷ 19 và về sự tàn bạo của quan quân nhà Nguyễn
khi đánh dẹp đã được lưu truyền trong ca dao và truyện kể của người Khmer. Họ dùng từ "Youn" (trong tiếng Khmer
có nghĩa là "man rợ") để chỉ người Việt. Các bà mẹ thường dùng chuyện "Youn bắt" để dọa con. Kênh Vĩnh Tế - con
kênh đào dài 25 dặm được xây dựng bởi dân phu Việt và một phần người Khmer ở Thoại Sơn - đã để lại những câu
chuyện về cách đối xử tàn ác của người Việt đối với người Khmer mà sau này Khmer Đỏ đã sử dụng trong các chiến
dịch tuyên truyền khơi dậy lòng hận thù của người Campuchia đối với người Việt
[26]
.
Nhà Nguyễn
11
Với phương Tây
Năm 1803, Anh Quốc sai sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Gia
Long không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng vẫn bị
từ chối.
Đối với nước Pháp, vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian truân có nhờ ông Bá Đa Lộc giúp đỡ. Khi
chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi người 50 lính hầu
và khi chầu thì không cần lạy Hoàng đế.
Năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là Achille De
Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc
nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã
không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa
[27]
.
Cảnh hành hình giáo sĩ Pierre Borie năm
1838 dưới thời Minh Mạng
Tuy nhiên, sự bành trướng của Châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e
ngại, nhất là sau khi nước Anh chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng
cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không thể biệt đãi một
quốc gia đặc biệt nào. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới

Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự dễ dàng khi buôn bán ở Việt
Nam.
Vua Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của
người Á Đông lúc đó, coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm
lược
[28]
. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của Châu Âu. Trong
thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các
giáo sĩ nước ngoài đã so sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã -
một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo.
Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ
lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng dụng nữa.
Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa
hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ,
ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây
dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp
xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến.
Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp với các nước
ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư
xin thông thương nhưng không được tiếp nhận.
Từ năm 1855 các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông
thương cũng không được. Sau khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước
phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện
để giao dịch với người nước ngoài nhưng không có kết quả vì những người được ủy thác vào các việc này không
được học gì về ngoại giao
[28]
.
Nhà Nguyễn
12
Kinh tế

Thương mại
Nội thương
Thương mại Việt Nam sau khi đất nước được thống nhất vẫn không phát triển lắm
[29]
, tổ chức thương mại của người
Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn
vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay, không liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người
Việt Nam dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay công
nghệ.
[29]
Việc buôn bán ở các chợ quy mô lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối, dù những người này chỉ là thiểu số.
[29]
Các
mặt hàng tiêu dùng họ kinh doanh gồm có: mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu và bán và nhập cảng trà,
thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy
Trong vùng nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở
đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản
và nông sản địa phương và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ này sang chợ
khác. Theo sử gia Trần Trọng Kim, người Việt Nam chỉ quanh quẩn trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt,
nên bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất.
[30]
Ở Kẻ Chợ trong thế kỷ XIX các thương khu (phường) đã thay đổi bản chất, đã thoát ly khỏi trạng thái chợ phiên có
kỳ hạn và đã có thương gia cùng thợ thuyền cư trú thường xuyên. Thanh Hoá được bắt đầu xây dựng đầu thời Gia
Long và tới năm 1885 đã là 1 trung tâm thương mại. Ở kinh đô Huế, năm 1837, triều đình đã cho lập chợ Gia Hội có
tất cả 399 gian, dài suốt hơn 319 trượng
[31]
Những trung tâm thương mại từ cuối thế kỷ XVIII cũng vẫn tiếp tục hoạt động trong thế kỷ XIX. Hội An tương tự 1
Bazar lớn của Ấn Độ với khoảng 60.000 dân mà 1/3 là Hoa kiều. Hàng năm có những thuyền buồm Trung Hoa
lường đến 600 tấn tới buôn bán.
[32]

Ở Huế, người Tàu và người Việt buôn bán rất lớn. Thuyền buôn Trung Quốc chở
đến vải vóc, đồ sứ, trà, thuốc Bắc, đồ chơi và chở về thổ sản như cau khô, tơ sống, gỗ, sơn, sừng tê và ngà voi.
Ngoài các tổ chức buôn bán đại quy mô ra, Hoa kiều trong các đô thị lớn còn kinh doanh sòng bạc, đánh đề hay đút
lót cho các quan để được đúc tiền, trưng thầu thuế đò, thuế chợ hay độc quyền rượu. Có những Hoa thương có thế lực
còn chiếm độc quyền cung cấp hàng cho triều đình.
[33]
Cải cách tiền tệ giúp cho thương mại phát triển hơn so với thế kỷ trước. Vua Gia Long và Minh Mạng đã cho đúc
những nén vàng, nén bạc, nhờ đó thương mại đã có bước tiến hơn trước. Tuy nhiên, tiền ít được đầu tư và được dân
chúng đem cất trữ bởi tâm lý dân chúng còn mang nặng tính nông nghiệp.
[34]
Ngoại thương
Cho tới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương Tây khá cẩn trọng nhưng thương mại với
họ vẫn được khuyến khích. Hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước láng giềng không thể phát triển tự do
khi các quan chức đánh thuế nặng lên thương mại, còn thủ tục thì rất phiền phức. Ngoài ra, triều đình còn cấm đoán
một số mặt hàng, muốn bán phải có giấy phép riêng. Không có một tầng lớp trung lưu làm giàu bằng thương mại để
thúc đẩy triều đình mở rộng giao dịch quốc tế
[35]
.
Về các thành thị công thương, trung tâm vẫn là Thăng Long, Bến Nghé, Đà Nẵng, Gia Định, còn Hội An, Phố Hiến,
Thanh Hà do nhiều nguyên nhân trở nên suy tàn và không thể phục hồi như xưa. Xuất hiện thêm vài hiệu buôn người
Hoa, một số phường thủ công cũng ổn định mặt hàng nhưng không thay đổi nhiều.
[36]
Triều đình đã tổ chức nhiều
chuyến đi công cán đến các nước trong khu vực để thực hiện giao dịch buôn bán. Năm 1824, Minh Mạng đã sai
người đi công cán ở Hạ Châu (Singapore) và Giang Lưu Ba (Indonesia). Năm 1825, vua Minh Mạng phái người sang
Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh. Sau đó, mỗi năm đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của
người Âu ở khắp Đông Nam Á. Từ 1831-1832 trở đi, các chuyến công cán càng lúc càng nhiều, điểm đến cũng khá
đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống (Luzon - Philippines), đảo Borneo, Quảng Đông, Giang Lưu Ba, Trong khoảng
Nhà Nguyễn
13

1835-1840 đã có 21 chiếc được cử đi.
[29]
Hàng bán ra chủ yếu là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là len dạ
và vũ khí, đạn dược. Các hoạt động này gần như là độc quyền của triều đình dù tư nhân không bị cấm.
[29]
Dù vậy,
nhiều thương nhân cũng lợi dụng các chuyến buôn bán này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng
Châu.
Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt Nam và Singapore. Thương nhân người Hoa thường lén
chở gạo đi và đem thuốc phiện về. Trong những năm 1820-1830, giao dịch với Singapore rất hạn chế.
[29]
Nguyên
nhân do hàng hóa của Việt Nam phù hợp với thị trường Trung Hoa hơn. Khi người Pháp sắp chiếm hết Nam Kỳ, các
bản lược kê tài chính cho thấy quan thuế hàng năm tương đương 3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách
40.000.000 mà các quan viên đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền chuyển về
triều đình rất nhiều.
[29]
Từ thời Thiệu Trị, do xung đột với phương Tây từ nguyên nhân tôn giáo, quan hệ buôn bán với các nước này bị tổn
hại. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa. Triều đình cũng tìm cách cản trở dân thường
buôn bán với người Tây nên cuối cùng, thương gia ngoại quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai, trong đó người
Hoa chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Thủ công nghiệp
Giống các triều đại trước, thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chiếm một vị trí rất quan trọng: nó chế tạo tất cả
những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền,
[37]
Chính vì vậy, nhà
Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận.
Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long.
[37]
Nhà Nguyễn cũng lập các Ti

trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất,
đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng, Ti Thuyền
chịu trách nhiệm về các loài thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc
[37]
. Ngoài ra còn có các ti
Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.
[38]
Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như
khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vì vậy người thợ luôn tìm cách
trốn tránh dù triều đình áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn. Họ chỉ dám làm những thứ nhỏ
để bán cho dễ, những người nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý. Đầu
Thế kỷ XIX có người chế được men sứ tốt hơn của Trung Quốc nhưng phải bỏ trốn vì sợ bị trưng dụng làm cho triều
đình; một số khác phải giả làm đồ Trung Quốc để không bị các quan mua rẻ hay lấy không.
[39]
Trong nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ John White đã nhận xét:" Người Việt Nam quả là những người
đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác." Ngoài các thuyền gỗ,
người thợ thủ công VN còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng
[40]
. Ngoài ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc tiên
tiến và có chất lượng vào thời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng, và cả máy hơi nước.
[40]
.
Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong
các mỏ Nhà nước
[40]

[41]
. Tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém phát triển so với thế giới.
Nhà Nguyễn
14

Nông nghiệp
Vấn đề ruộng đất
Ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công
điền công thổ này để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân. Đạo dụ năm Gia Long thứ 2 (1803) có ghi rõ:"Phàm
xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền "
[42]
Trải qua nội chiến, nhân dân điêu đứng rất nhiều. Hết chiến hoạ lại gặp mất mùa liên tiếp. Triều đình thường phải
giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Thời Minh Mạng định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính,
công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng 1 phần khẩu
phân nhưng quan lại, cường hào cũng giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cô
nhi, quả phụ được 1/3.
[43]
Việc khai hoang và phục hóa
Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục một số công việc từ thời các chúa Nguyễn để lại như việc khẩn hoang, mở
rộng, phát triển nông nghiệp. Ở Nam Kỳ, người dân đã tự do đến khẩn hoang với tư cách cá nhân hoặc tập thể dưới
sự giúp đỡ của triều đình.
[44]
Sử sách cũng ghi lại tên tuổi nhiều người đã có công trong việc đào kênh, vỡ đất như
Thoại Ngọc Hầu.
Triều đình nhà Nguyễn dành cho việc khai hoang, phục hóa rất nhiều sự quan tâm, họ đã cho tiến hành nhiều chính
sách khai khẩn hoang khác nhau và đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều:
năm 1847 đã là 4.273.013 mẫu
[45]
.
Hai vị quan tổ chức khẩn hoang nổi tiếng nhất là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương; trong đó Nguyễn Công
Trứ nổi lên vì là tác giả của ba chính sách khẩn hoang lớn: đồn điền, doanh điền và khai khẩn ruộng hoang
[46]
. Cụ
thể như sau:
Đồn điền

Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm để thực hiện việc khai khẩn đất hoang.
Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được quản lý theo cung cách đồn điền không giống như thôn ấp bình
thường; sau một khoảng thời gian từ sáu đến mười năm để cuộc sống ổn định thì sẽ chuyển sang hình thức bình
thường. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định
[46]
. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là
Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả 6 tỉnh
[47]
.
Doanh điền
Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều đình và nhân dân, thực hiện di dân để lập ấp mới. Hình
thức này bắt đầu được thực hiện từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng theo đề nghị của Tham tán quân vụ Bắc
thành Nguyễn Công Trứ. Theo đó, triều đình sẽ bỏ vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ và chỉ
đạo dân chúng đưa đi khai hoang
[48]
Trong 6 tháng đầu, triều đình sẽ cấp cho dân chúng đi khai hoang đầy đủ lương thực và phương tiện sản xuất. Từ
tháng thứ 7 thì dân phải tự lo. Triều đình sẽ miễn thuế cho các ấp và lý mới này 3 năm.
[48]
Tổng Giao Thủy thuộc
Nam Định cũng được thành lập theo hình thức này
[48]
. Về sau, các quan ở Gia Định gồm Trương Minh Giảng, Cao
Hữu Dực, Trần Hoàn, Phạm Hữu Chỉnh và Nguyễn Tri Phương cũng bắt chước thực thi chính sách này trên vùng Gia
Định, đồng thời với chính sách đồn điền trên một quy mô rất lớn và thu được nhiều thành công
[49]
, diện tích ruộng
đất đã tăng lên rất nhiều.
Chính sách đồn điền và doanh điền được triều đình kèm theo một loạt luật lệ thưởng phạt phân minh để khai thác
triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn tình trạng bỏ đất nhưng cũng không dứt hẳn được hiện tượng ruộng hoang
[50]

.
Ngoài ra, triều đình Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có
chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt thời vua Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được
630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất.
[51]
Nhà Nguyễn
15
Tuy nói trên toàn diện, đất công điền không quá 1/5 diện tích canh tác, nhưng phần đất còn lại được phân phối giữa
các nông dân mà đa số chỉ làm chủ tới 5 mẫu là nhiều. Hạng người có 100 mẫu trở lên thì rất ít, mỗi tỉnh có nhiều
nhất là 5, 3 người.
[52]
Quan điểm của các sử gia Việt Nam cũng đã thay đổi khi nhìn nhận về vấn đề này. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn
Đình Đầu thì việc xuất hiện của các đại điền chủ ở phía Nam sản xuất lúa gạo đại trà, bứt phá khỏi cảnh sản xuất
manh mún nhỏ lẻ thì đó là mặt đổi mới rất tích cực và rất đáng ngợi khen
[53]
.
Việc trị thủy
Tại một quốc gia dựa trên căn bản là nông nghiệp như Việt Nam, vấn đề trị thủy càng hệ trọng hơn nữa do các con
sông lớn không có thủy chế điều hòa. Đối với nạn nước lụt và nạn triều biển cần phải đắp đê.
Vua Gia Long vừa lên ngôi đã quan tâm đến vấn đề đê điều và cho người tu bổ đê cũ, đắp thêm đê mới. Năm 1809,
ông lại cho đặt nha Bắc Thành đê chánh và các chức Tổng lý và Tham lý đê chánh để lo vấn đề đê điều ở các trấn xứ
Bắc Kỳ. Tới năm 1828, theo đề nghị của các quan, vua Minh Mạng cho cho tăng cường thêm nhân sự cho nha môn
đê chánh nhưng tới 1833 thì bỏ nha này đi để chuyên ủy việc đê điều cho các Đốc biện tại các tỉnh.
Việc đắp đê, sữa chữa và khám xét được quy định tỉ mỉ. Thời Tự Đức nhiều lần đã xác định lại cách thưởng phạt về
sự phòng hộ đê và phân định trách nhiệm của các phủ, huyện, tổng, lý sở tại các nơi đê vỡ
[54]
.
Năm 1809, hệ thống đê điều ở Bắc Thành tổng cộng là 239.933 trượng tương đương 960 km
[54]
. Đến hết thời Gia

Long, hơn 47 cây số đê điều đã được tu sửa. Và sau 21 năm dưới thời nhà Nguyễn, chiều dài các con đê ở Bắc Kỳ đã
tăng lên 303.616 trượng tương đương 1.215 km. Tới cuối thế kỷ XIX thì hệ thống đê này đã dài tới 2.400 km
[54]
Vua Minh Mạng, vị vua thứ nhì của triều Nguyễn
Mặc dù triều đình dành rất nhiều quan tâm nhiều tới việc trị thủy
nhưng do thiếu sự phối hợp đồng bộ và quy hoạch chung giữa các địa
phương, do tác động của môi trường, sinh thái, các đê đắp lên cứ vỡ
liên miên. Đặc biệt là ở sông Hồng, vì đất bồi nên lòng sông giữa 2 con
đê cao hơn mặt đất, mỗi khi nước lớn thì đê không thể nào cản nổi.
Triều đình phân vân trong 3 cách: giữ đê, phá đê và đào thêm sông.
Do việc bất đồng kéo dài nên triều đình vẫn phải giữ đê mà đê vẫn tiếp
tục vỡ.
[55]
Việc cứu đói
Mỗi khi mất mùa vì lụt lội hay hạn hán, giá gạo lên cao gây khó khăn
về lương thực. Nạn thiếu ăn thường hoành hành tại các tỉnh nghèo nhất
và hay gặp thiên tai như Nghệ An. Người dân bị đói tràn khắp vùng
thôn quê, tụ họp nhau đi cướp và những người chống triều đình lợi
dụng sự bất mãn của những đoàn dân đói này để xách động nổi loạn
như ở Thanh Hóa và Nghệ An năm 1819.
Triều đình phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu đói, thường
là chẩn cấp. Triều đình thiết lập các kho lương trữ lúa cho việc cứu tế
được gọi là Bình Chuẩn Thương, người nghèo túng có thể mua gạo giá
rẻ hơn bình thường và không giới hạn, từ 1, 2 phương tới cả thưng, đấu, bát.
Triều Nguyễn còn lập ra Nghĩa Thương là những kho trữ lúa ở các tỉnh và phủ, huyện. Những khi đói kém thì các
kho này được mở ra để phát chẩn cho dân nghèo. Thời Tự Đức tổ chức Xã Thương, khi gạo đắt thì bán ra, khi gạo rẻ
thì đong lại để lưu trữ, có thể cho vay, thu lợi bao nhiêu dùng để cấp dưỡng binh đinh và giúp người nghèo. Thời
Minh Mạng triều đình cũng bắt quan lại các tỉnh phải xuất lúa giống ở kho cho dân nghèo vay để làm mùa sau, nhằm
làm cho nông nghiệp không bị đình trệ và việc mất mùa không ảnh hưởng nhiều sang các năm sau.
[56]

Nhà Nguyễn
16
Các biện pháp cứu tế này chỉ có thể ngăn cản nạn đói khỏi lan rộng trong 1 thời gian ngắn, không thể ngăn chặn một
cách dứt khoát sự thiếu hụt lương thực. Ngoài ra, việc quan lại địa phương tham nhũng cũng làm giảm hiệu năng của
các biện pháp này. Triều đình phải liên tiếp ban hành các đạo dụ để nghiêm trị.
Để làm nhẹ bớt sự khổ cực của người nông dân, triều Nguyễn cho áp dụng chính sách giảm hay miễn thuế cho những
tỉnh bị nạn. Riêng với các tỉnh bị thiệt hại nặng, vua cho miễn luôn tất cả các khoản thuế còn thiếu ở những năm
trước. Năm 1841, vua Thiệu Trị cho dân Hưng Yên được miễn số thuế là 23.385 quan và 83.162 hộc lúa.
[57]
Văn hóa và giáo dục
Văn hóa
Triều Nguyễn đã để lại cho lịch sử một di sản văn hóa khổng lồ. Riêng số sách do triều Nguyễn viết ra trong 2/3 thế
kỷ XIX còn nhiều hơn toàn bộ số sách của 300 năm trước đó gộp lại.
[58]
Giáo dục
Văn miếu Huế
Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh,
các trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở
Kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi
Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong
năm này, Gia Long cũng cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các
trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học
chế đồng thời tái lập lại các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi trấn có một
quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng
năm triều đình mở một kỳ thi.
[59]
Theo thông lệ cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở các địa
phương. Những người trúng cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, trúng thấp gọi là tú tài. Năm sau ở Kinh đô mở
khoa thi Hội tại bộ Lễ, những cử nhân năm trước khi ứng thí, nếu trúng cách thì được tiếp tục thi Đình ở trong điện
nhà vua để lấy các bậc Tiến sĩ.

Trong dân chúng, việc học tập có tính chất tự do hơn. Bất kỳ người nào có học lực kha khá cũng có thể mở trường tư
thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học
và cho con các nhà lân cận đến học. Theo ông Trần Trọng Kim thì người Việt Nam vốn chuộng sự học, cho nên
người đi học cũng nhiều.
[60]
Dù vậy, việc học tập càng lúc càng thoái hóa. Nhiều người học chỉ để ra làm quan. Trần Trọng Kim cho rằng "bao
nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể
chú của tiền nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện tập hàng ngày, thì cốt tập
cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài
thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai
tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ
như rơm rác, coi mình như thần thánh."
"Sự học của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra một thứ cố tật không sao
chữa được Đại khái, cái trình độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà
hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà
còn kém cỏi như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được."
[60]
Thời vua Minh Mạng, ông muốn canh tân việc học hành thi cử nhưng lại không biết tiến hành ra sao bởi triều thần
của ông phần nhiều chỉ là những hủ nho lạc hậu, không giúp đỡ được nhà vua một kế hoạch nào cho quốc phú dân
cường.
[61]
Ông nói rằng:
Nhà Nguyễn
17
"Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay
những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay
thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một
kém đi. Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại".
[61]
Văn học

Cảnh vườn Thư quang trong cuốn Ngự đề Đồ Hội Thi
Tập, tập thơ ngự chế Thần kinh nhị thập cảnh của vua
Thiệu Trị.
Văn học nhà Nguyễn có thể chia làm các thời kỳ như sau: thời
Nguyễn sơ, thời kỳ nhà Nguyễn còn độc lập và thời kỳ nhà
Nguyễn thuộc Pháp
[62]
.
Thời Nguyễn sơ
Đây là thời kỳ của các nhà thơ thuộc hai nguồn gốc chính là quan
của vua Gia Long và các cựu thần nhà Hậu Lê bất phục nhà
Nguyễn. Tiêu biểu cho thời kỳ này là các tác giả: Phạm Quy
Thích, Nguyễn Du, Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định
[63]
. Nội
dung tiêu biểu cho thời kỳ này là nói về niềm tiếc nhớ Lê triều cũ
và một lãnh thổ văn chương Việt Nam mới hình thành ở phương
Nam.
Thời nhà Nguyễn độc lập
Thời kỳ này là thời của các nhà thơ thuộc đủ mọi xuất thân trong
đó có các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và các thành viên hoàng tộc như Tùng Thiện Vương Nguyễn
Phúc Miên Thẩm. Các nho sĩ thì gồm có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Trương Quốc Dụng, Phan
Thanh Giản, Phạm Phú Thứ
[64]
. Hai thể kiểu thơ chủ yếu của thời kỳ này là thơ ngự chế của các vị vua và các thi tập
của nho sĩ
[64]
.
Thời nhà Nguyễn thuộc Pháp
Thời kỳ này là thời kỳ ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử đương thời tác động rất lớn vào văn chương, các nhà thơ

sáng tác nhiều về cảm tưởng của họ đối với quá trình Pháp chiếm Việt Nam
[65]
. Tác giả tiêu biểu thời kỳ này gồm
Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Nguyễn Thượng Hiền
[66]
.
Thời kỳ nhà Nguyễn, văn học phát triển trong cả Hán văn, lẫn một cách mạnh mẽ ở chữ Nôm với nhiều thành tựu
lớn, trong đó tác phẩm chữ nôm tiêu biểu nhất là Truyện Kiều và Hoa Tiên. Hai thể theo được dùng phổ biết ở thời
kỳ này là lục bát và lục bát gián cách, sử dụng một thứ tiếng Việt mới có một trình độ rất cao
[67]
. Ở miền Nam Việt
Nam, thành hình một lãnh thổ văn chương mới với nhiều nét độc đáo riêng so với các vùng cũ
[67]
. Về nội dung,
ngoài các nội dung văn chương mang đậm tư tưởng Nho giáo truyền thống thì số phận con người và phụ nữ cũng
được đề cập đến
[67]
.
Nhà Nguyễn
18
Khoa học, kỹ thuật
Sử học
Phu Văn Lâu, nơi niêm yết những chỉ dụ quan
trọng hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ
chức
Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Sử học là một trong những ngành khoa học
rất phát triển. Sang đầu thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn, ngành này
lại càng phát triển hơn, có thể nói đó là ngành phát triển nhất thời
vương triều Nguyễn. Đặc biệt khi cơ quan phụ trách sử học là Quốc sử
quán ra đời năm 1820 dưới thời vua Minh Mạng với nhiệm vụ thu thập

các bộ sử xưa, in lại Quốc sử thời Lê và biên soạn các bộ sử mới. Quốc
sử quán phải nói là được tổ chức kỷ cương, hoạt động một cách đầy
hiệu quả. Vương triều Nguyễn cũng cho lập các kho tàng lưu trữ các
sáng tác từ cổ chí kim.
Sử học nhà Nguyễn có các thành tựu sau:
• Tìm kiếm, lưu trữ và cho in lại các tác phẩm sử học của các triều đại
trước
[68]
.
• Biên soạn nhiều bộ sử rất lớn và các công trình sử học có giá trị lớn như: Khâm định Việt sử Thông giám Cương
mục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam Thực lục - Tiền biên và chính biên
[68]
, Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ
khẩu phương lược, Bản triều bạn nghịch liệt truyện Các nhà sử học cũng cho ra đời nhiều công trình của cá
nhân như Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng, Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bản, Quốc sử dĩ biên của Phan
Thúc Trực, và nhất là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú
[69]
. Trong đó, Đại Nam thực lục chính
biên có tới 587 quyển.
• Các công trình địa phương chí, và gia phả các dòng họ cũng xuất hiện rất nhiều.
• Việc biên soạn các bộ địa phương chí gần như thành phong trào: từ các tỉnh lớn cho đến tận các huyện xã cũng
có chí. Trong đó có rất nhiều bộ chí được biên soạn khá công phu với nhiều chi tiết quý mà các bộ sử lớn
không có. Tiêu biểu cho địa phương chí là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An ký của Bùi
Dương Lịch
• Thể loại Gia Phả thì có Mạc Thị Gia phả của Vũ Thế Dinh
[68]
.
• Ngoài ra còn có các tác phẩm soạn theo kiểu quy cách nhiều vấn đề khác nhau của lịch sử, nổi bật của thể loại này
là bô Lịch triều Hiến chương loại chí của ông Phan Huy Chú
[70]

.
Năm 1942, Giám đốc Nha lưu trữ Đông Dương Paul Boudet cho biết rằng các tài liệu trước thế kỷ XIX (thời
Nguyễn) chỉ còn lưu lại được khoảng 20 bản bởi ngoài lý do chiến tranh, môi trường còn bởi các triều trước không
đặt các chức quan, cơ quan trông coi công tác lưu trữ, thiếu ý thức bảo tồn di sản quá khứ. Từ triều vua Minh Mạng,
công tác lưu trữ mới được quan tâm. Cũng năm 1942, số lượng địa bạ ở Tàng thư lâu giữ được có tới 12.000
quyển.
[71]
Địa lý và Địa lý Lịch sử
Thời Nguyễn cũng là thời có nhiều tác phẩm địa lý học lớn như bộ Hoàng Việt Nhất thống dư địa chí do Thượng thư
Lê Quang Định soạn theo lời của vua Gia Long. Sau đó cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn cũng soạn tiếp nhiều
công trình khác khác gồm Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại Nam nhất thống chí. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm có
giá trị cao khác ngoài Quốc sử quán như Bắc Thành địa dư chí và Hoàng Việt dư điạ chí của Phan Huy Chú; Phương
Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu
[70]
; Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo và Gia Định thành thông chí của
Trịnh Hoài Đức; Nam Hà tiệp lục của Quốc sử quán,
[69]
Ngoài ra thời Minh Mạng cũng xuất hiện rất nhiều bản đồ
về các địa phương của nước Đại Nam thời kỳ đó.
Nhìn chung, theo nhận xét của Dương Quảng Hàm thì tuy có nhiều giá trị nhưng do vẫn còn thiếu một phương pháp
nghiên cứu khoa học tốt nên các tác phẩm về sử học và địa lý thời kỳ này vẫn có nhiều khuyết điểm
[72]
. Dù vậy, các
triều đại trước cũng không khá hơn nhà Nguyễn trong việc này.
Nhà Nguyễn
19
Kỹ thuật công nghệ
Từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt trước, kỹ thuật công nghệ của phương Tây đã được các vua chúa đem vào Việt
Nam rất nhiều đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Thời nhà Nguyễn vẫn kế thừa những thứ đã du nhập ấy, nhiều công
trình được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của phương Tây như thành Bát Quái, kinh thành Huế, thành Hà

Nội Thời Gia Long đã từng cho đóng một loại thuyền lớn bọc đồng để tuần tra biển
[73]
.
Sang đến thời Minh Mạng, nhiều máy móc mang tính mới mẻ đã được chế tạo gồm: máy cưa chạy bằng sức trâu và
sức nước, máy xẻ gỗ chạy bằng sức trâu
[74]
. Cụ thể là, năm 1834, Nguyễn Viết Tuý dưới sự đồng ý của vua Minh
Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc súng bằng sức nước mang tên Thuỷ hoả kí tế. Sau đó những năm
1837-38, theo mẫu của phương Tây, thợ thủ công Nhà nước đã chế tạo được máy cưa văn gỗ, xẻ gỗ bằng sức nước,
máy hút nước tưới ruộng, và còn có cả xe cứu hoả. Đặc biệt là năm 1839, dựa theo các kiểu phương Tây, các đốc
công Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trịnh cùng các thợ của ông đã đóng thành công chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên,
được vua Minh Mạng hết sức khen ngợi. Năm sau, Minh Mạng lại chỉ đạo cho họ đóng một chiếc kiểu mới tân tiến
hơn và sửa chữa một chiếc bị hỏng. Điểu đáng tiếc là sau đó mọi việc dường như bị đình lại.
[40]
Thời Tự Đức, nhiều
sách kỹ thuật phương Tây được dịch sang tiếng Hán như Bác Vật tân biên, Khai Môi yếu pháp, Hàng hải Kim
châm
[74]
. Nhưng một điều đáng tiếc là những tiến bộ này vẫn chưa kịp tác động vào quá trình phát triển của xã hội
Việt Nam
[74]
. Đến giữa thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia với nền sản xuất nông nghiệp chậm tiến so với
thế giới phương Tây.
Kiến trúc
Nghệ thuật ghép sành sứ tại lăng Khải Định
Kinh thành Huế nằm ở bờ Bắc sông Hương với tổng diện tích hơn
500 ha và 3 vòng thành bảo vệ. Kinh thành do vua Gia Long bắt
đầu cho xây dựng năm 1805 và được Minh Mạng tiếp tục hoàn
thành năm 1832 theo kiến trúc của phương Tây kết hợp kiến trúc
thành quách phương Đông. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành

hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng
lớn nhỏ.
[75]
Kiến trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến
trúc truyền thống thời Lý, Trần, Lê đồng thời tiếp thu tinh hoa của
Mỹ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa. Huế cũng đã
được hiện đại hóa bởi những công trình sư người Pháp phục vụ
dưới thời vua Gia Long. Khi xây dựng hệ thống thành quách và
cung điện, các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo của nhà vua đã bố trí trục chính của công trình theo hướng Tây Bắc-
Đông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng trong bố cục mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ
phương.
[76]
Các phong trào chống triều đình
Nhà Nguyễn cũng là triều đại chứng kiến các cuộc nổi dậy của nông dân cũng như các tầng lớp khác bùng nổ dữ đội,
nhất là ở Bắc Hà. Các nhà sử học tính rằng số lượng các cuộc nổi dậy nửa đầu thế kỷ XIX còn nhiều hơn thế kỷ
XVIII. Từ năm 1802 cho tới năm 1862, tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra.
[77]
Trong
số đó có 50 cuộc diễn ra dưới thời Gia Long từ 1802-1820, 254 cuộc dưới thời Minh Mạng (1820-1840), 58 cuộc
dưới thời Thiệu Trị (1840-1847) và 40 cuộc nổi dậy dưới thời Tự Đức (1847-1862). Dù vậy, trong số này cũng đã
tính luôn cả các vụ nổi dậy liên quan tới vấn đề Công giáo, các phong trào phù Lê diệt Nguyễn của dân Bắc Hà, các
toán cướp nổi lên hùng cứ địa phương, các toán tàn quân Thái Bình Thiên Quốc vượt biên vào cướp và cả những vụ
bạo loạn như của Lê Duy Phụng do thực dân Pháp kích động để rảnh tay xâm chiếm Việt Nam.
Những cuộc nổi dậy ở Bắc Hà dưới thời vua Minh Mạng suốt Trung, Nam, Bắc, kể từ năm 1822 theo sử gia Phạm
Văn Sơn đã do nhiều nguyên nhân
[78]
:
Nhà Nguyễn
20
A) Về phía ngoại bang, nước Tiêm La vẫn giữ thái độ hằn học về vấn đề Chân Lạp nên ngoài mặt tuy êm dịu

nhưng bên trong Tiêm La vẫn tìm cơ hội để quấy rối Việt Nam.
B) Ngoài Bắc, một phần nhân tâm còn luyến tiếc Lê triều, vẫn chờ dịp nổi lên chống lại nhà Nguyễn và để
khôi phục lại dòng họ Lê.
C) Bọn quan lại hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tâng công, nịnh hót mà nhà vua lại thường
không minh, nhất là đối với kẻ công thần. Nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh
nẩy nở mỗi ngày một nhiều, nước tất nhiên phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám nhòm ngó vào.
Tại Bắc Hà
Một số cuộc nổi dậy lớn là cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở Nam Định (1821-27), Lê Duy Lương ở Ninh Bình
(1833-1834), Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (1833-35) và của Cao Bá Quát (1854-56) ở Hà Nội, đặc biệt là phong
trào bạo loạn do Lê Duy Phụng dẫn đầu (1861-1865) trên khắp lãnh thổ Bắc Kỳ. Ngoài ra vụ nổi dậy của Lê Duy
Lương năm 1832 ở Ninh Bình, là con cháu nhà Lê khiến vua Minh Mạng phải yêu cầu Tổng Đốc Nghệ Tĩnh là Tạ
Quang Cự cùng với Tổng Đốc Thanh Hóa là Nguyễn Văn Trọng đem quân ra Ninh Bình bắt được Lê Duy Lương
giải về Kinh trị tội và tất cả con cháu Lê bị lưu đày ở Quảng Nam, Bình Định. Chính sách "Phù Lê" của nhà Nguyễn
đă chấm dứt.
Khi vua Tự Đức lên ngôi đã cử những danh thần của triều đình làm quan Kinh Lược Đại Sứ để đi kiểm tra, khám
xét công việc ở các nơi trong cả nước. Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ, Phan Thanh Giản coi ba tỉnh Nam Trung
Việt, Nguyễn Đăng Giai kiểm soát ba tỉnh phía Bắc miền Trung. Nhưng từ năm 1851 nhiều cuộc nổi dậy diễn ra ở
nhiều nơi, nhất là ở Bắc Kỳ bởi lòng dân ở đây còn tưởng nhớ đến nhà Lê, phá chính quyền triều Nguyễn. Có vài vụ
nổi dậy mà người lãnh đạo tự xưng mình thuộc dòng dõi nhà Lê như quân của Lê Duy Phụng, lôi cuốn được khá
nhiều người tham gia. Ngoài ra triều đình còn phải lo đối phó dư đảng Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn tổ
chức chống lại nhà Thanh bị bại tràn sang Việt Nam. Tàn quân Thái Bình Thiên Quốc cướp phá các vùng thượng du
khiến quân đội nhà Nguyễn phải đi đánh dẹp rất phiền phức.
[79]
Ngoài mục đích chính trị thì một phần cũng do dân chúng phải chịu nhiều thiên tai như lụt lội liên miên. Đê Văn
Giang vỡ liên tiếp 18 năm lại thuộc tỉnh Hưng Yên là nơi đông dân nhất Bắc Hà nên làm phát sinh rối loạn. Thời kỳ
này còn có quân Tam Đường do ba lãnh tụ: Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường nổi lên tại
Thái Nguyên được quan Kinh Lược Nguyễn Đăng Giai đến phủ dụ nên đất Bắc được yên ổn. Khi Nguyễn Đăng Giai
qua đời (1854), Bắc Kỳ lại mất an ninh, trật tự như cũ.
Khác với các cuộc nổi dậy khác, cuộc nổi dậy của nhóm Lê Duy Cự và Cao Bá Quát không cướp của giết người như
những vụ loạn khác mà do sự bất mãn với triều đình. Mục tiêu của họ là lật đổ chính quyền nhà Nguyễn. Bởi cuộc

khởi nghĩa của Lê Duy Cự bùng ra cuối năm ấy mà khoảng tháng 5 có châu chấu phá hoại mùa màng dữ dội nên
người ta gọi vụ này là "giặc châu chấu".
[80]
Những cuộc nổi dậy này nhiều lúc dân nghèo đã phối hợp với quân lưu manh, đạo tặc để chống đối nên tuy làm cho
Triều đình khốn đốn nhưng vì không có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, không có hiệu lệnh thống nhất, trước
sau đều thất bại.
[81]
Ngoài các cuộc nổi dậy của nông dân ở Bắc Kỳ còn có cả những bọn hung đồ nhân cơ hội Triều đình suy yếu, nổi
lên tứ tung để cướp phá và lợi dụng dân lưu vong để rủ họ theo. Ngoài ra cũng có cũng có những người bị quân Pháp
mua chuộc để quấy rối triều Nguyễn cho họ dễ hành động. Chưa kể còn có quân giặc người Tàu hoành hành ở miền
thượng du Bắc Kỳ. Những cuộc biến động này khiến Triều đình phải dụng binh rất lâu, hao tổn binh lực và tài lực rất
nhiều.
[81]
Năm 1861, với chính sách của Triều đình Huế gia giảm các chương trình phúc lợi, giải tán các cộng đồng Công giáo,
gia tăng kiểm soát mua bán lương thực, tăng thuế, cộng với nạn giặc cướp Khách đánh phá mạn ngược và bọn cướp
biển Tàu Ô đánh cướp các làng ven biển, khiến tình hình miền bắc càng trở nên nguy hiểm, có thể bùng nổ bất kỳ lúc
nào. Các thành phần bị ảnh hưởng nặng nề nhất, dễ nổi lên đối kháng nhất là những nông dân bị nạn lũ lụt, các tộc
người thiểu số nghèo khổ và các cộng đồng Công giáo bị ngược đãi.
[82]
Đây là những nhân tố khiến cho cuộc nổi dậy
Nhà Nguyễn
21
do Lê Duy Phụng cầm đầu đặc biệt nguy hiểm, khiến triều đình Huế phải hết sức vất vả mới đánh dẹp được.
Tại Nam Hà
Tại Nam Hà ít xảy ra các cuộc nổi dậy chống triều đình hơn. Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi là một cuộc nổi dậy xảy ra
vào thời vua Minh Mạng ở các tỉnh miền Nam Việt Nam. Lãnh đạo của cuộc nổi dậy này là Lê Văn Khôi nhóm họp
những phần tử về phái địa phương phân quyền của Lê Văn Duyệt và những tù nhân Bắc Kỳ bị đi đày để nổi dậy
[83]
.
Được võ quan, binh lính và dân chúng Phiên An vốn cảm tình với Lê Văn Duyệt đi theo rất đông

[83]
nên quân nổi
dậy từng đánh chiếm được 6 tỉnh phía Nam nhưng sau đó triều đình đã nhanh chóng thu phục các tỉnh này, dồn quân
nổi dậy vào cố thủ ở thành Phiên An năm 1835 khi thành Phiên An thất thủ.
Ngoài ra, tại Nam Hà, chính sách không phù hợp của nhà Nguyễn với người thiểu số, đặc biệt là người Khmer và
chính sách đối ngoại với vương quốc Chân Lạp cũng gây bất mãn trong cộng đồng người Khmer, dẫn đến nhiều cuộc
nổi dậy chống lại triều đình, như các cuộc nổi dậy Lâm Sâm, Ba Xuyên, Thất Sơn, Hà Tiên.
Thời kỳ bị Pháp xâm lăng và đô hộ
Chiến hạm Pháp tấn công Gia Định năm 1859
Do những việc cấm đạo và tàn sát giáo dân của vua Minh Mạng
mà ngay trong năm 1838 đã có sĩ quan Hải quân Fourichon đề
nghị nước Pháp gửi Hải quân tới can thiệp nhưng bị Ngoại trưởng
Pháp là Guizot bác bỏ.
[84]
Dư luận Pháp thì sôi động vì sự ngược
đãi giáo dân của Minh Mạng nên ủng hộ đề nghị dùng vũ lực.
[85]
Khi Thiệu Trị nối ngôi có thái độ mềm mỏng hơn, cho thả một số
linh mục bị bắt và tỏ ý sẽ cho tàu sang Châu Âu mua bán nhưng sự
kiện đụng độ tại Đà Nẵng năm 1847 giữa tàu Pháp và Việt khiến
nhà vua tức giận và ông ra lệnh xử tử ngay tại chỗ tất cả người Âu
bắt được tại Việt Nam.
Khi Tự Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn cai trị tuân theo phong cách Nho giáo
[86]
. Triều đình không có một biện
pháp nào đối phó với phương Tây, ngược lại chỉ cấm đạo và cấm mua bán quyết liệt hơn trước
[87]

[86]
. Nhân vụ An

Phong Công Hồng Bảo mưu phản, tìm cách liên hệ với các giáo sĩ để soán ngôi mà nhà vua cho công bố 2 đạo dụ
cấm đoán Công giáo các năm 1848 và 1851, từ 1848-1860, đã có hàng vạn giáo dân bị tàn sát hay lưu đày.
[87]
. Cũng
đồng thời lúc này, trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách: liên tiếp các năm 1864,
1866, 1868, 1867, 1881 các quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn
Hiệp, Lê Định liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng mà vua không quyết dưới sự bàn
ra của các đình thần
[88]
. Mãi đến năm 1878, triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên trong quá
trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng đình thần vẫn bất đồng và nảy sinh hai phe chủ trương cải cách và
bảo thủ, rồi đến khi nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa
[89]
.
Về việc cá nhân, vua Tự Đức không có con nên ông truyền ngôi lại cho một người con của anh mình là vương tử
Nguyễn Phúc Ưng Chân
[90]
. Việc nối ngôi này liên tiếp gặp nhiều rối ren: Nguyễn Phúc Ưng Chân lên làm vua hiệu
là Dục Đức được ba ngày thì bị phế bỏ rồi giết chết; một người con khác của vua Thiệu Trị là Nguyễn Phúc Hồng
Dật lên nối ngôi tiếp với hiệu Hiệp Hòa tiếp cũng bị ép uống thuốc độc sau năm tháng, vị vua kế là Kiến Phúc cũng
đột ngột qua đời (ghi là bệnh, nhưng nghi là bị đầu độc)
[91]
. Việc lập phế liên tiếp này chỉ kết thúc khi vua Hàm
Nghi lên ngôi năm 1884
[92]
.
Nhà Nguyễn
22
Người Pháp vào Nam Kỳ
Hải quân Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858

Năm 1857, Hoàng đế Pháp Napoléon III đã thành lập Ủy hội Nghiên
cứu vấn đề Nam Kỳ (Commission de la Cochinchine) gồm nhiều nhân
vật thông thạo vùng Viễn Đông và Ủy hội này đã bày tỏ ý kiến nước
Pháp phải chiếm cứ ba thương cảng Sài Gòn, Đà Nẵng, Kẻ Chợ để có
lợi cho Pháp trên cả 3 phương diện tinh thần, chính trị và thương mại.
Hoàng đế Napoléon III đã tán thành ý kiến của Ủy hội.
Đầu năm 1858, Đô đốc Charles Rigault de Genouilly tiến quân để đánh
chiếm Đà Nẵng để buộc triều Nguyễn phải chấp nhận cho các nhà
truyền đạo Pháp độc quyền giảng đạo tại Việt Nam. Người Pháp tin là mục tiêu sẽ đạt được khi Đà Nẵng thất thủ,
sau đó thì tùy vị Đô đốc toàn quyền quyết định các quan hệ với nhà Nguyễn. Chính sách của Pháp lúc này chỉ dừng
lại ở việc chiếm 1 căn cứ dành cho việc thương lượng.
Dù cho các giáo sĩ khẳng định là người Pháp sẽ được giáo dân nổi dậy ủng hộ nhưng trên thực tế họ chỉ nhận được sự
lạnh lùng. Đô đốc Rigault de Genouilly thấy triều đình không muốn thương nghị mà lại chuẩn bị kháng cự, quân
Pháp lại nhiễm dịch tả cũng như sốt rét rất nhiều nên ông quyết định gởi báo cáo về Paris và thay đổi mục tiêu xuống
phía Nam. Ngày 18-2-1859, Đô đốc Rigault de Genouilly chiếm được Sài Gòn.
[93]
Năm 1860, xung đột với nhà
Thanh khiến 2 chính phủ Anh và Pháp phải quyết định cử lực lượng viễn chinh sang Trung Hoa, kể cả nhóm quân
Pháp tại Nam Kỳ, chỉ còn 1 số rất ít quân Pháp và Tây Ban Nha ở lại chống cự các cuộc tấn công của Nguyễn Tri
Phương.
Bộ trưởng Hải quân Pháp Prosper de
Chasseloup-Laubat
Chính phủ Pháp khi đó muốn rút quân khỏi Nam Kỳ nhưng Đô đốc Rigault de
Genouilly để quyền chỉ huy lại cho tướng François Page và trở về Paris, cố gắng
biện hộ cho sự chiếm đóng tại Gia Định. Bộ trưởng Hải quân Pháp là ông
Chasseloup-Laubat cũng tán thành ý kiến của Rigault de Genouilly. Do đó mà
sau khi Hòa ước Bắc Kinh với Trung Hoa được ký, đô đốc Léonard Charner
(mới thay François Page) đem 1 hạm đội gồm 70 chiến hạm và 3.500 người tới
Nam Việt Nam.
[93]

Tháng 2 năm 1861, quân Pháp chiếm Đại đồn Kỳ Hòa, Mỹ Tho thất thủ trong
tháng 4. Trong suốt năm 1861, Đô đốc Charner tiếp tục mở rộng việc chiếm
đóng quanh Gia Định và Mỹ Tho cũng như bắt đầu xây dựng bộ máy hành
chính để quản lý khu vực chiếm đóng.
Khi Đại đồn thất thủ, triều đình lập tức cho ông Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai
Đại thần thay Nguyễn Tri Phương. Bá Nghi thấy thế không chống đỡ nổi với
quân Pháp nên gởi tấu về xin giảng hòa. Trong lúc này, Thiếu tướng
Louis-Adolphe Bonard thay thế Charner vẫn tiếp tục cho quân Pháp chiếm thêm
Biên Hòa và Bà Rịa tháng 12/1861, Vĩnh Long tháng 3 năm 1862. Triều đình
phải cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tới giảng hòa và miễn cưỡng chịu ký hiệp ước nhường 3 tỉnh miền
Đông với đảo Côn Lôn cho quân Pháp và phải bồi thường chiến phí 4.000.000 đồng bạc (tương đương 20.000.000
franc) trong 10 năm cùng việc mở cửa thông thương ở Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên.
[94]
Nhà Nguyễn
23
Chân dung vua Tự Đức, vị vua thứ
tư của triều Nguyễn
Đất Gia Định là vùng khai nghiệp và cũng là nơi cung cấp lương thực của triều
Nguyễn nên vua Tự Đức vẫn cố gắng điều đình chuộc lại. Ông bèn sai Phan
Thanh Giản làm Chánh sứ cùng các ông Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản sang
Pháp thương nghị.
Tại Pháp lúc này, ngoại trừ những người có quan hệ với Hội Ngoại quốc truyền
giáo và các công ty làm ăn ở Á Đông, không mấy ai quan tâm tới xứ Nam Kỳ, kể
cả Hoàng đế Napoléon III. Tuy nhiên, do sự nỗ lực vận động của Bộ trưởng Hải
quân Pháp là ông Chasseloup-Laubat mà sau đó, Thiếu tướng De la Grandière trở
thành Thống soái Pháp tại Nam Kỳ và ông này cự tuyệt mọi lời đề nghị chuộc đất
của nhà Nguyễn.
Khi người Pháp chiếm được đất Gia Định, sự kháng cự được tổ chức mau chóng
bởi các quan lại trung thành với triều đình với các lãnh tụ như Trương Công Định,
Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt đã khiến người Pháp gặp phải nhiều sự khó

khăn. Cuối năm 1861, Nguyễn Trung Trực trong trận Nhật Tảo đã đốt cháy chiến hạm Espérance, các đồn nhỏ cũng
bị tấn công. Trong 3 năm rưới, quân Pháp thiệt hại tới 2.000 người.
Tuy nhiên, lúc này phía Pháp lại được triều đình Huế chấp nhận thương thuyết do kinh thành đang thiếu lương thực
trầm trọng bởi thóc gạo ở Nam Kỳ bị phong tỏa và cuộc nổi dậy của Lê Duy Phụng nổ ra khắp các tỉnh Đông Bắc
Kỳ. Do đó mà Hòa ước Nhâm Tuất được ký ngày 5 tháng 6/1862 tại Sài Gòn và vì nhiều lý do mà Hòa ước này đã bị
phản đối quyết liệt ở cả Pháp lẫn Việt Nam
[95]
Hình chụp Đại thần Phan Thanh Giản
năm 1863 tại Paris
Vua Tự Đức hy vọng bằng thiện chí của mình sẽ có thể đi tới sửa đổi các điều
khoản của Hòa ước và chỉ 5 tháng sau đó, triều đình bắt đầu yêu cầu sửa đổi
nhưng sau khi các cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ do họ ngầm tổ chức bị Pháp dập
tắt cũng như quân nổi loạn của Lê Duy Phụng hoành hành dữ dội trên đất Bắc
thì các yêu cầu này đành phải bỏ. Dù ông Phan Thanh Giản ra sức giao hảo
thân thiện với phía Pháp nhưng Thiếu tướng De la Grandière viện cớ các tỉnh
miền Tây có liên hệ với các tổ chức chống Pháp ở miền Đông nên tháng
7/1867 quân Pháp vẫn tập kết ở Mỹ Tho định tấn công 3 tỉnh Vĩnh Long, An
Giang và Hà Tiên. Biết không chống nổi, Phan Thanh Giản khuyên các quan
ở 3 tỉnh nên đầu hàng còn ông viết sớ về triều tạ tội, di chúc cho con cháu
quyết không được nhận quan chức gì của Pháp ở Nam Kỳ rồi nhịn ăn mà từ
trần ngày 5 tháng 7/1867. Không cần có Hiệp ước mới, Lục tỉnh Nam Kỳ đã
biến thành thuộc địa của nước Pháp.
[96]
Nhà Nguyễn
24
Người Pháp vào Bắc Kỳ
Đại tá Francis Garnier trên con tem năm
1943 của Liên bang Đông Dương
Ngay khi mới kiểm soát được Nam Kỳ, Trung tá Ernest Doudart de Lagrée
cùng Đại úy Francis Garnier đã tiến hành thám hiểm ngược sông Mekong lên

Vân Nam thuộc lãnh thổ của nhà Thanh và họ rút ra kết luận rằng không thể
dùng con sông này để vận chuyển hàng hóa sang Trung Hoa được.
Thương gia người Pháp Jean Dupuis (Đồ
Phổ Nghĩa) trong trang phục kiểu Trung
Hoa
Năm 1868, Đại úy Garnier gặp 1 thương nhân Pháp là Jean Dupuis tại Hán
Khẩu. Dupuis được Garnier cho biết rằng theo sông Hồng ở Bắc Kỳ có thể tới
được Vân Nam khá thuận lợi nên đã tổ chức 1 đoàn thuyền và tự tiện lên Hà
Nội, thuê thuyền nhỏ dỡ hàng hóa để thông thương sang Vân Nam (năm
1872). Khi trở về, bởi có lệnh cấm từ trước nên Jean Dupuis bị các quan địa
phương ngăn cản, Dupuis cho rằng có lệnh của các quan Trung Hoa là đủ.
Nguyễn Tri Phương ra Bắc yết thị cấm không cho người Việt và Hoa kiều
giao thiệp với người tây, không cho chở hàng đi Vân Nam và đòi Jean Dupuis
phải rời khỏi Bắc Kỳ. Triều đình yêu cầu phía Pháp bắt Dupuis vì theo Hiệp
ước Nhâm Tuất năm 1862 thì Hà Nội không phải nơi thông thương nhưng
Dupuis kiên quyết ở lại. Triều đình phải cử quan Khâm sai Lê Tuấn cùng
Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn tới Sài Gòn thương nghị. Đô đốc
Marie Jules Dupré yêu cầu Francis Garnier (lúc này đã lên chức Đại tá) ra Bắc để giải quyết vụ Dupuis. Garnier khi
gặp Nguyễn Tri Phương có đề nghị ký 1 bản thương ước mở sông Hồng cho việc thông thương nhưng Nguyễn Tri
Phương từ chối do chưa rõ ý kiến của triều đình Huế.
Chiến hạm Pháp đánh chiếm thành Hà Nội năm 1873
Đại tá Garnier sau đó gửi cho các quan chức Việt Nam 1 bản
tối hậu thư trong đó ông yêu cầu quân nhà Nguyễn phải giải
giáp và cho Jean Dupuis tự do đi lại. Khi không nhận được thư
trả lời đúng hẹn, ngày 20 tháng 11 năm 1873, quân Pháp bắt
đầu tấn công. Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân lính phòng thủ
nhưng chẳng bao lâu thì thành Hà Nội thất thủ, ông bị thương
nặng. Bị quân Pháp bắt, Nguyễn Tri Phương nhịn ăn và qua
đời sau đó. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng tử trận. Sau khi
Hà Nội thất thủ, quân Pháp chia nhau đi lấy các thành Nam

Định, Phủ Lý, Hải Dương và Ninh Bình. Không lâu sau, Đại tá Garnier bị quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc phục
kích ở Cầu Giấy và bị giết ngay tại chỗ.
Triều đình khi nhận được tin lập tức cho 2 Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường đi thương nghị với Đô đốc Marie Jules
Dupré. Đô đốc Pháp không được chính phủ ủng hộ trong vụ Bắc Kỳ nên bằng lòng trả các thành lại cho các quan địa
phương và ký Hòa ước mới. Sau vụ đụng độ ở Bắc Kỳ, quyền tự quyết về Ngoại giao của Việt Nam bị buộc phải
giao cho người Pháp.
Các năm 1876 và 1880, để đối phó với quân Pháp, sứ bộ Việt Nam do Phạm Thận Duật đi đầu đã sang Trung Hoa
cần viện sự giúp đỡ từ nhà Thanh. Triều đình cũng chiêu nạp quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, phong ông này làm
Đề đốc cùng các quan chống cự quân Pháp khiến họ lo ngại.
Nhà Nguyễn
25
Tranh vẽ những chiến sĩ của quân Cờ Đen
năm 1883
Trong khi đó, tình trạng mất an ninh ở Bắc Kỳ bởi các lượng lượng người
Hoa, nhất là quân Cờ Đen khiến chính phủ Pháp phải lựa chọn hoặc là đặt
sự bảo hộ hoàn toàn ở Bắc Kỳ hoặc là phải rút lui. Lựa chọn thứ 2 có thể
làm nước Pháp tổn thất danh dự nặng nề nên ngay từ năm 1879, Thượng
tướng Bernard Jauréguiberry đã yêu cầu gởi thêm 6.000 người sang Bắc Kỳ
áp đặt nền bảo hộ nhưng chính phủ Pháp đã từ chối. Thống đốc Nam Kỳ Le
Myre de Vilers trong năm 1882 đã yêu cầu Đại tá Henry Rivière ra Bắc với
233 binh sĩ để bảo vệ các thương gia Pháp trước quân cướp tống tiền người
Hoa.
[97]
Khi tới Hà Nội ngày 3 tháng 4/1882, Henry Rivière đã có ý chiếm
thành. Le Myre de Vilers đã tỏ ý phản đối việc làm của Rivière nhưng lại
có trách nhiệm phải che chở Henry Rivière.
[98]
Cuối năm 1882, quân Thanh do các tướng Tạ Kính Bưu và Đường Cảnh
Tùng vượt biên giới sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây. Triều Nguyễn khi
đó đã yêu cầu nhà Thanh can thiệp trong khi Đại sứ Pháp ở Bắc Kinh thương thảo với Tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng

Chương về 1 sự phân chia Bắc Kỳ dọc theo sông Hồng giữa 2 nước. Đại tá Rivière sau đó đã cho quân đi đánh chiếm
nhiều nơi như Hòn Gai và Nam Định nhưng sau đó các quan viên triều Nguyễn như Trương Quang Đản, Bùi Ân
Niên, Hoàng Kế Viêm đe doạ kéo quân bao vây người Pháp ở Hà Nội. Trong khi xuất quân phá vây, Rivière bị quân
Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc hạ sát sáng ngày 19-5-1883.
4 ngày trước cái chết của Rivière, Quốc hội Pháp thông qua 1 khoản ngân sách 5.500.000 franc cho phép gởi thêm
quân lực tới xứ Bắc Kỳ.
Hiểu rằng vấn đề Bắc Kỳ chỉ có thể giải quyết ở Huế, bộ chỉ huy Pháp muốn lợi dụngnhững biến loạn xảy ra khi vua
Tự Đức băng hà ngày 17-7-1883, tướng Courbet đem hạm đội đi đánh cửa Thuận An buộc triều đình phải xin hưu
chiến và chấp nhận ký kết Hiệp ước Harmand. Dù vậy, phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường
chỉ coi đây là 1 kế hoãn binh mà thôi.
[99]
Thuyết và Tường đã cổ vũ thành lập những đội nghĩa quân chống Pháp, đắp
đồn xung quanh kinh thành và cho xây dựng căn cứ Tân Sở. Trong khi hàng vạn nhân công đang xây dựng căn cứ
trong miền rừng núi Quảng Trị thì vua Hiệp Hoà chủ trương hoà giải bị cho là nhu nhược và bị ép phải tự tử. Tôn
Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập Kiến Phúc kế vị.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×