Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.35 KB, 14 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU:
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao,
nhu cầu tiêu dung cũng vì thế phát triển mạnh, qua đó nhu cầu thanh toán nhanh
chóng và thuận tiện trở thành một yêu cầu của khách hàng đối với ngân hàng. Điều
này gây áp lực lên các ngân hàng đòi hỏi các ngân hàng phải nâng cao chất lượng
dịch vụ thanh toán của mình nhằm cung cấp cho khách hàng dịch vụ thanh toán tốt
nhất. Cũng trong thời gian đó, khoa học kỹ thuật thế giới đã có những bước tiến
đáng kể trong lĩnh vực thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng phát triển và hoàn thiện phương thức thanh toán của mình, trong đó
phải kể đến sự ra đời và phát triển của hình thức thanh toán bằng thẻ.
Việc thanh toán thông qua thẻ ngân hàng liên quan đến nhiều các chủ thể tham
gia, với vai trò, địa vị pháp lí khác nhau. Nhìn một cách tổng thể thì mối quan hệ
pháp lí giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng là mối quan
hệ gắn bó mật thiết, ràng buộc nhau. Để làm sáng tỏ những mối quan hệ này, nhóm
chúng em chọn đề tài : “ Phân tích những mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong
quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng”. Trong quá trình làm bài, do thời
gian cũng như kiến thức thực tế không nhiều, bài làm của chúng em còn nhiều
thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo để bài làm
của chúng em được hoàn thiện hơn !
B. NỘI DUNG:
I. Những vấn đề chung về thanh toán thông qua thẻ ngân hàng:
1. Thẻ ngân hàng:
Theo Điều 2 quy chế phát hành, thanh toán và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt
động thẻ ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước (sau đây gọi tắt là quy chế) thì: Thẻ ngân hàng là
phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các
điều kiện và điều khoản được các bên thoả thuận.
Với vai trò là công cụ để thực hiện việc thanh toán, thẻ ngân hàng có thể được
sử dụng để rút tiền mặt hoặc thực hiện thông qua nghiệp vụ kế toán của ngân hàng.
Thẻ ngân hàng có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ra đời


từ phương thức mua bán chịu hàng hóa bán lẻ và phát triển gắn liền với việc ứng
dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực tài chính ngân hàng;
Thứ hai, thẻ ngân hàng là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt cho
ngân hàng hoặc tổ chức tài chính phát hành và cung cấp cho khách hàng dùng để
rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thẻ;
Thứ ba, tổ chức phát hành thẻ ngân hàng thường bao gồm nhiều đơn vị trung
gian tài chính, các trung tâm thanh toán bù trừ, tập đoàn thương mại, du lịch... tuy
nhiên ngân hàng là tổ chức phát hành thẻ chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân.
Có nhiều loại thẻ khác nhau với tên gọi khác nhau phụ thuộc vào những căn
cứ phân loại thẻ. Ví dụ như căn cứ theo phạm vi lãnh thổ sử dụng thẻ:
+ Thẻ nội địa: là thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành để
giao dịch trong lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
+ Thẻ quốc tế: Là thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành để
giao dịch trong và ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoặc
là thẻ được tổ chức nước ngoài phát hành và giao dịch trong lãnh thổ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Hay căn cứ theo nguồn tài chính đảm bảo cho việc sử dụng thẻ:
+ Thẻ ghi nợ (debit card): Là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ
trong phạm vi số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ mở tại một tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép nhận tiền gửi không kì hạn;
+ Thẻ tín dụng (credit card): Là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được cấp theo thoả thuận với tổ chức phát hành
thẻ.
+ Thẻ trả trước (prepaid card): Là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch
thẻ trong phạm vi giá trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền mà chủ thẻ đã
trả trước cho cho tổ chức phát hành thẻ:
2. Các bên trong quan hệ thanh toán:
Các bên trong quan hệ thanh toán thông qua hợp đồng thanh toán thẻ: Là
hợp đồng giữa Tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ, đơn vị chấp nhận
thẻ, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bù trừ giao dịch thẻ và các bên liên quan

khác thoả thuận các điều kiện và điều khoản về việc thanh toán thẻ. Như vậy có rất
nhiều chủ thể tham gia vào quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng nhưng chủ
yếu gồm các chủ thể sau:
2.1. Chủ thẻ:
Là cá nhân hay người được ủy quyền, được ngân hàng cho phép sử dụng thẻ để
chi trả các hàng hóa, dịch vụ hay rút tiền mặt theo những điều kiện, quy định của
ngân hàng. Một chủ thẻ có thể sở hữu một hay nhiều thẻ. Chủ thẻ bao gồm chủ thẻ
chính và chủ thẻ phụ.
Theo khoản 10 và 11 điều 2 quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng, cung cấp
dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng ban hành kèm quyết định số 20 ngày
15/5/2007 của thống đốc ngân hàng nhà nước ( sau đây gọi tắt là quy chế) thì
“Chủ thẻ chính là cá nhân hoặc tổ chức đứng tên thoả thuận về việc sử dụng thẻ với
tổ chức phát hành thẻ và có nghĩa vụ thực hiện thoả thuận đó” còn “Chủ thẻ phụ là
cá nhân được chủ thẻ chính cho phép sử dụng thẻ theo thoả thuận về việc sử dụng
thẻ giữa chủ thẻ chính và tổ chức phát hành thẻ. Chủ thẻ phụ chịu trách nhiệm về
việc sử dụng thẻ với chủ thẻ chính”.
* Điều kiện để sử dụng thẻ:
+ Việc sử dụng thẻ phải có hợp đồng sử dụng thẻ giữa chủ thẻ và tổ chức phát
hành thẻ.
+ Chủ thẻ chính là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nếu sử
dụng thẻ ghi nợ phải có tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại Tổ chức phát hành thẻ
và các điều kiện khác do tổ chức phát hành thẻ quy định.
Đối với chủ thẻ chính là tổ chức phải là pháp nhân và đáp ứng các điều kiện
khác do tổ chức phát hành thẻ quy định.
+ Chủ thẻ phụ được phép sử dụng thẻ khi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
nếu chưa đủ 15 đến dưới 18 tuổi thì phải được người đại diện theo pháp luật của cá
nhân đó chấp thuận về việc sử dụng thẻ, ngoài ra chủ thẻ phụ phải được chủ thẻ
chính cam kết thực hiện toàn bộ nghĩa vụ phát sinh liên quan đến việc sử dụng thẻ.
Tất cả các quy định trên không áp dụng cho thẻ trả trước vô danh - thẻ trả trước
không xác định danh tính.

2.2. Tổ chức phát hành thẻ: (TCPHT)
Là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức
khác không phải là tổ chức tín dụng được phép phát hành thẻ theo sự cho phép của
tổ chức thẻ hoặc công ty thẻ trong việc phát hành thẻ mang thương hiệu của mình.
Tố chức phát hành thẻ trực tiếp nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và phát hành thẻ, mở
và quản lý tài khoản thẻ của khách hàng, quy định, quy định các điều khoản, điều
kiện sử dụng thẻ cho khách hàng là chủ thẻ. Theo đó, đối với mỗi loại thẻ lại có
một điều kiện nhất định, các tổ chức phải đáp ứng được những điều kiện đó thì mới
được phép phát hành. Điều kiện này được quy định rõ trong điều 9 quy chế:
Thứ nhất, đối với phát hành thẻ nội địa thì nghiệp vụ phát hành thẻ phù hợp
với phạm vi, điều kiện và mục tiêu hoạt động của tổ chức phát hành thẻ, phải tuân
thủ các quy định về tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp
luật, tổ chức phát hành thẻ phải xây dựng quy chế, quy trình thực hiện các nghiệp
vụ phát hành thẻ, bảo đảm các nguyên tắc quản lí rủi ro trong hoạt động ngân hàng
điện tử đối với nghiệp vụ phát hành thẻ., tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà
nước về kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ phát hành thẻ, phải đăng kí
loại thẻ và chức năng của loại thẻ tại Ngân hàng Nhà nước trước khi phát hành.
Báo cáo và cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin và văn bản có liên quan nhằm
chứng minh các điều kiện đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ phát hành thẻ, báo cáo
đầy đủ và chính xác các thông tin thống kê phục vụ cho mục tiêu quản lí, giám sát
của Ngân hàng nhà nước, ngoài ra còn phải tuân thủ nhiều các quy định khác.
Thứ hai, đối với phát hành thẻ quốc tế, ngoài các điều kiện trên thì tổ chức
phát hành thẻ quốc tế còn phải đủ điều kiện hoạt động ngoại hối do ngân hàng nhà
nước Việt Nam quy định.
2.3. Tổ chức thanh toán thẻ: (TCTTT)
Là ngân hàng, tổ chức khác không phải là ngân hàng được phép thực hiện
dịch vụ thanh toán thẻ. Để thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ, các ngân hàng, tổ chức
khác không phải là ngân hàng phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các điều kiện: Việc
thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ phù hợp với phạm vi và mục tiêu hoạt động của tổ
chức đó; Tổ chức thanh toán thẻ phải tuân thủ các quy định về các tỉ lệ bảo đảm an

toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật, bảo đảm các nguyên tắc quản lí
rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử đối với việc thực hiện dịch vụ thanh toán
thẻ, tuân thủ các quy định hiện hành của Ngân hàng nhà nước về kiểm tra, kiểm
soát nội bộ đối với việc thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ; Báo cáo và cung cấp đầy
đủ chính xác các thông tin và văn bản có liên quan nhằm chứng minh các điều kiện
đảm bảo thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ, báo cáo đầy đủ và chính xác các thông
tin thống kê phục vụ cho mục tiêu quản lí, giám sát của Ngân hàng Nhà nước và
nhiều quy định khác của quy chế.
2.4. Đơn vị chấp nhận thẻ: (ĐVCNT)
Là các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ có ký kết với TCTTT về việc chấp
nhận thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ mà mình cung cấp bằng thẻ.
II. Các mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong thanh toán qua
thẻ ngân hàng.
Ngày nay, việc thanh toán thông qua thẻ ngân hàng đã trở nên phổ biến với sự
tham gia của nhiều chủ thể nhưng nhìn chung chủ yếu là các mối quan hệ sau:
2.1.Mối quan hệ pháp lý giữa chủ thẻ và tổ chức phát hành thẻ.
Có thể thấy đây là mối quan hệ pháp lý cơ bản và chủ yếu làm phát sinh việc
thanh toán thông qua thẻ ngân hàng. Từ đây sẽ xuất hiện tiếp các mối quan hệ khác
giữa các bên với TCTTT, ĐVCNT hay các dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ.
Mối quan hệ pháp lý giữa chủ thẻ và tổ chức phát hành thẻ thể hiện qua quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên được quy định trong quy chế. Theo đó, quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên có mối quan hệ biện chứng với nhau.
2.1.1. Trong thỏa thuận
* Thỏa thuận về phạm vi sử dụng thẻ.
Việc sử dụng thẻ phải thông qua một hợp đồng giữa TCPHT và chủ thẻ. Bản
chất của hợp đồng là sự thỏa thuận. Các bên có thể thỏa thuận mọi vấn đề mà
không trái pháp luật. Nhưng trước tiên, các bên cần có sự thỏa thuận về phạm vi sử
dụng thẻ. Theo điều 12 Quy chế, có hai phạm vi sử dụng thẻ mà các bên có thể lựa
chọn tùy vào mục đích của mình:
- Thẻ nội địa được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại

ĐVCNT, gửi, nạp, rút tiền mặt và sử dụng các dịch vụ khác theo thoả thuận với
TCPHT trên lãnh thổ Việt Nam.
- Thẻ quốc tế được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại ĐVCNT,
gửi, nạp, rút tiền mặt và sử dụng các dịch vụ khác bằng đồng Việt Nam trên lãnh
thổ Việt Nam hoặc bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và các đồng
tiền khác được TCTTT chấp nhận làm đồng tiền thanh toán ngoài lãnh thổ Việt
Nam.
Tóm lại, mối quan hệ giữa TCPHT và chủ thẻ ở đây được thể hiện ở sự thỏa
thuận, tự do thể hiện ý chí, không thể có việc TCPHT lại đơn phương lựa chọn
phạm vi thẻ mà không hỏi ý kiến của khách hàng (trừ trường hợp TCPHT chỉ
chuyên phát hành một loại phạm vi thẻ).
* Thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ khác.
Ngoài những quyền và nghĩa vụ thể hiện mối quan hệ giữa các bên được quy
định cụ thể như trên, mối quan hệ giữa các bên còn thể hiện qua các quyền và
nghĩa vụ khác mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng (Khoản 4 các Điều 19, 20, 22
Quy chế; Khoản 6 Điều 21). Ví dụ: Thoả thuận với TCPHT về hạn mức thấu chi,
hạn mức tín dụng và các thoả thuận khác không trái pháp luật hiện hành.
Và khi đã thỏa thuận, chủ thẻ và TCPHT sẽ được hưởng quyền lợi và phải
chịu trách nhiệm thực hiện những trách nhiệm đã thỏa thuận. Theo đó, Chủ thẻ
chính, chủ thẻ phụ cùng chịu trách nhiệm chung và mỗi người chịu trách nhiệm
riêng trong việc thực hiện các điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ trong hợp đồng
sử dụng thẻ giữa chủ thẻ và TCPHT. Chủ thẻ chính chịu trách nhiệm với TCPHT
về việc sử dụng thẻ của chủ thẻ phụ, có trách nhiệm thanh toán cho TCPHT tất cả
các giao dịch thẻ có chữ ký của chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ trên hóa đơn cũng
như có sử dụng số PIN. Trường hợp chủ thẻ chính bị chết, mất tích, hoặc mất năng
lực hành vi thì việc thanh toán cho TCPHT và việc thừa hưởng số dư trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của chủ thẻ chính hoặc số tiền còn lại trên thẻ trả trước định
danh được thực hiện theo quy định của pháp luật (Khoản 3 Điều 22 Quy chế).
2.1.2. Trong vấn đề cung cấp và thu thập thông tin.
Đây là mối quan hệ pháp lý hai chiều và là một trong những quyền và nghĩa

vụ cơ bản của các hai bên chủ thể. Không chỉ chủ thẻ có quyền và nghĩa vụ cung
cấp thông tin mà cả TCPHT cũng được hưởng và thực hiện nghĩa vụ này. Bởi lẽ,
có sự hiểu biết nhất định về TCPHT, các thông tin về tài khoản của mình,… thì
chủ thẻ mới có thể chủ động trong việc lựa chọn các loại thẻ ngân hàng phù hợp
nhất cho mình cũng như chủ động trong vấn đề sử dụng thẻ (để thanh toán hàng
hóa, dịch vụ,…). Ngược lại, Ngân hàng cũng cần được cung cấp các thông tin về
chủ thẻ để quản lý khách hàng và thuận lợi trong việc cung ứng thẻ. Quy chế phát
hành, thanh toán, sử dụng, cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng năm
2007, đã quy định rất rõ ràng mối liên hệ này giữa các chủ thể:
TCPHT có quyền: Yêu cầu chủ thẻ cung cấp đầy đủ các thông tin và tài liệu
cần thiết nhằm làm rõ các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng khi đề nghị được
cung ứng thẻ và trong quá trình sử dụng thẻ; (Điểm a, Khoản 1 Điều 19 Quy chế)

×