Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận môn thị trường tài chính Mối liên hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.51 KB, 17 trang )

I. Khái niệm Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn:
1.1 Thị trường tiền tệ
a. Khái niệm :
Là thị trường giao dịch mua bán quyền sử dụng các khoản tiền tệ ngắn
hạn trong nền kinh tế. Hiểu theo nghĩa giản đơn là nơi mua bán giấy tờ có giá
ngắn hạn dưới 1 năm. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của
hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung
cấp và sử dụng vốn ngắn hạn.
b. Thị trường tiền tệ bao gồm :
Thị trường liên ngân hàng (Inter – bank market);
Thị trường hối đóai (Foreign exchange market);
Thị trường vốn ngắn hạn (Short – term loan market).
c. Vai trò :
Cung ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế;
Điều tiết lượng tiền trong lưu thông;
Bù đắp chênh lệch nhu cầu vốn khả dụng giữa các Ngân hàng trung
gian.
d. Phân loại :
 Căn cứ theo cách thức tổ chức
Thị trường tiền tệ sơ cấp: là nơi chuyên phát hành các loại trái phiếu
mới của ngân hàng, công ty tài chính, kho bạc Thị trường tiền tệ sơ cấp thật sự là
nơi tìm vốn của người phát hành trái phiếu và cung ứng vốn của người mua trái
phiếu.
Thị trường tiền tệ thức cấp: chuyên tổ chức mua bán các loại trái phiếu
đã phát hành ở thị trường sơ cấp, nhưng lại mang tính chất chuyển hóa hình thái
vốn. Tức là, trái phiếu có hình thái hiện vật cụ thể là máy móc, vật tư bây giờ họ
lại cần tiền, nghĩa là cần vốn dưới hình thái tiền tệ.
1
 Căn cứ theo công cụ nợ:
Thị trường vay nợ ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng dưới sự điều hành
của ngân hàng trung ương.


Thị trường trái phiếu ngắn hạn và thị trường các loại chứng từ có giá
khác như: kỳ phiếu thương mại, khế ước giao hàng, tín phiếu của các công ty tài
chính, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng
1.2 Thị trường vốn:
a. Khái niệm : Còn gọi là thị trường dài hạn, là một bộ phận quan trọng của thị
trường tài chính, nơi diễn ra mua bán các công cụ tài chính dài hạn trên một
năm.
b. Thị trường vốn bao gồm :
Thị trường thế chấp (Mortgage market)
Thị trường cho thuê tài chính (leasing market)
Thị trường chứng khoán (securities market)
c. Vai trò : huy động những nguồn vốn trong xã hội, tập trung thành những
nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp và chính phủ nhằm mục
đích phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
d. Phân loại :
 Căn cứ theo cách thức tổ chức
Thị trường vốn sơ cấp: là nơi chuyên phát hành mới các loại cổ phiếu ra
thị trường, là nơi tìm vốn cho các doanh nghiệp.
Thị trường vốn thứ cấp: chuyên tổ chức mua bán các loại cổ phiếu đã
phát hành ở thị trường sơ cấp.
II. Mối liên hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn
2.1Quan hệ tương hỗ:
Sự phát triển của thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị
trường tiền tệ có tầm quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của
2
đất nước. Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn trong đó thị trường
chứng khoán đóng vai trò chủ đạo, từng bước đưa thị trường vốn trở thành một
cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy
động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế, đảm bảo tính công khai,
minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng cường quản lý, giám sát thị

trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, từng bước nâng cao
khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế.
Nếu nguồn vốn chúng ta dựa chủ yếu vào hệ thống ngân hàng thì cho
vay trung và dài hạn gặp rủi ro rất lớn do Ngân hàng phần lớn chỉ huy động được
nguồn vốn ngắn hạn. Thị trường chứng khoán sẽ tạo nên một kênh huy động vốn
trực tiếp, thu hút nguồn vốn dài hạn trong dân cư và công chúng đầu tư cho doanh
nghiệp.Nếu thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ, sẽ tạo ra một kênh chính
để huy động nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán càng phát triển thì các ngân hàng càng có lợi,
ngược lại thị trường chứng khoán suy thoái sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
ngân hàng. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ gánh đỡ rủi ro cho hệ thống ngân
hàng. Các ngân hàng tập trung cho vay tín dụng ngắn hạn và đặc biệt là phát triển
các dịch vụ phi tín dụng.
Năm 2009 đánh dấu là một năm thành công trong sự phát triển của thị
trường chứng khoán Việt Nam, khi dần từng bước thoát khỏi suy thoái và có dấu
hiệu phục hồi, phát triển trở lại. Điều này được lý giải là do có sự tác động của
chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế. Lượng tiền tệ
được bơm vào nền kinh tế khá nhiều. Dư nợ cho vay của hệ thống Ngân hàng
thương mại tăng trưởng mạnh đặc biệt là thời điểm tháng 05/2009 và tháng
06/2009.Tổng dư nợ tín dụng tại hệ thống Ngân hàng thương mại trong năm 2009
tăng gần 37.73% so với năm 2008, gấp 7.1 lần so với tăng trưởng GDP 5.32%. Có
nhiều nhận định cho rằng một phần tiền từ gói hỗ trợ kích cầu của chính phủ đã
3
chảy vào thị trường chứng khoán góp phần tạo nên sự tăng trưởng của thị trường
chứng khoán trong giai đoạn từ tháng 03/2009 đến tháng 10/2009.
Các sự kiện tác động đến của thị trường chứng khoán trongnăm 2009.
2.2 Quan hệ cạnh tranh:
Thị trường vốn và thị trường tiền tệ có mối liên hệ hữu cơ với nhau,
thực hiện đan xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau tạo thành cơ
cấu hoàn chỉnh của thị trường tài chính.

Khi thị trường vốn có xu hướng tăng trưởng mạnh thì lượng vốn chu
chuyển qua thị trường tiền tệ cụ thể là qua các ngân hàng thương mại (NHTM) có
thể bị giảm sút và ngược lại.
Các biến đổi về giá cả lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo
những biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn. Ngược lại, các biến đổi về chỉ số
chứng khoán hoặc giá trị cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ánh hiện tượng tốt
xấu đã, đang và sẽ diễn ra trên thị trường tiền tệ. Các chính sách của nhà nước như
chính sách lãi suất, chính sách tiền tệ với mục đích phát triển thị trường tiền tệ
đồng thời cũng là yếu tố ngăn cản phạm vi hoạt động của thị trường vốn.
4
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến phát hành và mua
bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất mà các Ngân hàng trả cho người
gửi tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho lượng tiền tiết kiệm tại các Ngân hàng
tăng cao vì rủi ro thấp hơn là đầu tư vào chứng khoán. Bên cạnh đó, những biến
đổi về giá cả lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo những biến đổi trực
tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá cổ phiếu, trái phiếu. Khi lãi
suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu thì lượng tiêu thụ trái phiếu sụt
giảm và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng thấp hơn lãi suất trái phiếu.
Thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ), phụ
thuộc rất nhiều vào niềm tin của các tác nhân tham gia thị trường, vào sự minh
bạch và đầy đủ về thông tin, và vào khả năng thực thi các quy định pháp luật về
điều tiết và quản lý thị trường của nhà nước. Hơn thế, đầu tư là một hoạt động rủi
ro và phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện thực tế cũng như kỳ vọng trên thị
trường. Chính vì những lý do này mà nhà nước đóng một vai trò then chốt trong
việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống
Thực tế rằng, các ngân hàng được hưởng lợi nhiều hơn là bị cạnh tranh
từ sự phát triển của thị trường chứng khoán. Bằng chứng là 4 tháng đầu năm 2007,
hầu hết các ngân hàng đều có tốc độ tăng trưởng cho vay và lợi nhuận rất tốt. Tính
đến cuối tháng 4-2007, dư nợ cho vay của ACB đạt 19.174 tỷ đồng, lợi nhuận
trước thuế đạt 490 tỷ đồng; Sacombank đạt lợi nhuận trước thuế 413 tỷ đồng, tăng

36,5% so với tháng trước; OCB cho vay đạt 5.100 tỷ đồng… Khi thị trường chứng
khoán phát triển, các ngân hàng cũng không bỏ lỡ cơ hội đầu tư tài chính, thành
lập các công ty chứng khoán trực thuộc dựa trên tiềm năng tài chính của mình.
Chính những hoạt động này góp phần đáng kể vào con số lợi nhuận ấn tượng mà
các ngân hàng đạt được từ năm 2006 đến nay.
III. Vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính:
3.1 Trên thị trường sơ cấp.
a. Vai trò phát hành:
5
Việc các Ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một
mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán , mặt khác nó là một
kênh dẫn vốn quan trọng cho các Ngân hàng thương mại cho mục tiêu tăng trưởng
của nền kinh tế.
b. Vai trò đầu tư trực tiếp:
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn,
các Ngân hàng thương mại có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái
phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung
và dài hạn.
c. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành:
Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính , trong
đó có các Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu
với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành.
Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái
phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các Ngân hàng
thương mại có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu
Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua
hệ thống Kho bạc Nhà nước.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ
thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các Ngân hàng thương mại sẽ góp phần
đẩy nhanh và hiệu quả qúa trình phân phối trái phiếu Chính phủ.

3.2 Trên thị trường thứ cấp.
Với vai trò là trung gian trên thị trường , các Ngân hàng thương mại có thể thực
hiện các nghiệp vụ sau:
a. Kinh doanh trái phiếu:
Do vậy có thể thấy rõ ràng hoạt động kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng
thương mại thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho t hị trường .
Bện cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ
cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp.
6
Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian
giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
b. Sản phẩm phái sinh:
Các Ngân hàng thương mại có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán
đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên
thị trường . Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường
chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ)
và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường .
c. Cho vay chứng khoán :
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các thị trường chứng
khoán phát triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với
các đại lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng
thanh khoản của thị trường , mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài
sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung
gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho vay cũng
như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận chứng khoán và
phải trả lại chứng khoán , đồng thời nhận lại tài sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho
vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường ,
đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với các trung gian tài
chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi vay hoặc
nhận thế chấp.

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến nhất
hiện nay.
Có thể kết luận rằng Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển thị trường tài chính.
• Là người phát hành và bán cổ phiếu của mình (ngân hàng cổ phần).
• Là người đầu tư bình thường trên thị trường: mua cổ phiếu, trái phiếu, … của
các doanh nghiệp, ngân hàng khác và của Nhà nước.
7
• Là nhà môi giới hoa hồng và kinh doanh chứng khoán
IV. Thị trường chứng khoán dưới tác động của chính sách tiền tệ
Mục tiêu tối thượng của chính sách tiền tệ (CSTT) là đảm bảo tăng
trưởng kinh tế bền vững (chứ không phải là điều tiết ổn định TTCK), song các
động thái của chính sách này có tác động rất lớn đến TTCK.
Thông thường, có 3 trạng thái của CSTT là nới lỏng (trạng thái 1), trung
tính (trạng thái 2) và thắt chặt (trạng thái 3). Một cách giản lược, có thể hiểu trạng
thái trung tính của CSTT được áp dụng khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định ở mức
tiềm năng với lạm phát trong tầm kiểm soát.
Trạng thái nới lỏng được áp dụng khi kinh tế tăng trưởng dưới mức tiềm
năng. Trạng thái thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế có biểu hiện tăng trưởng
nóng trên mức tiềm năng với áp lực lạm phát cao.
Điều chỉnh CSTT theo hướng nới lỏng (chuyển từ trạng thái 3 sang 2
hoặc 2 sang 1 hoặc tăng mức độ của trạng thái 1) sẽ có tác dụng kích thích tăng
trưởng kinh tế và kết quả kinh doanh của các công ty, qua đó tác động tích cực tới
TTCK và ngược lại.
Các thành viên tham gia thị trường thường cố gắng dự báo định hướng
CSTT của ngân hàng trung ương (NHTW) để đoán định việc thay đổi các trạng
thái của CSTT dựa vào đánh giá về thực trạng và triển vọng tăng trưởng GDP và
lạm phát của nền kinh tế của NHTW.
Mức phản ứng của TTCK càng lớn khi việc điều chỉnh trạng thái chính
sách được thị trường đánh giá là lâu dài chứ không phải là tạm thời.

Song lưu ý là tác động của thắt chặt và nới lỏng CSTT với TTCK có thể
có một chiều khác với chiều tác dụng ở trên. Khi định hướng chính sách là nới
lỏng đồng thời hàm ý với đánh giá không tích cực của NHTW về triển vọng tăng
trưởng, qua đó có tác dụng tiêu cực với TTCK và ngược lại, khi định hướng thắt
chặt áp dụng đồng nghĩa với việc NHTW đánh giá lạc quan về triển vọng tăng
trưởng kéo theo tác dụng tích cực với TTCK.
8
Trở lại với TTCK Việt Nam, tác động của CSTT có thể còn mạnh hơn
do liên quan đến mức tăng trưởng tín dụng nói chung và dòng tín dụng chảy vào
TTCK nói riêng, vì CSTT của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam còn tác
động trực tiếp lên điều kiện chặt chẽ hoặc dễ dãi trong hoạt động cho vay của
NHTM. Chúng ta có thể thấy rõ tác động của điều chỉnh CSTT từ năm 2006 đến
nay.
4.1 Điều chỉnh lãi suất chiếc khẩu
Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng –
giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức
tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Lãi suất có tác động mạnh nhất đến
các nhà đầu tư tài chính cũng như thị trường tài chính là lãi suất chiết khấu của
ngân hàng trung ương. Lãi suất chiết khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là
lãi suất mà ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước) đánh vào các khoản tiền
cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất
thường của các ngân hàng này.
Sau khi NHNN quyết định tăng lãi suất chiếc khấu lên 1% sau hơn 11
tháng giữ nguyên thị trường đã có 2 phiên phục hồi khá ấn tượng vào cuối tuần
sau 3 phiên đầu tuần lao dốc. Với mức tăng điểm của tuần này VN-Index đã vượt
qua đường trendline giảm giá dài hạn. Tính thanh khoản của thị trường tiếp tục sụt
giảm so với tuần trước, khi khối lượng giao dịch về mức rất thấp trong các phiên
giảm điểm. Khối ngoại lại có một tuần mua ròng khá mạnh và đóng gióp đáng kể
cho sự khởi sắc của VN-Index.
Kết thúc tuần giao dịch VN-Index đã tăng 1.03% lên mức 157.27 điểm,

trong khi đó HNX-Index giảm nhẹ 0.05% về mức 112.8 điểm dù có phiên tăng
mạnh vào cuối tuần. Thanh khoản trên cả sàn tiếp tục sụt giảm. Trên HoSE, giá trị
giao dịch trung bình mỗi phiên đạt 663 tỷ đồng, giảm gần 15% so với tuần trước.
Trên HNX, giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên đạt 428 tỷ đồng, giảm 3.39% so
với tuần trước.
9
Khối ngoại đã có một tuần mua ròng mạnh. Tổng giá trị mua ròng đạt
574 tỷ đồng trên HoSE và 33 tỷ đồng trên HNX. Đặc biệt phiên cuối tuần khối
ngoại đã mua ròng 266 tỷ đồng khiến thanh khoản của thị trường tăng vọt. Mã cổ
phiếu được khối ngoại mua ròng nhiều nhất là HAG với 107 tỷ đồng, tiếp theo là
VSC 95 tỷ đồng, DPM 82 tỷ đồng. Cổ phiếu bị bán nhiều nhất là HVG với giá trị
9 tỷ đồng.
Trên HoSE, đứng đầu trong danh sách tăng giá là DSN tăng 19.32%. 2
chứng chỉ quỹ là BF1 và VFA cũng đạt mức tăng khá ấn tượng. Trong khi đó cổ
phiếu giảm điểm nhiều nhất là DVD giảm 15%. Trên HNX, HTB duy trì được đà
tăng mạnh tuần thứ 2 liên tiếp với mức tăng 21% trong khi đó một số mã giảm
mạnh như KTT (-29.71%), BXH (-25.29%).
10
Trung tuần tháng 11/2010
Khi lãi suất chiết khấu gia tăng, hiệu ứng tổng thể là nó sẽ làm giảm
lượng cung tiền nhằm mục đích duy trì lạm phát ở mức thấp. Nó cũng làm cho
việc vay tiền của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên đắt hơn, nó tác động đến
hành vi tiêu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp,
gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng
là nó có khuynh hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn
đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, lãi suất không phải là yếu tố có tính quyết định đối với giá
chứng khoán và có rất nhiều yếu tố đáng lưu tâm tác động lên giá chứng khoán
và khuynh hướng thị trường - một sự gia tăng trong lãi suất chiết khấu chỉ là một
trong những cách đó. Do vậy, không ai có thể tự tin nói rằng một công bố gia tăng

lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương có thể tạo nên ảnh hưởng xấu đến
toàn bộ giá chứng khoán.
4.2 Điều chỉnh tỷ giá
Quyết định trên được NHNN thực hiện vào thời điểm giữa tháng 8 là
khá bất ngờ, nằm ngoài dự đoán của giới đầu tư. Áp lực từ nhập siêu và mục tiêu
thúc đẩy xuất khẩu là 2 nguyên nhân chính dẫn đến quyết định trên, trong đó nhập
siêu được cho là nguyên nhân chính (8 tháng đầu năm nhập siêu lên đến gần 8 tỷ
USD). Ngoài ra, những thông tin không chính thức về việc dự trữ ngoại hối của
Việt Nam đang sụt giảm đã tạo ra làn sóng đầu cơ ngoài thị trường tự do, gây sức
11
Trung tuần tháng 11/2010
ép ngược lại đối với tỷ giá chính thức. Dự báo từ bây giờ cho tới cuối năm, tỷ giá
tiếp tục là một trong những rủi ro tiềm ẩn đối triển vọng với kinh tế Việt Nam.
Động thái nới rộng tỷ giá VND/USD thêm 2.1% như “một cú bồi” đẩy
chỉ số VN - Index - vốn chưa thoát khỏi trạng thái quá bán - tiếp tục trượt sâu
trong phiên giao dịch ngày 18/8/2010.
Giá trị giao dịch trong phiên này chỉ đạt 991 tỷ đồng. Dù giá chung của
thị trường đã ở mức rất thấp nhưng dòng tiền vẫn tiếp tục rút ra. Những ý kiến
quan ngại về chỉ số quan trọng này tiếp tục “test” thử ngưỡng hỗ trợ 440 tiếp tục
thử thách “độ vững” trong tâm lý của nhà đầu tư. Việc nới lỏng tỷ giá USD/VND
sẽ để lại những tác động đối với TTCK là điều có thể lường trước được. Tuy
nhiên, dường như nhà đầu tư phản ứng thái quá với mức độ ảnh hưởng của các
thông tin này. Nguyên nhân có thể do chưa nhận diện đúng mức tác động của các
nghị định. Điển hình như việc nới lỏng tỷ giá VND/USD. Về lâu dài, việc nới lỏng
tỷ giá sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại của VN, tăng cường minh bạch thị
trường và kích thích dòng vốn gián tiếp giải ngân, ổn định tâm lý người dân.
Riêng về vấn đề nhà đầu tư lo ngại là lạm phát, trên thực tế không ảnh hưởng
nhiều. Trong thời gian qua, nhiều DN nhập khẩu phải giao dịch tỷ giá ở mức cao
hơn tỷ giá chính thức. Vì vậy, việc điều chỉnh lần này sẽ không ảnh hưởng đáng kể
đối với những nhà nhập khẩu/giá hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, việc các DN liên

tục đăng ký mua cổ phiếu lỗ đã phần nào cho thấy kỳ vọng của DN đối với sự tăng
trưởng cổ phiếu của DN. Tuy không nhiều, nhưng động thái này cũng giúp tăng
cầu trên thị trường.
12
4.3 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là con số do Ngân hàng nhà nước qui định bắt
buộc các ngân hàng thương mại mỗi khi nhận các khoản tiền gửi (trong diện phải
trích dự trữ bắt buộc).
Đảm bảo giữ lại lượng tiền sao cho:
Tổng lượng tiền dự trữ
≥ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tổng tiền gửi trong diện
phải dự trữ
Khi thiếu hụt lượng tiền dự trữ để duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ngân
hàng thương mại có thể đi vay tiền mặt để bổ sung, thường là trên thị trường liên
ngân hàng và từ ngân hàng trung ương.
Mục đích của việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu
thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng
trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Đối với các TCTD,
việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc lần này mặc dù có thể làm tăng chi phí huy động
vốn nhưng chỉ ở mức thấp, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của TCTD ít có
13
khả năng tăng do chệch lệch lãi suất của các TCTD tương đối cao, các TCTD
giảm chi phí để cạnh tranh huy động vốn và cho vay.
Việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng đến thị trường chứng
khoán hay không còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề. Ta giả sử các nhân tố khác
không thay đổi khi ngân hàng nhà nước sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ (giả
dụ nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc) sẽ làm cho lãi suất tăng lên, lãi suất tăng khiến cho
chi phí đi vay nhiều hơn làm giảm đầu tư, giảm cầu nền kinh tế, giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế hơn nữa việc tăng dự trữ bắt buộc khiến lượng tiền lưu thông giảm

và gián tiếp làm giảm lượng tiền vào chứng khoán, khiến TTCK giảm. Tuy nhiên
trên thực tế, tùy vào mỗi giai đoạn và mục tiêu khác nhau của nhà nước mà việc
tăng tỷ lệ dự trữ có làm TTCK giảm hay không. Chẳng hạn như, mục đích hiện
nay của NHNN là kiềm chế lạm phát. Thực chất tiền chỉ gây ra lạm phát khi nó
được ra lưu thông quá nhiều. NHNN tăng dự trữ bắt buộc hạn chế một phần nguồn
vốn của ngân hàng để cho vay với mục đích tiêu dùng. Như vậy, chính sách trên
không ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của TTCK Việt Nam, vì luồng vốn
đầu tư vào TTCK vẫn còn rất lớn vì hiện nay nguồn vốn gián tiếp nằm tại các
ngân hàng chưa đổi ra ước tính không dưới 3 tỷ USD. Thêm vào đó là lượng kiều
hối, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua cũng lớn do đó
tiết kiệm của người dân cũng nhiều.
4.4 Khống chế tỷ lệ cho vay chứng khoán
Một trong những nỗi “ám ảnh” lớn của thị trường chứng khoán (TTCK)
hồi giữa năm 2007, mở đầu cho thời kỳ đi xuống của TTCK, là chỉ thị
03/2007/CT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 28/05/2007 khống
chế cho vay kinh doanh chứng khoán dưới 3% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng.
Sau đó, chỉ thị 03 được thay thế bằng quyết định 03/2008/QD-NHNN, thay khống
chế cho vay dưới 3% tổng dư nợ bằng dưới 20% vốn điều lệ. Đây được coi là cú
“mở màn” cho đợt suy thoái mới và sâu hơn của TTCK 2008. Theo giới phân tích,
14
hạn mức cho vay chứng khoán dự kiến chuyển từ 3% trên tổng dư nợ lên 20% trên
tổng vốn điều lệ chưa chắc làm tăng luồng tiền đổ vào thị trường chứng khoán.
Ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước phát đi tín hiệu sẽ thay đổi Chỉ thị
03/2007/CT-NHNN ngày 29/1/2008, nhiều nhà đầu tư tin rằng cơ chế cho vay
đầu tư chứng khoán sẽ thoáng hơn so với quy định cũ, góp phần giúp thị trường
thoát khỏi những ngày u ám. Trên thực tế, hai phiên giao dịch vừa qua, đặc
biệt là phiên giao dịch sáng 30/1/2008, thị trường đã phản ứng rất tích cực
với thông tin chỉ thị 03 được sửa đổi. Phiên sáng nay, Vn-Index đã tăng một
mạch hơn 30 điểm, tiến sát ngưỡng 850 điểm.
Giá cổ phiếu đồng loạt tăng trần trên cả hai sàn

Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng, thị trường đã phản ứng hơi thái
quá do nhiều nhà đầu tư chưa hiểu rõ bản chất của sự thay đổi này. "E rằng phản
ứng này sẽ không bền vững" - một chuyên gia e ngại. Bên cạnh đó, một số người
lợi dụng sự hưng phấn của thị trường tranh thủ đẩy hàng đi khiến không khí giao
dịch càng thêm nóng bỏng. Sau một thời gian ngắn, thị trường chứng khoán đã bắt
đầu suy giảm do quy định mới ban hành đã làm giảm nguồn tiền bơm vào cho thị
trường chứng khoán và kết quả là thị trường chứng khoán trong năm 2008 đã có
lúc giảm xuống dưới 300 điểm.
4.5 Chính sách kích cầu của nhà nước
15
Năm 2009, đứng trước suy giảm kinh tế và sự sụt giảm của thị trường
chứng khoán (TTCK), Chính phủ đã áp dụng một số biện pháp gián tiếp kích cầu
trên TTCK như miễn giảm và giãn thuế thu nhập cá nhân năm 2009, miễn thuế đối
với những khoản thu nhập từ đầu tư vốn và chuyển nhượng vốn Bên cạnh đó,
việc thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) nới lỏng với trọng tâm là giảm lãi suất và
hỗ trợ lãi suất 4% trong năm 2009 cũng được xem là một trong những giải pháp
quan trọng góp phần kích cầu chứng khoán. Thị trường chứng khoán khởi sắc rõ
rệt như chỉ số VN Index tháng 5.2009 tăng 35% so với tháng 2.2009 và HoSE lọt
vào danh sách những thị trường tăng trưởng nhanh nhất toàn cầu. Trong bối cảnh
nền kinh tế đất nước phải gồng mình vượt qua suy thoái, nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực sản xuất - kinh doanh phải chống chọi với khó khăn để duy trì đà tăng trưởng,
TTCK đã có một năm về đích ngoạn mục, với nhiều kỷ lục được tạo lập sau hơn 9
năm phát triển. Không ít kỷ lục đã vượt xa mong đợi của các nhà đầu tư (NĐT)
cũng như dự báo. Bên cạnh ấn tượng, có cả thăng trầm khi TTCK đảo chiều,
xuống dốc vào cuối năm. Nhìn chung, diễn biến TTCK năm 2009 có hai giai đoạn
quan trọng nhất, đó là tăng trưởng, từ 25-2 đến 10-6 khi VN-Index tăng khoảng
118%; từ 22-7 đến 22-10, TTCK bùng nổ mạnh mẽ khi có thêm sự hỗ trợ mạnh
bởi các dấu hiệu hồi phục kinh tế trong nước và quốc tế, đặc biệt là đòn bẩy tài
chính từ các công ty chứng khoán.
4.6 Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín

dụng (thông tư 13/2010/TT-NHNN)
Theo đánh giá của các chuyên gia trên thị trường chứng khoán, Thông
tư 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng đã gây tác động cộng hưởng tới tâm lý vốn đang rất yếu ớt
của thị trường, như "giọt nước làm tràn ly".
Bỏ qua mọi dự báo phân tích của giới chuyên gia, chỉ trong bốn phiên
giao dịch của tuần này (9/8 - 12/8), VN-Index bất ngờ rơi tự do đến 34,42 điểm,
16
phá tan mọi ngưỡng hộ trợ kỹ thuật trở về mức 448 điểm, đây cũng là ngưỡng thấp
nhất kể từ đầu năm 2010 đến nay.
Thị trường giảm điểm mạnh trong tuần 12/08/2010. Nguồn: AVSC
Một trong những nguyên nhân khiến giới đầu tư vội vã tháo chạy khỏi
thị trường được các chuyên gia nhắc đến là những tác động của Thông tư 13.
Thông tư này được ban hành từ tháng 5/2010 và đã có những tác động
ngay đến các ngân hàng, khiến họ phải lên kế hoạch thu xếp lại nguồn vốn tự có
qua việc thoái bớt vốn hay quyết định rút lui không rót thêm vốn cho các đợt phát
hành cổ phiếu tăng thêm tại các tổ chức tín dụng khác trong năm nay. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc thị trường chứng khoán phải đón nhận một lượng cung
cổ phiếu ngành tài chính tương đối lớn.
Ngoài ra, những nội dung tại điểm a và b khoản 5.6 của Thông tư quy
định các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán, cho vay các công ty chứng khoán
có hệ số rủi ro bằng 250% sẽ tác động hạn chế dòng tiền tín dụng chảy vào thị
trường chứng khoán.
17

×