Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải chi nhánh Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 68 trang )

2


 Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho
vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản, động sản).
 Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người cho vay khi chuyển giao tài sản cho
người đi vay sử dụng phải dựa trên cơ sở lòng tin và phải tin rằng người đi vay sẽ
trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
 Bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay sau khi hết thời hạn sử
dụng thỏa thuận
 Thông thường giá trị được hoàn trả lớn hơn giá trị lúc cho vay - phần lớn hơn này
là lợi tức.
1.2.2. Phân loại tín dụng
Tùy mục tiêu nghiên cứu, mục tiêu của quản trị mà người ta chia tín dụng ngân hàng
thành các loại khác nhau:
 Xét theo mục đích
Tín dụng ngân hàng gồm:
 Cho vay kinh doanh bất động sản: Gồm các khoản cho vay liên quan đến việc
mua sắm và xây dựng bất động sản nhà cửa, đất đai, bất động sản trong lãnh vực
công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
 Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lãnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
 Cho vay nông nghiệp: Loại vay nhằm hỗ trợ nông dân trong sản xuất như cho vay
để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng,
thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu.
 Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các công
ty tài chính khác.
 Cho vay cá nhân: Là loại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật
dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời


sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Thang Long University Library
3


 Cho thuê: Cho thuê các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê vận hành và
cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó
chủ yếu là máy móc thiết bị.
 Xét theo thời hạn
 Cho vay ngắn hạn: Là loại vay có thời hạn đến 12 tháng.
 Cho vay trung hạn: Là loại vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm
 Cho vay dài hạn: Là loại vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên
đến 20-30 năm tùy thuộc vào dự án và giấy phép đầu tư. Một số trường hợp cá
biệt có thể lên tới 40 năm.
 Xét theo tài sản đảm bảo
 Cho vay không tài sản đảm bảo: Là loại vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, việc cấp tín dụng chủ yếu dựa vào mức độ tín
nhiệm và uy tín của khách hàng, năng lực tài chính của khách hàng, phương án
vay hiệu quả và khả thi.
 Cho vay có tài sản đảm bảo: Là loại vay dựa trên cơ sở các tài sản đảm bảo như
thế chấp, cầm cố bằng tài sản của khách hàng, hoặc phải có sự bảo lãnh cầm cố,
thế chấp bằng tài sản của người thứ ba, hay cho vay bằng tài sản hình thành từ
vốn vay.
 Xét theo phương thức hoàn trả
 Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn cụ thể trong hợp
đồng.
 Cho vay không thời hạn: Là loại cho vay mà ngân hàng có thể yêu cầu người đi
vay trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý đã thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng.
1.2.3. Vai trò của tín dụng

 Tín dụng là công cụ thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng và góp phần điều tiết
vĩ mô nền kinh tế
Nhu cầu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề quan trọng đối
với mỗi doanh nghiệp. Do đó, hoạt động tín dụng đã góp phần vào quá trình luân chuyển
vốn trong nền kinh tế diễn ra nhanh hơn, giúp cho người cần vốn có thể tìm được vốn
4


nhanh hơn, hiệu quả hơn để có thể duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục và
có thể giúp cho người thừa vốn có thể bảo quản an toàn đồng thời kinh doanh kiếm lời.
Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn hình
thành vốn của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
 Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của tín dụng Ngân
hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Bằng cách tập trung vốn
vào kinh doanh giúp cho các hộ có điều kiện để mở rộng sản xuất, làm cho sản xuất kinh
doanh có hiệu quả hơn, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời Ngân hàng
cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng quan tâm
đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc đẩy
các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho
sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để
sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
 Tín dụng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội
Tín dụng tham gia trực tiếp vào quá trình luân chuyển hàng hóa và luân chuyển tiền
tệ tạo điều kiện phát triển nền kinh tế, đặc biệt những ngành kinh tế trọng điểm trong mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế. Hoạt động tín dụng luôn chịu sự chi phối trực tiếp của chính
sách phát triển kinh tế của chính phủ, vì vậy đã góp phần đẩy nhanh quá trình luân chuyển
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường, hạn chế thấp nhất sự ứ đọng vốn trong sản xuất kinh

doanh, đẩy nhanh vòng quay vốn.
 Tín dụng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Với sự tài trợ tín dụng của các ngân hàng, mỗi doanh nghiệp phải thực hiện một chế
độ hạch toán kinh tế một cách minh bạch và hiệu quả hơn. Khi sử dụng vốn vay ngân
hàng, các doanh nghiệp phải tôn trọng các hợp đồng tín dụng, phải thực hiện thanh toán
lãi và nợ vay đúng hạn, cũng như việc chấp hành các quy định ràng buộc trách nhiệm,
nghĩa vụ khác ghi trong hợp đồng như là vấn đề tài chính.
Thang Long University Library
5


Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn vay của ngân hàng phải quan tâm
đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận của doanh
nghiệp.
 Tín dụng góp phần tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp không chỉ hoạt động
trong phạm vi một quốc gia mà phải mở rộng quan hệ kinh tế ra phạm vi khu vực và thế
giới. Tín dụng ngân hàng là công cụ giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước có đủ năng lực
để tham gia vào thị trường thế giới như tài trợ việc mua bán chịu hàng hóa, mở rộng sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu về quy mô và chất lượng
của thị trường thế giới.
 Tín dụng góp phần thực hiện chính sách xã hội
Trong những năm qua, việc thành lập tín dụng chính sách xã hội được đánh giá là
một giải pháp sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam,
góp phần quan trọng thực hiện các chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra về giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội Tuy
nhiên, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội chưa thực sự ổn định, cơ cấu chưa hợp lý,
chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; chất lượng tín dụng chưa đồng đều. Một vấn đề đáng
lo ngại khác là một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa thực sự vào cuộc, chưa quan tâm
đúng mức tới hoạt động tín dụng chính sách xã hội.

1.3. Tổng quan về rủi ro tín dụng
1.3.1. Khái niệm về rủi ro và rủi ro tín dụng
Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài sản của
ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi
phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Rủi ro tín dụng là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người
cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Luôn là người cho vay phải chịu rủi ro khi chấp
nhận một hợp đồng cho vay tín dụng. Bất kỳ một hợp đồng cho vay nào cũng có rủi ro tín
dụng. Ngoài ra, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng. Các định nghĩa khá
đa dạng, có thể rút ra các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
 Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp
đồng, bao gồm lỗ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn hoặc không thanh toán.
6


 Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm
giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ,
hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
 Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng thiếu đa dạng
trong kinh doanh các dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, vì
vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là duy
nhất, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp sẽ
quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với
nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao, thì rủi ro tiềm ẩn càng
lớn). Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ hoàn toàn
được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác hại do chúng gây ra.
1.3.2. Đặc điểm rủi ro tín dụng
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm của rủi
ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm cơ bản sau:

 Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển
giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng
gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; hay nói cách khác
những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu
gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng.
 Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa
dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng do đặc
trưng ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Do đó khi phòng ngừa
và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên
nhân bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp phòng ngừa
phù hợp.
 Rủi ro tín dụng có tính tất yếu: tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại: Tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân
hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ,
điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng.
Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được
lợi nhuận tương ứng
Thang Long University Library
7


1.3.3. Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại RRTD, việc phân loại RRTD tùy thuộc vào mục đích
nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc phân loại RRTD có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách, quy trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức
quản trị và điều hành nhằm bảo đảm nhận biết đầy đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt
trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận, giữa các khâu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp
thẩm định, cấp tín dụng, giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không
bình thường. Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể, sẽ giúp
cho quá trình quản lý RRTD có hiệu quả.

 Căn cứ vào nguyên nhân
 Rủi ro đạo đức là rủi ro do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch
diễn ra.
 Rủi ro do sự lựa chọn đối nghịch là do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi
cuộc giao dịch diễn ra.
 Căn cứ vào mức độ tổn thất
 Rủi ro đọng vốn là rủi ro xảy ra trong trường hợp đến thời hạn mà ngân hàng vẫn
chưa thu hồi vốn vay, dẫn đến các khoản vốn bị đông cứng, kém lỏng và ảnh
hưởng đến ngân hàng trên hai phương diện:
 Gặp khó khăn trong việc thanh toán cho khách hàng.
 Ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng.
 Rủi ro mất vốn là rủi ro khi người vay không có khả năng trả được nợ theo hợp
đồng, bao gồm vốn gốc hoặc lãi vay, ngân hàng chỉ trông chờ vào giá trị thanh lý
tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro mất vốn sẽ làm:
 Tăng chi phí do nợ khó đòi tăng, chi phí quản lý, chi phí giám sát cũng tăng
 Giảm lợi nhuận do các khoản dự phòng gia tăng cho những khoản vốn mất đi.
 Căn cứ theo đối tượng sử dụng
 Rủi ro khách hàng cá thể: RRTD xảy ra đối với đối tượng khách hàng là cá nhân,
 Rủi ro công ty, tổ chức kinh tế, định chế tài chính: RRTD xảy ra đối với khách
hàng là công ty, tổ chức kinh tế, định chế tài chính,
8


 Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: RRTD xảy ra đối với từng quốc gia, đối với
hoạt động vay nợ, viện trợ.
 Căn cứ vào tính tổng thể
 Rủi ro giao dịch: là một rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do hạn chế trong quá
trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao
gồm: rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
 Rủi ro danh mục: là rủi ro mà phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh

mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành rủi ro nội tại và rủi ro tập
trung.
 Căn cứ vào giai đoạn phát sinh
 Rủi ro trước khi cho vay: rủi ro xảy ra khi ngân hàng phân tích, đánh giá sai về
khách hàng dẫn đến cho vay các khách hàng không đủ điều kiện đảm bảo khả
năng trả nợ trong tương lai.
 Rủi ro trong khi cho vay: Rủi ro này xảy ra trong quy trình cấp tín dụng. Các
nguyên nhân dẫn đến rủi ro này bao gồm:
 Việc giải ngân không đúng tiến độ.
 Không cập nhật thông tin khách hàng thường xuyên.
 Không dự báo được rủi ro tiềm năng.
 Rủi ro sau khi cho vay: Rủi ro này xảy ra khi mà cán bộ tín dụng không nắm
được tình hình sử dụng vốn vay, khả năng tài chính tương lai của khách hàng.
1.3.4. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
 Do khách hàng
 Chậm trễ hoặc gây khó khăn, cản trở đối với các ngân hàng trong quá trình kiểm
tra định kỳ hoặc đột xuất về mục đích vay vốn, sản xuất kinh doanh của khách
hàng;
 Các báo cáo tài chính trình cho ngân hàng mà không có lời giải thích minh bạch;
 Đề nghị gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ nhiều lần vì những lý do không
biết hoặc không có cơ sở thuyết phục;
 Chậm thanh toán lãi, gốc hoặc không thể trả gốc đầy đủ;
Thang Long University Library
9


 Sự giảm bất thường trong số dư tiền gửi tại các ngân hàng, doanh thu không
thường xuyên lưu thông qua tài khoản ngân hàng và thường rút tiền mặt từ tài
khoản ngân hàng;
 Các khoản nợ quá hạn phát sinh do khách hàng không đủ khả năng hoặc không

muốn hoàn lại tiền, hoặc do chậm hơn dự kiến tiêu thụ, thu hồi nợ;
 Tăng số lượng các khoản vay hoặc yêu cầu cho vay vượt trên nhu cầu dự kiến;
 Không đủ điều kiện tài sản thế chấp, sự suy giảm giá trị tài sản thế chấp trong vay
hoặc tài sản đi thuê, bán, trao đổi hoặc biến mất không còn tồn tại;
 Có dấu hiệu cho thấy khách hàng tìm kiếm làm việc tài trợ vốn từ các nguồn
khác, đặc biệt là từ các đối thủ cạnh tranh của các ngân hàng;
 Có những dấu hiệu mà khách hàng mong đợi nguồn thu nhập bất thường khác
hơn là từ các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động được đề xuất trong phương án
vay vốn;
 Có những dấu hiệu của nhiều tài khoản sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư
dài hạn;
 Chấp nhận quỹ giá cao cho tất cả các điều kiện
 Do phương pháp quản lý của khách hàng
Rủi ro xảy ra khi khách hàng có sự thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản
trị hoặc ban điều hành. Hệ thống quản trị và ban điều hành luôn bất đồng về mục đích,
quản trị điều hành độc đoán, hoặc ngược lại quá phân tán, việc lập kế hoạch không đầy
đủ, quản lý có tính gia đình, có tranh chấp trong quá trình quản lý.
 Khoảng cách đáng kể giữa doanh thu thực tế hoặc dòng tiền và mức dự kiến trong
đơn xin vay tiền;
 Thay đổi bất thường trong cấu trúc vốn và tài sản của khách hàng, những thay đổi
trong tỷ lệ thanh khoản;
 Tăng chi phí bất hợp lý như: chi phí quảng cáo, chi phí bán hàng,
 Thường xuyên thay đổi nhân sự chủ chốt trong việc quản lý và hoạt động của
khách hàng;
 Tham gia hợp đồng mua bán với giá trị kinh tế lớn;
 Suy giảm chất lượng sản phẩm và thu hẹp thị phần;
10


 Chậm và thiếu phản ứng linh hoạt của doanh nghiệp trước những thay đổi trong

điều kiện thị trường.
 Do chính sách tín dụng ngân hàng
 Hồ sơ tín dụng không đầy đủ theo yêu cầu của pháp luật và ngân hàng;
 Đánh giá mức độ rủi ro trong phân loại khách hàng không chính xác: nâng cao
năng lực tài chính của khách hàng trong quá trình đánh giá, trốn nợ xấu của khách
hàng, hoặc cho phép khách hàng vay cho mục đích sai trái;
 Tín dụng tăng trưởng quá nhanh, vượt quávkhả năng quản lý cũng như vốn của
ngân hàng;
 Điều kiện nhập nhằng trong các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh vay vốn
hoặc thanh toán tiến độ của từng khoản vay không được xác định rõ ràng;
 Chính sách tín dụng cấp cho khách hàng là quá cứng nhắc hoặc lỏng, tạo cơ hội
cho nhân viên và khách hàng thông đồng;
 Cung cấp tín dụng cho phần lớn các khách hàng không phân khúc khách hàng tối
ưu;
 Có xu hướng cạnh tranh quá mức, chẳng hạn như lãi suất giảm, giá dịch vụ và
chiến lược thực hiện để "giữ chân" khách hàng với các khoản vay mới, thậm chí
có khả năng cho vay có nguy cơ cao để ngăn các khách hàng giao dịch với các
ngân hàng đối thủ cạnh tranh khác.
1.3.5. Tác động của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn trong kinh doanh ngân hàng và đã gây ra những hậu
quả nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia,
thậm chí có thể lan rộng trên phạm vi toàn cầu.
 Đối với ngân hàng bị rủi ro
Do không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các loại phí) làm cho nguồn vốn ngân hàng bị
thất thoát, trong khi ngân hàng vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho
lợi nhuận bị giảm sút, thậm chí nếu trầm trọng hơn thì có thể bị phá sản.
 Đối với hệ thống ngân hàng
Hoạt động của một ngân hàng trong một quốc gia có liên quan đến hệ thống ngân
hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. Do vậy nếu một ngân
Thang Long University Library

11


hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản thì
sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu các ngân hàng và các bộ phận kinh tế
khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của NHNN và Chính phủ thì tâm lý sợ mất tiền
sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các NHTM làm cho
các ngân hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
 Đối với khách hàng của ngân hàng
Khi ngân hàng xảy ra rủi ro tín dụng sẽ làm khách hàng mất lòng tin vào ngân hàng,
ngân hàng mất đi một lượng khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng. Hơn nữa,
sẽ làm mất hình ảnh và uy tín của ngân hàng đối với khách hàng khiến cho khách hàng ồ
ạt đến rút tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng, không mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền
gửi tiết kiệm…tại ngân hàng đó nữa mà chuyển sang ngân hàng khác tốt hơn.
Đối với hoạt động cho vay, khi xảy ra RRTD thì khách hàng vay vốn của ngân hàng
phải chịu lãi suất cao, làm tăng chi phí sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn giảm, lợi
nhuận giảm, doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả dẫn đến khả năng phá sản doanh
nghiệp.
 Đối với nền kinh tế
Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và bơm tiền cho
nền kinh tế. Vì vậy, rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản một ngân hàng sẽ làm cho nền
kinh tế bị rối loạn, hoạt động kinh tế bị mất ổn định và ngưng trệ, mất bình ổn về quan hệ
cung cầu, lạm phát, thất nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng, tình hình an ninh chính trị bất
ổn…
Tín dụng ngân hàng làm ảnh hưởng đến vị thế và hình ảnh của hệ thống ngân hàng
– tài chính quốc gia cũng như toàn bộ nền kinh tế của quốc gia đó.
Như vậy, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng ở các mức độ
khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập dự phòng, không
thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn gốc và lãi vay, nợ
thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài

không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh
tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân
hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro
trong cho vay.
12


1.4. Tổng quan về quản trị rủi ro tín dụng
1.4.1. Khái niệm
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính
sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận, đạt được mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Kiểm soát RRTD ở mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp
phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp NQH, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, nhằm tăng
doanh thu tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt được hiệu quả trong kinh
doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn. “Hiệu quả quản lý RRTD là một bộ phận
quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là vai trò cốt tử cho sự thành
công của ngân hàng trong dài hạn.” (Basel Committee on Banking Supervation, 2000).
Tóm lại, có thể đề cập khái niệm quản trị RRTD ở các góc độ khác nhau nhưng
bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản trị học, chúng ta có thể diễn giải
khái niệm: Quản trị RRTD là quá trình các ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển
khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hóa lợi
nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận.
1.4.2. Sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng trong NHTM
Thứ nhất, do quá trình tự do hóa, nới lỏng quy định trong hoạt động ngân hàng trên
phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa
kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ biến. Khi gia tăng cạnh tranh cũng đồng nghĩa
với rủi ro và phá sản gia tăng. Trong lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch
lãi suất biên ngày càng giảm xuống. Tác động này làm cho các ngân hàng ngày càng có
xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó mở rộng

quy mô tín dụng đồng nghĩa với việc RRTD cũng có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, quy
luật đào thải của cạnh tranh sẽ làm tăng mức độ phá sản của các khách hàng của ngân
hàng kéo theo sự thiệt hại cho ngân hàng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa năng
phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập cạnh tranh gay
gắt, vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới. Trong lĩnh vực tín dụng các sản
phẩm tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản phẩm tín dụng truyền
thống. Các sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở của sự phát triển công nghệ như thẻ tín
dụng, cho vay cá thể…luôn chứa đựng rủi ro mới. Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì
Thang Long University Library
13


việc mở rộng và đa dạng hóa sản phẩm cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng trở nên
cấp thiết hơn, mang ý nghĩa sống còn với các ngân hàng. Với sự đa dạng phức tạp của sản
phẩm tín dụng cũng như RRTD càng đòi hỏi quản trị RRTD phải được chú trọng, nâng
cấp tương xứng.
Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình
chuyển đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế chưa ổn định, hệ thống pháp luật đang
xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động ngân hàng càng trở nên rủi
ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực hiện tốt công tác quản trị RRTD là một công
việc tối quan trọng.
1.4.3. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Sơ đồ 1.1. Quy trình quản trị RRTD

Theo sơ đồ 1.1, mặc dù quy trình quản trị rủi ro được phân thành 4 giai đoạn, nhưng
các khâu trong quy trình này lại luôn có mối liên hệ gắn bó với nhau và tạo thành một chu
trình khép kín để đảm bảo kiểm soát được rủi ro theo mục tiêu đã đề ra. Cụ thể các giai
đoạn như sau:
1.4.3.1. Nhận biết RRTD

Đây là việc làm của bản thân NHTM. Một số quan điểm cho rằng ngân hàng nhìn
nhận từ phía khách hàng vay vốn để nhận biết rủi ro qua các dấu hiệu báo trước. Nhưng
Nhận biết
RRTD
Đo lường
RRTD
Ứng phó
RRTD
Kiểm soát và
xử lý RRTD
14


tác giả không quan niệm như vậy, ngân hàng phải nhìn nhận từ chính mình để thấy nguy
cơ rủi ro có thể xảy ra. Do đó, công việc quản lý RRTD sẽ được xét trên hai góc độ từ
phía ngân hàng và phía khách hàng.
 Về phía ngân hàng
RRTD được thể hiện qua NQH, nợ xấu, và dự phòng rủi ro, do đó, khi các yếu tố
này có xu hướng thiên lệch như: quy mô tín dụng tăng quá nhanh vượt quá khả năng quản
lý của ngân hàng, hay là cơ cấu tín dụng tập trung quá mức vào một ngành, một lĩnh vực
rủi ro hoặc là các chỉ tiêu NQH, nợ xấu có dấu hiệu vượt quá ngưỡng cho phép, dự phòng
rủi ro được sử dụng hết, ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro.
 Về phía khách hàng
Khi khách hàng có những dấu hiệu khó có khả năng trả được nợ, tình hình tài chính
xấu, nguy cơ rủi ro sẽ xảy ra. Lúc đó, ngân hàng cần nhận biết được khả năng xảy ra rủi
ro để ra quyết định kịp thời.
Do đó, để nhận biết rủi ro, những công việc mà ngân hàng cần phải làm:
 Phân tích danh mục tín dụng của ngân hàng: phân tích chung toàn bộ danh mục
của ngân hàng để nhận biết những rủi ro về quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, về
loại tiền. Cần kết hợp với dự báo kinh tế vĩ mô để đánh giá rủi ro chung của toàn

bộ danh mục tín dụng.
 Phân tích đánh giá khách hàng:
 Phân tích đánh giá khách hàng nhằm phát hiện các nguy cơ rủi ro trong từng
khách hàng, từng khoản nợ cụ thể.
 Phân tích đánh giá khách hàng được thực hiện từ khi bắt đầu tiếp xúc khách
hàng, phân tích trong quá trình cho vay và phân tích sau khi cho vay.
 Để có thể phân tích đánh giá khách hàng, cần thu thập thông tin về khách hàng
có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cho vay. Hiện nay, việc khai thác thông
tin về khách hàng thường dựa vào báo cáo tài chính trong những năm gần đây
của khách hàng. Bên cạnh việc thu thập thông tin từ khách hàng, cần thu thập
thông tin về đối tác của khách hàng, từ những ngân hàng mà ngân hàng có
quan hệ từ cơ quan quản lý khách hàng, từ Trung tâm phòng ngừa rủi ro.
Nội dung phân tích khách hàng theo các chỉ tiêu định lượng và định tính để có
những kết luận chính xác về tình trạng của khách hàng.
Thang Long University Library
15


1.4.3.2. Đo lường RRTD
 Đo lường rủi ro khoản vay
EL = PD x LGD x EAD
(Nguồn: Basel II)
Trong đó:
 EL (Expected Loss) là tổn thất dự kiến.
 PD (Probability of default) là xác suất vỡ nợ của khách hàng/ngành hàng đó là
bao nhiêu.
 LGD (Loss Given Default) là tỷ trọng % số dư rủi ro ngân hàng sẽ bị tổn thất khi
khách hàng không trả được nợ.
 EAD (Exposure at Default) là số dư nợ vay (và tương đương) của khách hàng/
ngành hàng khi xảy ra vỡ nợ.

Với PD, LGD và EAD là hai yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu tưởng chừng rất
định tính mà các ngân hàng thường xuyên nhắc đến trong quyết định cấp tín dụng, là khả
năng trả nợ và mong muốn trả nợ của khách hàng đã được lượng hóa cụ thể. Và cũng nhờ
PD, LGD và EAD, hàng trăm, hàng chục các nhân tố có tác động đến khách hàng cũng
như các khoản tín dụng cấp cho họ đã được tóm tắt, phản ánh chỉ qua ba cấu phần rủi ro
đó.
Quan trọng hơn, dựa trên kết quả tính toán PD, LGD và EDA, các ngân hàng sẽ phát
triển các ứng dụng trong quản lý RRTD trên nhiều phương diện, mà các ứng dụng chính
bao gồm: tính toán, đo lường RRTD, đo lường tổn thất.
 Mô hình điểm số Z
Đây là mô hình dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn.
Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay
và phụ thuộc vào:
 Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
 Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
16


X1 = Hệ số vốn lưu động/ tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối/ tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản
X4 = Hệ số giá thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị hạch toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu/ tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z thấp
hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,81 : Khách hàng có khả năng rủi ro cao
1,81 < Z < 3 : Không xác định được

Z > 3 : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81
phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
Mô hình điểm số Z có kỹ thuật đo lường tương đối đơn giản. Tuy nhiên mô hình này
chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro. Trong khi đó,
thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách hàng là khác nhau. Vả lại, yếu tố
thị trường cũng không được xét đến, đặc biệt là khi các điều kiện kinh doanh cũng như
điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục như hiện nay. Và có các nhân tố quan
trọng nhưng cũng không được xét đến như: danh tiếng của khách hàng, mối quan hệ lâu
dài với ngân hàng, …sẽ làm cho mô hình điểm số Z có những hạn chế nhất định.
 Đo lường rủi ro danh mục
Rủi ro danh mục được đánh giá qua các mô hình Value at Risk (Var), mô hình
Return at Risk ON Capital (RAROC), mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ theo Basel II.
Mô hình Var
Var của một danh mục tài sản được định nghĩa là khoản lỗ tối đa trong một thời gian
nhất định. Mô hình Var đánh giá mức độ rủi ro của danh mục theo 2 tiêu chuẩn: giá trị
danh mục đầu tư và khả năng chịu đựng rủi ro của nhà đầu tư.
Việc xác định Var được tiến hành theo các bước sau:
 Đánh giá giá trị các tài sản rủi ro của ngân hàng căn cứ vào việc phân tích xem
những tài sản nào chịu ảnh hưởng của RRTD;
 Phân tích mức biến động giá trị của các tài sản rủi ro;
Thang Long University Library
17


 Lựa chọn kỳ đánh giá;
 Lựa chọn độ tin cậy cho trước.
Mô hình RAROC
Mô hình RAROC thực chất là một phương pháp định lượng, đo lường mức độ sinh
lời có tính đến yếu tố rủi ro. RAROC tính toán mức độ biến động của thu nhập ròng (lợi

nhuận) gây ra bởi sự biến động về tổn thất trong tín dụng.
Quan niệm trung tâm về rủi ro theo RAROC là mức độ tổn thất, bao gồm hai bộ
phận là tổn thất dự kiến (EL) và tổn thất ngoài dự kiến (UL). Do EL đã được đưa vào khi
xác định giá (lãi suất) nên thực chất, EL có thể không coi là rủi ro (vì đã đoán được). Còn
UL mới thực chất là rủi ro và ngân hàng cần phải chuẩn bị vốn để bù đắp rủi ro này nếu
xảy ra.
Mô hình RAROC được tính toán dựa vào một số khái niệm cơ bản sau:
RAROC
=
Thu nhập ròng - Tổn thất rủi ro dự kiến
Vốn kinh tế
(Nguồn: Basel II)
Trong đó:
Thu nhập bao gồm: thu từ tài chính (thu từ chênh lệch lãi suất và các khoản phí thu trước
và các khoản phí thu định kỳ), thu từ hoạt động kinh doanh.
Tổn thất bao gồm:
Tổn thất
dự kiến
=
Xác suất xảy ra rủi ro qua xếp hạng * Giá trị

Dư nợ khi xảy ra rủi ro *


Tổn thất ngoài dự kiến = độ lệch chuẩn trong phân bổ tổn thất.
Đo lường tổng thể rủi ro tín dụng của ngân hàng
Đo lường rủi ro tín dụng còn được đánh giá qua việc tính toán quy mô dư nợ, cơ cấu
dư nợ, tỷ lệ NQH, nợ xấu, hệ số RRTD, dự phòng rủi ro.
Ý nghĩa của việc đo lường rủi ro tín dụng:
 Loại bỏ những khách hàng có mức độ rủi ro quá cao và nhận biết trước những rủi

ro có thể xảy ra.
Giá trị tổn thất trong trường
hợp rủi ro (tính thông qua tỷ
lệ thu hồi)
18


 Giúp khách hàng hiểu rõ hơn những điểm mạnh, điểm yếu của chính khách hàng
để từ đó tư vấn cho khách hàng những biện pháp đảm bảo vay vốn phù hợp.
 Tiến hành phân tích một cách khách quan theo quy định ngân hàng, bảo đảm
khách hàng có thể trả nợ, mong muốn trả nợ.
 Ngân hàng có thể đưa ra nhiều sản phẩm hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
1.4.3.3. Ứng phó RRTD
 Các công cụ quản trị RRTD
Mức ủy quyền phán quyết là hạn mức tín dụng tối đa mà hội sở chính giao cho chi
nhánh được toàn quyền quyết định.
Giới hạn rủi ro là mức rủi ro tối đa mà ngân hàng có thể chịu đựng được để đảm bảo
đạt được mức lợi nhuận tương ứng.
Quản lý danh mục cho vay: Ngân hàng phải thường xuyên phân tích và theo dõi
danh mục tín dụng, đặc biệt là các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề để có biện pháp xử lý kịp
thời khi có rủi ro xảy ra. Ngân hàng hết sức lưu ý tới các khoản nợ “đặc biệt chú ý” vì
một khi có biến động bất lợi xảy ra đối với hoạt động cho vay, các khoản này dễ bị
chuyển thành nợ xấu.
Để hoạt động quản trị RRTD diễn ra hiệu quả, các NHTM cần xây dựng một hệ
thống thông tin tín dụng tập trung gồm các báo cáo định kì và báo cáo đặc biệt. Báo cáo
định kỳ có thể đề cập đến: Nhóm khách hàng có dư nợ tín dụng lớn nhất, các khoản dư nợ
lớn nhất; Vượt hạn mức tín dụng; các khoản nợ xấu; các dấu hiệu cảnh báo sớm, dự
phòng cho từng khoản dư nợ đơn lẻ, lợi nhuận cho từng khách hàng và sản phẩm, nhật ký
theo dõi các khoản vay.
 Rà soát chính sách quản trị rủi ro theo từng thời kỳ

Chính sách quản trị RRTD nhằm hạn chế các rủi ro như: chính sách TSĐB, chính
sách bảo lãnh, chính sách đồng tài trợ Từ chính sách này mà quy trình tín dụng với
những hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, các bước cụ thể trong quá trình cấp tín dụng được
hình thành. Một chính sách phù hợp là phải vạch ra cho CBTD phương hướng hoạt động
và một khung tham chiếu rõ ràng để làm căn cứ xem xét các nhu cầu vay vốn. Điều này
tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả
năng sinh lời.
 Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng
Thang Long University Library
19


Việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng ngoài mục đích đáp ứng những nhu cầu
ngày một mới mẻ và nâng cao của khách hàng, làm phong phú các loại hình tín dụng tăng
khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác mà còn có tác dụng không nhỏ tới phân tán
rủi ro theo danh mục tài sản, góp phần giảm thiệt hại xảy ra khi có rủi ro với một số loại
tài sản nhất định.
 Phân tán rủi ro
Ngân hàng không nên tập trung cấp tín dụng cho một ngành, một lĩnh vực hay một
khu vực bởi sẽ giống như “Bỏ trứng vào một rổ”, nếu lĩnh vực mà ngân hàng tập trung
vào mà gặp những biến động bất lợi thì thiệt hại của ngân hàng sẽ là vô cùng lớn. Vì vậy
phân tán rủi ro hay chia nhỏ lĩnh vực đầu tư, khu vực đầu tư là biện pháp an toàn nhất.
Tương tự như trên, không nên dồn vốn đầu tư vào một hoặc một số khách hàng: Dù
cho khách hàng có quan hệ lâu năm với ngân hàng hoặc kinh doanh hiệu quả thì ngân
hàng vẫn nên thận trọng, bởi nếu không may khách hàng gặp rủi ro thì ngân hàng cũng
phải chịu tổn thất.
Hình thức cho vay đồng tài trợ cũng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay,
NHTM không cần phải bỏ ra nhiều vốn mà vẫn đầu tư vào được dự án lớn, phân tán được
rủi ro do cùng các ngân hàng thành viên khác cấp vốn cho dự án.
 Sử dụng một số công cụ khác

 Hợp đồng hoán đổi tín dụng (CDS): Hợp đồng hoán đổi tín dụng hay còn gọi là
hợp đồng hoán đổi nợ xấu. Thực chất nó là một dạng bảo hiểm rủi ro về tài sản.
Ví dụ như khi A vay ngân hàng B một khoản tài sản, B lo A sẽ phá sản và không
còn khả năng trả khoản vay. Khi đó B sẽ đến C kí một CDS, theo đó B sẽ trả một
khoản tiền mang tính định kì cho C, đổi lại C phải bảo lãnh giá trị khoản vay cho
B. Nếu A phá sản trong thời gian CDS có hiệu lực thì C sẽ phải thanh toán toàn
bộ khoản vay cho B và CDS kết thúc.
 Hợp đồng quyền chọn tín dụng (Credit options): thực chất là hợp đồng tài chính
giữa hai bên, cho phép bên mua quyền được mua hợp đồng tương lai trong một
khoảng thời gian xác định với mức giá xác định. Người bán quyền chọn có trách
nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng nếu người mua quyền
chọn quyết định thực hiện quyền chọn của mình. Cụ thể, hợp đồng quyền chọn tín
dụng có thể được sử dụng để bảo vệ ngân hàng trước rủi ro chi phí vay vốn tăng
do sự giảm sút chất lượng tín dụng của ngân hàng.
20



1.4.3.4. Kiểm soát RRTD
Kiểm soát RRTD bao gồm 3 hoạt động:
 Kiểm soát trước khi cho vay: Kiểm soát quá trình thiết lập chính sách, thủ tục,
quy trình cho vay; kiểm tra quá trình lập hồ sơ vay vốn và thẩm định, các kiểm tra
viên thực hiện đối chiếu với quy định để kiểm tra tính dầy đủ, hợp pháp của hồ sơ
vay vốn, kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán và thẩm định trên hồ sơ
tín dụng; kiểm tra tờ trình cho vay và các hồ sơ liên quan để tìm hiểu quan điểm
của CBTD, ý kiến của phụ trách bộ phận tín dụng, xét duyệt của ban lãnh đạo và
trình duyệt đối với trường hợp vượt thẩm quyền phán quyết.
 Kiểm soát trong khi cho vay: Kiểm soát một lần nữa hợp đồng tín dụng; kiểm tra
quá trình giải ngân bao gồm đối chiếu xác nhận của khách hàng với số liệu tại
ngân hàng để từ đó phát hiện các trường hợp vay hộ, lập hồ sơ giải ngân vay vốn,

kê khai khống TSĐB, CBTD thu nợ, lãi không nộp ngân hàng, điều tra việc sử
dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích xin vay hay không, giám sát
thường xuyên khoản vay.
 Kiểm soát sau khi cho vay: Kiểm soát việc đôn đốc thu hồi nợ, kiểm soát tín
dụng nội bộ độc lập, đánh giá lại chính sách tín dụng để rút kinh nghiệm cho
những năm tới.
1.4.4. Các chỉ tiêu đánh giá RRTD
Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá mức độ RRTD:
 Chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn
Số dư nợ quá hạn * 100
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi được.
 Chỉ tiêu phản ánh nợ xấu
Nợ xấu * 100
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng dư nợ
Thang Long University Library
21


Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn
khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng.
Tỷ lệ an toàn là dưới 3% theo thông lệ Quốc tế.
 Chỉ tiêu sinh lời từ hoạt động tín dụng
Lãi từ hoạt động tín dụng * 100
 Tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng =
Tổng lợi nhuận
Chỉ tiêu này cho biết cứ trong 100 đồng lợi nhuận thì có bao nhiêu đồng do tín dụng đem
lại.

Lãi từ hoạt động tín dụng * 100
 Tỷ lệ sinh lời của tín dụng =
Tổng dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng, cho biết số lãi thu được
trên 100 đồng dư nợ là bao nhiêu. Chỉ số này càng cao thì chất lượng tín dụng càng tốt.
 Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Tổng dư nợ cho vay
 Hiệu suất sử dụng vốn (H1) =
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh mối tương quan giữa nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay trực
tiếp khách hàng.
Tổng dư nợ cho vay
 Hiệu suất sử dụng vốn (H2) =
Tổng tài sản có
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng tài sản Có thì có bao nhiêu đồng được sử dụng để cho
vay trực tiếp khách hàng.
 Chỉ tiêu trích lập dự phòng và bù đắp RRTD
Dự phòng RRTD trích lập
 Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD =
Dư nợ bình quân
22


Tùy theo mức độ rủi ro mà phải trích lập dự phòng rủi ro từ 0-100% giá trị khoản vay.
Như vậy nếu ngân hàng có danh mục cho vay càng rủi ro thì tỷ lệ này càng cao.
Nợ được xóa
 Tỷ lệ xóa nợ =
Dư nợ bình quân
Những khoản nợ khó đòi sẽ bị xóa và bù đắp bởi quỹ dự phòng RRTD. Như vậy, nếu một
ngân hàng có tỷ lệ xóa nợ cao chứng tỏ chất lượng tín dụng không tốt.

1.4.5. Các mô hình quản trị rủi ro tín dụng
Mô hình quản trị RRTD là cách thức tổ chức quản lý, đo lường, kiểm soát RRTD
nhằm khống chế RRTD trong một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận
của TCTD.
Cụ thể hơn, mô hình quản trị RRTD chính là hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ
chức quản trị rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng
và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản lý tín dụng của
ngân hàng.
Mô hình quản trị RRTD phản ánh một cách hệ thống các vấn đề cơ bản sau:
 Các cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ để thiết lập các giới hạn hoạt động an
toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ.
 Các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro.
 Các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới.
 Các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra.
Hiện nay ở Việt Nam đang có hai mô hình quản trị RRTD phổ biến được áp dụng.
Đó là mô hình quản trị RRTD tập trung và mô hình quản trị RRTD phân tán với những
ưu, nhược điểm đặc trưng.
 Mô hình quản trị RRTD tập trung
Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản trị rủi ro, kinh
doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu
rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí
cán bộ làm công tác tín dụng.
Thang Long University Library
23


Mô hình quản trị RRTD tập trung giúp quản trị rủi ro một cách hệ thống trên quy mô
toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài. Bên cạnh đó, nó còn thiết lập và duy trì
môi trường quản trị rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của
các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro. Các hoạt động kinh

doanh, tác nghiệp, quản trị RRTD được tách biệt hoàn toàn, độc lập với nhau. Chính vì
vậy, mô hình này thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.
Tuy nhiên, việc xây dựng và triển khai mô hình quản trị tập trung này đòi hỏi phải
đầu tư nhiều công sức và thời gian. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ phải có kiến thức cần
thiết và biết áp dụng lý thuyết với thực tiễn.
 Mô hình quản trị RRTD phân tán
Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản trị rủi ro, kinh doanh và tác
nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3chức năng và chịu
trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay.
Khác với mô hình quản trị RRTD tập trung, cơ cấu tổ chức của mô hình quản trị
RRTD phân tán gọn nhẹ, đơn giản hơn. Do đó, hồ sơ được giải quyết nhanh chóng, tiết
kiệm thời gian cho khách hàng. Với những đặc điểm này mà mô hình phân tán hoàn toàn
phù hợp với ngân hàng có quy mô nhỏ.
Mô hình phân tán cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như nhiều công việc tập trung hết
một nơi, thiếu sự chuyên sâu; việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phương thức từ
xa dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín
dụng.



24


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN HÀNG HẢI CHI NHÁNH HÀ NỘI
2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải chi nhánh Hà Nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần Hàng
Hải chi nhánh Hà Nội
 Khái quát về ngân hàng Hàng Hải (Maritimebank)
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam (Maritimebank) thành lập ngày

12/09/1991 tại Thành phố Hải Phòng theo giấy phép số 01/GP-NHNN ngay sau pháp lệnh
về NHTM, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực.
Maritimebank đã được Ngân hàng Thế Giới (World Bank) lựa chọn là một trong 6
NHTM Việt Nam tham gia dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn
1 và tiếp tục vượt qua các đối thủ khác để trở thành NHTM cổ phần duy nhất của Việt
Nam được World Bank tài trợ cho giai đoạn 2. Kết thúc giai đoạn này, Maritimebank đã
xây dựng được hoàn chỉnh hệ thống ngân hàng điện tử (e-bank) để đạt tiêu chuẩn quốc tế,
nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa nhu cầu của
mọi đối tượng khách hàng.
Theo lộ trình phát triển, vốn điều lệ của Maritimebank sẽ tăng từ 1.200 tỷ đồng (năm
2010) lên 3.000 tỷ đồng và tổng tài sản đạt 60.000 tỷ đồng cuối năm 2015, tăng 35.000 tỷ
đồng so với năm 2010. Mạng lưới giao dịch tăng mạnh từ 16 điểm giao dịch năm 2005
lên tới 432 điểm giao dịch năm 2015.
Tầm nhìn
Maritimebank phấn đấu trở thành NHTM cổ phần dẫn đầu thị trường về cung ứng
các dịch vụ tài chính chuyên nghiệp đa năng, trọn gói theo tiêu chuẩn quốc tế. Với cam
kết vì sự phát triển bền vững. Maritimebank phấn đấu trở thành NHTM cổ phần hàng đầu
cả nước về hiện đại hóa, năng động chuyên nghiệp và lấy chữ Tín trong mọi hoạt động
kinh doanh.
Sứ mệnh
Cũng như những ngân hàng khác, với vai trò chính là làm trung gian kinh tế,
Maritimebank thiết lập quan hệ toàn diện với các tập đoàn kinh tế thuộc các ngành hàng
hải, bưu chính viễn thông, hàng không, bảo hiểm, Đồng thời phát triển bền vững, tin cậy
với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, MSB cung cấp các sản phẩm
Thang Long University Library
25


dịch vụ ngân hàng với chất lượng cao cho mọi đối tượng khách hàng và xây dựng quan hệ
đối tác hiệu quả với các định chế tài chính.

Giá trị cốt lõi
Từ khi bắt đầu đi vào hoạt động, Maritimebank (MSB) luôn chú trọng đáp ứng
khách hàng bằng chất lượng dịch vụ; luôn lấy hiệu quả công việc làm mục tiêu cao nhất.
MSB đã và đang không ngừng học hỏi sáng tạo để vươn tới sự hoàn thiện. Bên cạnh đó,
MSB lấy sự hợp tác, uy tín, tin cậy làm động lực cố gắng và vươn đến thành công.
 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải
chi nhánh Hà Nội
Ngân hàng TMCP Hàng Hải đầu tiên được đặt tại số 25 Điện Biên Phủ, Hải Phòng.
Tháng 8/2005, Maritime Bank chuyển Hội sở từ Hải Phòng lên Hà Nội, đặt trụ sở chính
tại địa chỉ 88 Láng Hạ- Đống Đa- Hà Nội, mở rộng đối tượng khách hàng ra ngoài ngành
Hàng Hải và các khách hàng cá nhân. Maritimebank chi nhánh Hà Nội là địa điểm giao
dịch lớn nhất và lâu đời nhất trong hệ thống chi nhánh ngân hàng của Maritimebank.
Ban đầu đội ngũ nhân viên của chi nhánh chỉ bao gồm 04 người: 01 Trưởng phòng
giao dịch, 02 teller và 01 thủ quỹ. Qua gần 7 năm xây dựng và phát triển, chi nhánh Hà
Nội đã có đội ngũ cán bộ công nhân viên bao gồm 26 người với 04 phòng ban và 01
phòng giao dịch trực thuộc. Tất cả đều có trình độ từ đại học trở lên.
Chi nhánh Hà Nội dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc chi nhánh, và đội ngũ chuyên
viên trẻ năng động, nhiệt tình trong công việc đã xây dựng nên văn hóa kinh doanh cho
chi nhánh, thúc đẩy hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngày càng phát triển, mở rộng
mạng lưới giao dịch đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của Maritimebank chi nhánh Hà Nội là:
 Huy động vốn bằng nội tệ và ngoại tệ từ dân cư và các tổ chức kinh tế dưới mọi
hình thức: Nhận tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn…
 Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với mọi thành phần kinh tế, cho vay tài
trợ xuất nhập khẩu, liên kết, hợp tác đồng tài trợ.
 Bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo lãnh công trình, ứng trước, thanh
toán, tái cấp vốn trong và ngoài nước.
26



 Kinh doanh ngoại hối, thanh toán trực tiếp qua mạng trong nước và quốc tế
(SWIFT) , thanh toán L/C hàng xuất, nhập khẩu, chi trả kiều hối và các dịch vụ
Ngân hàng khác.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ các phòng ban của Ngân hàng TMCP
Hàng Hải chi nhánh Hà Nội (MSB-HN)
Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức của MSB-HN

(Nguồn: Phòng Hành Chính - Nhân Sự)
 Ban giám đốc
Nhiệm vụ của Ban giám đốc là điều hành toàn bộ hoạt động của chi nhánh. Giám
đốc là người đứng đầu, phân công nhiệm vụ của các phó giám đốc theo quy định, đồng
thời cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp về tình hình hoạt động kinh doanh của chi
nhánh và báo cáo thông tin lên Hội sở Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam.
Giám đốc là người đại diện cho Ngân hàng quyết định những vấn đế về tổ chức, cán
bộ, đào tạo và ký các hợp đồng: tín dụng, bảo đảm tiền vay và hợp động khác liên quan
Giám đốc
Phòng quan hệ
khách hàng
Khách hàng cá
nhân
Khách hàng
Doanh Nghiệp
Hỗ trợ quan hệ
khách hàng
Phòng Hành
chính - Nhân sự
Phòng quản lý
rủi ro
Phòng Kỹ thuật
& dịch vụ khách

hàng
Quầy TK
Quầy thanh
toán
Quầy chăm sóc
khách hàng
Thang Long University Library

×