Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro tài chính tại công ty TNHH đại tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.37 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt Diễn giải
1
BCĐKT Bảng cân đối kế toán
2
BQ Bình quân
3
DLDT Doanh lợi doanh thu
4
HSSDTS Hiệu suất sử dụng tài sản
5
NHNN Ngân hàng nhà nước
6
NN Nhà nước
7
ROA Doanh lợi tài sản
8
ROE Doanh lợi vốn chủ sở hữu
9
SDBQ Số dư bình quân
10
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
11
TS Tài sản
12
TSCĐ Tài sản cố định
13


TSDH Tài sản dài hạn
14
TSNH Tài sản ngắn hạn
15
VCSH Vốn chủ sở hữu
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Bảng
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn
2011 – 2014
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của công ty TNHH Đại Tấn
giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 2.3: Hệ số biến thiên ROE của công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn 2011-
2014
Bảng 2.4: So sánh hệ số biến thiên giữa các công ty
Bảng 2.5: Tốc độ tăng các chỉ tiêu phản ánh ROE của công ty TNHH Đại Tấn
giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 2.6: ROA của công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 2.7: Cơ cấu nợ của công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 2.8: Độ bẩy tài chính của công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 2.9: Hệ số thanh toán hiện hành giữa các công ty giai đoạn 2011 – 2014

Bảng 2.10: Hệ số thanh toán nhanh giữa các công ty giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 2.11: Hệ số thanh toán lãi vay giữa các công ty giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 2.12: Biến động chi phí lãi vay và tỷ trọng Nợ vay ngắn hạn/Tổng nợ của
công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn 2011 – 2014
Bảng 3.1: Chi phí quản lý doanh nghiệp sau khi thực hiện giải pháp
Bảng 3.2: Kết quả đạt được sau khi giảm chi phí quản lý doanh nghiệp
Bảng 3.3: Dự kiến kết quả đạt được khi thực hiện chiết khấu thanh toán
Bảng 3.4: Số dư bình quân các khoản mục trong BCĐKT năm 2013
Bảng 3.5: Tỷ lệ % các khoản mục biến động trực tiếp theo doanh thu

Biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Đại Tấn giai
đoạn 2011 – 2014
Biểu đồ 2.2: Các chỉ tiêu khả năng sinh lời tại công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn
2011 – 2014
Biểu đồ 2.3: Sự biến động ROE của các công ty giai đoạn 2011 – 2014
Biểu đồ 3.1: Chi phí quản lý doanh nghiệp tại công ty TNHH Đại Tấn giai đoạn
2011 – 2014
Biểu đồ 3.2: Chi phí quản lý doanh nghiệp công ty TNHH Đại Tấn năm 2014
Sơ đồ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập vào sân chơi chung của
toàn cầu với những cơ hội và thách thức đan xen nhau, bởi lực đẩy của cạnh
tranh và hội nhập, các công ty trong nước ngày càng đối mặt với nhiều rủi ro.
Chính vì vậy, vấn đề phân tích rủi ro của doanh nghiệp đã trở thành vấn đề thu
hút được sự quan tâm của đông đảo mọi người và ngày càng trở nên bức thiết
hơn bao giờ hết. Để tồn tại thì công ty phải có một cơ cấu tài chính hết sức vững
mạnh và phải thường xuyên phân tích vấn đề tài chính trong công ty để hạn chế
sớm nhất những rủi ro tổn thất có thể xảy ra và đây là việc làm thường xuyên và
cấp bách của mỗi công ty.
Trong thời gian qua, nhu cầu xây dựng các công trình có vốn từ ngân sách
Nhà nước, các công trình phục vụ cho xây dựng xã nông thôn mới tăng cao hơn
năm trước; các doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay ngân hàng với lãi suất ưu
đãi, nhu cầu xây dựng nhà và các công trình phục vụ sản xuất kinh doanh ở khu
vực dân cư có xu hướng tăng; giá cả vật tư xây dựng tương đối ổn định… Ngoài
ra, thị trường vật liệu xây dựng trong năm không có biến động lớn đã góp phần
giảm bớt khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng.
Mặc dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng Tổng cục Thống kê cũng

nhận xét: Hoạt động xây dựng trong năm vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức. Tình trạng nợ đọng khối lượng từ những năm trước của các doanh
nghiệp xây dựng chưa có hướng giải quyết triệt để. Mặc dù lãi suất cho vay gần
đây đã được điều chỉnh giảm nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong
tiếp cận vốn nên sản xuất kinh doanh chưa thực sự phát triển mạnh, nhất là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Với ý nghĩa quan trọng của việc phân tích rủi ro tài chính của công ty và
xuất phát từ tình hình thực tế, đặc biệt là sự gợi ý, hướng dẫn của cô giáo, Thạc sĩ
Lê Việt An, em đã chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tài chính tại công ty
TNHH Đại Tấn” để thực hiện báo cáo khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài này nhằm đưa ra những lý luận cơ bản về phân tích rủi
ro tài chính, phân tích thực tế rủi ro tài chính tại Công ty TNHH Đại Tấn và đưa
ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tài chính tại công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Rủi ro tài chính tại công ty TNHH Đại Tấn.
Phạm vi nghiên cứu: Rủi ro tài chính tại Công ty TNHH Đại Tấn từ năm
2011 tới 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nội dung phân tích đúng với tình hình thực tế tại Công ty, em đã sử dụng
kết hợp các phương pháp phân tích sau: phương pháp so sánh, phương pháp
phân tích tương quan, phương pháp phân tích nguồn số liệu chủ yếu lấy từ báo
cáo tài chính. Trong đó, đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích rủi ro tài chính
thực tế của Công ty theo phương pháp phân tích báo cáo tài chính và từ đó đưa
ra kết luận cùng một số giải pháp để kiểm soát rủi ro tài chính tại Công ty.
5. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tài chính trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng rủi ro tài chính tại Công ty TNHH Đại Tấn
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tài chính tại công ty TNHH Đại

Tấn
Do kiến thức còn hạn hẹp cho nên dù đã cố gắng hết sức nhưng đề tài sẽ
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của quý
Thầy Cô trong Khoa để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Bình Định, tháng 3 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Đình Thái
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về rủi ro và phân tích rủi ro trong doanh nghiệp
1.1.1. Tổng quan về rủi ro và rủi ro tài chính trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Các vấn đề về rủi ro
a. Khái niệm về rủi ro
Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những
trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi
ro khác nhau. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng nhưng tập
trung lại có thể chia thành hai trường phái lớn:
 Theo trường phái truyền thống: Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy
hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không
chắc chắn có thể xảy ra cho con người.[7, tr25]
Đó là sự giảm sút về tài sản hay sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với
lợi nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bắc trắc ngoài ý muốn
xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động
xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Tóm lại theo quan
điểm này rủi ro mang tính tiêu cực.
 Theo trường phái trung hòa: rủi ro là sự không chắc chắn về những gì xảy
ra trong tương lai nhưng có thể đo lường được, xác định được ở mức độ
nào đó. Rủi ro vừa mang tiêu cực, nó có thể mang đến những tổn thất, mất
mát, nguy hiểm cho con người, vừa mang tính tích cực vì nó cũng có thể

mang đến các cơ hội. [3, tr172]
Tóm lại, rủi ro là điều không may mắn, không lường trước được về
khả năng xảy ra, về thời gian và không gian xảy ra, cũng như mức độ
nghiêm trọng và hậu quả của nó. [1, tr.14]
- 9 -
Thường thì các định nghĩa được phát biểu tùy theo quan điểm của
từng người, từng ngành. Chẳng hạn theo quan điểm của các nhà đầu tư, rủi
ro lại được định nghĩa là không có được NPV, IRR như dự tính. Còn theo sác
xuất và thống kê thì rủi ro là biến cố ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác
suất. Theo quan điểm hiện đại, rủi ro được định nghĩa là: “khả năng sẽ xảy
ra một kết quả có lợi hay không có lợi từ mối nguy hiểm hiện hữu”.
Đối với doanh nghiệp, rủi ro là bất cứ điều gì có khả năng ngăn cản sự
phát triển của doanh nghiệp, có những rủi ro xâm nhập từ bên ngoài doanh
nghiệp cũng như phát sinh bên trong doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp
khi thực thi những chiến lược hoạt động phát triển sản phẩm và dịch vụ
của mình không thể không tránh khỏi việc đương đầu với những rủi ro có
thể xảy ra trong kinh doanh. Những rủi ro đó sẽ làm cho doanh nghiệp bị
bất ngờ và dẫn đến thiệt hại, ảnh hưởng đến mục tiêu của doanh nghiệp.
b. Tính chất của rủi ro
Rủi ro có ba tính chất quan trọng.
Một là, rủi ro có tính bất ngờ. Rủi ro là những sự kiện bất ngờ mà
người ta không lường trước được một cách chắc chắn, nó có thể xuất hiện
vào một thời điểm bất kỳ trong tương lai và bất kỳ ở đâu. Tính bất ngờ của
rủi ro phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của con người và quy luật của rủi
ro. Ngày
nay, khoa học đã giúp cho con người dự báo khá chính xác nhiều loại rủi ro,
nhờ đó có thể đề ra những biện pháp thích hợp để phòng ngừa, hạn chế rủi
ro.
Trên thực tế, một trong các mục tiêu của con người chống lại rủi ro là làm
sao

để giảm đi tính bất ngờ của rủi ro.
- 10 -
Hai là, rủi ro gây ra tổn thất. Một khi rủi ro xảy ra là để lại hậu quả
cho con người, mức độ của hậu quả đó có thể là nghiêm trọng hoặc ít
nghiêm trọng. Tổn thất có nguyên nhân từ rủi ro tồn tại dưới dạng hữu
hình hoặc vô
hình, có thể là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần, sức khỏe hoặc
trách
nhiệm pháp lý. Nhìn chung, mọi tổn thất đều có một đặc tính là gây thiệt
hại,
giảm sút lợi ích của con người.
Ba là, rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi. Rủi ro là sự kiện bất ngờ và
gây tổn thất, vì vậy nó là sự kiện ngoài mong đợi của mọi người. Một sự
kiện được coi là rủi ro phải đồng thời thỏa mãn ba tính chất nêu trên. Theo
đó nếu sự kiện xảy ra là do chủ định hoặc đã biết trước chắc chắn sẽ xảy ra
hoặc xảy ra nhưng không để lại hậu quả thì sự kiện đó không được coi là
rủi ro. Hoặc nếu như sự kiện xảy ra gây tổn thất, nhưng hoàn toàn nằm
trong dự liệu của chúng ta cũng không được coi là rủi ro. Hoặc một sự kiện
chúng ta mong đợi bất ngờ xảy ra nhưng lại không gây tổn thất, mà ngược
lại, đem về lợi ích thì không phải là rủi ro. Chẳng hạn: khi chúng ta đầu tư
vào thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu của chúng ta tăng đột ngột mức
cao. Sự kiện tăng giá này không phải là rủi ro mà là may mắn.
Như vậy, khi nói đến rủi ro là chúng ta đã đề cập đến một biến cố ngẫu
nhiên, gây tổn thất cho con người. Những biến cố đó rất khác nhau trong
từng
lĩnh vực, nó có thể xuất hiện từ những nguyên nhân bên ngoài một cách
ngẫu
nhiên, khách quan; nhưng nó cũng có thể xuất hiện từ nguyên nhân bên
trong
của sự vật, hiện tượng, từ hành vi, thái độ của con người. Vì rủi ro là biến

- 11 -
cố
bất lợi cho con người nên để khống chế rủi ro hoặc hạn chế thiệt hại do rủi
ro
gây ra, con người không ngừng tìm cách khắc phục, rút ra bài học kinh
nghiệm và tìm cách thích hợp quản trị rủi ro. Tuy nhiên, tùy từng loại rủi ro
mà người ta sẽ áp dụng những biện pháp khác nhau để quản lý rủi ro.
c. Nguồn gốc và nguyên nhân của rủi ro
 Nguồn gốc của rủi ro
− Nguồn gốc tự nhiên: Do con người chưa nhận thức hết các quy luật
của tự nhiên hoặc không đủ khả năng chế ngự hết những tác động của tự
nhiên dù đã nhận biết được quy luật như rủi ro động đất, rủi ro núi lửa
phun
− Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Tiến bộ khoa học kỹ thuật, một mặt, thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển với việc phát minh ra các máy móc, các
phương tiện tinh vi, hiện đại. Mặt khác, chính các thành tựu đó lại làm nảy
sinh các
rủi ro đe dọa đời sống con người khi có sự mất khả năng kiểm soát, chế ngự
nhất thời. Ví dụ: Nổ, đổ vỡ máy móc, điện giật
Bên cạnh đó, xã hội phát triển cùng với các mối quan hệ nảy sinh càng
ngày càng nhiều, càng phức tạp và không phải lúc nào cũng diễn một cách
thuận lợi. Các mâu thuẫn tất yếu sẽ phát sinh dẫn đến phá vỡ các mối quan
hệ
xã hội, trở thành một trong những nguyên nhân của các tổn thất. Ví dụ:
chiến
tranh, trộm cắp, đình công
 Nguyên nhân của rủi ro
- 12 -
− Nguyên nhân khách quan: Các nguyên nhân được coi là khách quan
nếu nó độc lập với hoạt động của con người. Hay nói cách khác, đây là

những
nguyên nhân xảy ra ngoài ý muốn, ngoài sự kiểm soát, và không phải từ
hành
động trực tiếp của con người. Nguyên nhân khách quan có thể là:
• Trường hợp bất khả kháng gắn với tự nhiên, hoặc gắn với đời sống
xã hội như: gió, bão, sóng thần, động đất, núi lửa…,
• Các trường hợp ngẫu nhiên: gắn liền với hoạt động của con người
nhưng nguyên nhân không rõ ràng, không xác định được. Các trường hợp
này
không ai gây ra các thiệt hại đã phát sinh, các sự cố xảy ra không có sự
tham
gia của con người.
− Nguyên nhân chủ quan: Biến cố xảy ra dưới sự tác động của con
người. Nhóm nguyên nhân này rất đa dạng và phức tạp. Có thể khái quát
một
số nguyên nhân sau đây:
• Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm, chính trị không ổn định,
hệ thống pháp luật luôn thay đổi, pháp chế không nghiêm, tập quán xã hội
khác biệt… Nhóm nguyên nhân này gây hậu quả lớn và không mang tính
quy
luật nên khó dự đoán.
• Những sai lầm của các cá nhân, tổ chức về việc lựa chọn các chiến
lược kinh doanh.
• Thiếu thông tin kiến thức kinh doanh cũng chính là một nguyên
nhân gây ra những quyết định sai lầm dẫn đến rủi ro.
• Do bất cẩn, chủ quan không tập trung của các cá nhân, tổ chức.
- 13 -
• Do thiếu tinh thần trách nhiệm, đạo đức, phẩm chất, kinh nghiệm
nghề nghiệp, sức khỏe, tinh thần của mọi thành viên trong tổ chức,…
• Về phía doanh nghiệp: Rủi ro có thể xuất phát từ việc thiếu hiểu biết

kỹ thuật công nghệ mới, không nắm bắt được sự đổi mới nhanh chóng của
công nghệ, chưa có chiến lược nhân sự trong việc lựa chọn người quản lý
doanh nghiệp hoặc sự yếu kém của nhân viên không nắm vững nghiệp vụ,
luật pháp gây nên tổn thất cho doanh nghiệp.
d. Phân loại rủi ro
Có rất nhiều loại rủi ro và ngày càng xuất hiện thêm nhiều loại rủi ro
mới, phức tạp hơn trước do hoạt động của con người ngày càng đa dạng.
Để phân loại rủi ro, người ta dùng nhiều tiêu chí khác nhau.
 Theo bản chất của rủi ro, có thể chia rủi ro thành 2 loại là rủi ro suy đoán
và rủi ro thuần túy
- Rủi ro suy đoán còn gọi là rủi ro suy tính hay rủi mang tính đầu cơ.
Loại rủi ro này tồn tại những cơ hội tạo ra thuận lợi gắn với nguy cơ gây ra
tổn thất. Đây là loại rủi ro gắn liền trong với khả năng thành bại trong hoạt
động đầu tư, kinh doanh, đầu cơ và là lí do tồn tại của doanh nghiệp. Mỗi
doanh nghiệp đều buộc phải chấp nhận ít nhất một loại rủi ro mang tính
đầu cơ, ngay khi họ đăng ký kinh doanh và hy vọng có lãi, mặc dù biết rõ
ràng là cũng có thể bị lỗ. Ví dụ, rủi ro thay đổi giá cả, mức thuế không ổn
định, tình hình tài chính không ổn định. Tăng giá có thể mang lại nhiều lời
cho người có tồn kho nhiều và giảm giá sẽ làm họ bị thua thiệt lớn. Đặc
điểm cơ bản của loại rủi ro này thường là không được bảo hiểm nhưng có
thể đối phó bằng biện pháp rào chắn.
- Rủi ro thuần túy là những rủi ro chỉ có thể dẫn đến những thiệt hại
mất mát. Rủi ro này có nguyên nhân từ những đe dọa nguy hiểm luôn rình
rập như những hiện tượng tự nhiên bất lợi, những hành động sơ ý bất cẩn
- 14 -
của con người hoặc những hành động xấu của người khác gây ra Bất cứ
khi nào, ở đâu rủi ro thuần túy xảy ra thì cá nhân, tổ chức, xã hội sẽ bị thiệt
hại, mất mát về tài sản cũng như tinh thần. Như vậy khi rủi ro thuần túy
xảy ra thì sẽ không ai được hưởng lợi. Do đó, để có thể đối phó với loại rủi
ro này, người ta dùng bảo hiểm.

 Theo môi trường hình thành rủi ro, bao gồm các loại sau:
− Rủi ro do môi trường thiên nhiên: Đây là nhóm rủi ro do các hiện
tượng thiên nhiên như: Động đất, núi lửa, bão, lũ lụt, song thần, sét đánh,
đất
lở, hạn hán, sương muối,… gây ra. Những rủi ro này thường dẫn đến những
thiệt hại to lớn về người và của, làm cho các doanh nghiệp, trong đó có các
doanh nghiệp xuất khẩu bị tổn thất nặng nề.
− Rủi ro do môi trường văn hóa: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì
dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất
cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động” (Định nghĩa
về văn hóa của UNESCO). Rủi ro do môi trường văn hóa là những rủi ro do
sự thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán,… dân tộc khác, từ đó dẫn đến các
hành xử không phù hợp, gây ra những thiệt hại, mất cơ hội kinh doanh.
− Rủi ro môi trường xã hội: Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành
vi của con người, cấu trúc xã hội, các định chế,… là một nguồn rủi ro quan
trọng. Không nắm được điều này có thể gánh chịu những thiệt hại nặng nề.
− Rủi ro do môi trường chính trị: Môi trường chính trị có ảnh hưởng
rất lớn đến bầu không khí kinh doanh. Môi trường chính trị ổn định sẽ giảm
thiểu rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp. Khi một chính thể mới ra đời sẽ
có thể làm đảo lộn hoạt động của nhiều doanh nghiệp, tổ chức.
− Rủi ro do môi trường pháp luật: Xã hội luôn phát triển, tiến hóa,
nếu các chuẩn mực luật pháp không phù hợp với bước tiến của xã hội thì sẽ
- 15 -
gây ra nhiều rủi ro. Ngược lại nếu luật pháp thay đổi quá nhiều, quá
thường
xuyên, không ổn định, cũng gây ra những khó khăn rất lớn. Trong kinh
doanh
quốc tế, môi trường luật pháp phức tạp hơn, chuẩn mực của các nước khác
nhau. Nếu chỉ nắm rõ và tuân thủ chuẩn mực luật pháp của mình mà không
hiểu luật pháp của đối tác, thì sẽ gặp rủi ro.

− Rủi ro do môi trường kinh tế: Trong điều kiện hội nhập và toàn
cầu
hóa nền kinh tế thế giới mặc dù trong mỗi nước môi trường kinh tế thường
vận động theo môi trường chính trị, nhưng ảnh hưởng của môi trường
kinh tế
chung của thế giới đến từng nước là rất lớn. Mọi hiện tượng diễn ra trong
môi
trường kinh tế như tốc độ phát triển kinh tế, khủng hoảng, suy thoái kinh
tế,
lạm phát, … đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp,
gây ra những rủi ro, bất ổn. Đặc biệt các hiện tượng: tỷ giá hối đoái thay
đổi,
lãi suất thay đổi, giá cả hàng hóa biến động, sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp.
− Rủi ro do môi trường hoạt động của tổ chức: Trong quá trình
hoạt
động của mọi tổ chức có thể phát sinh rất nhiều rủi ro ở mọi lĩnh vực: nhân
sự, công nghệ, văn hóa tổ chức, quan hệ với nhà cung cấp (đầu vào), quan
hệ
với khách hàng tiêu thụ (đầu ra) ,… Rủi ro do môi trường hoạt động của tổ
- 16 -
chức có thể xuất hiện dưới nhiều dạng: thiếu thông tin hoặc có những
thông
tin không chính xác dẫn đến bị lừa đảo; máy móc, thiết bị bị sự cố; tai nạn
lao
động, sản phẩm bị thu hồi; chính sách tuyển dụng, đãi ngộ nhân viên không
hợp lí; hoạt động quảng cáo, khuyến mãi bị sai xót, …
− Rủi ro do nhận thức của con người: Khi nhận diện và phân tích
không đúng dẫn đến kết luận sai lầm. Nếu nhận thức và thực tế hoàn toàn

khác nhau thì ro càng lớn.
 Theo môi trường tác động, rủi ro được phân thành:
− Môi trường bên trong: Môi trường hoạt động nội tại của tổ chức.
Đối với một doanh nghiệp/tổ chức để nghiên cứu rủi ro từ môi trường bên
trong có thể chọn hướng tiếp cận khác nhau như: Theo lĩnh vực (quản trị,
Marketing, tài chính – kế toán,…); Theo bộ phận phòng ban, phân xưởng…
− Môi trường bên ngoài: Gồm những yếu tố, những lực lượng, những
thể chế,… xảy ra ở bên ngoài, doanh nghiệp không kiểm soát được, nhưng

ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Môi
trường bên ngoài được chia thành hai loại: Môi trường vĩ mô (kinh tế,
chính
trị, chính phủ, luật pháp, văn hóa – xã hội, địa lí, công nghệ…), Môi trường
vi
mô (môi trường cạnh tranh: nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh
hiện hữu, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, sản phẩm thay thế).
1.1.1.2. Các vấn đề về rủi ro tài chính trong doanh nghiệp
a. Khái niệm rủi ro tài chính
- 17 -
Rủi ro tài chính là các biến động thêm của tỷ suất sinh lời của vốn chủ
sở hữu và lợi nhuận trên cổ phiếu do doanh nghiệp sử dụng các khoản nợ
vay. [4, tr.278]
Do đó, có thể nói rủi ro tài chính là loại rủi ro gắn liền với quyết định
tài trợ hay nói cách khác, rủi ro tài chính là hậu quả của việc sử dụng đòn
cân nợ trong cấu trúc vốn, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp.
Xét trên một khía cạnh khác, rủi ro tài chính là sự xuất hiện các tình
huống dẫn đến việc suy giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp và trong
tình huống đặc biệt có thể làm doanh nghiệp phá sản.
b. Phân loại rủi ro tài chính trong doanh nghiệp
Thứ nhất, đó là rủi ro về mặt thị trường, bao hàm những tổn thất tiềm

năng do sự biến động bất lợi của các yếu tố trên thị trường tài chính, bao
gồm tỷ giá hối đoái, mức lãi suất, thị trường vốn, giá cả hàng hoá.
Thứ hai, đó là các rủi ro trong hoạt động sản xuất, ở đây là những rủi
ro xảy ra thuần tuý do những nhầm lẫn của con người, của phần mềm kế
toán, hoặc những thủ tục quản lý nội bộ chưa chuẩn gây ra những mất mát
hoặc tổn thất bất ngờ.
Thứ ba, rủi ro về tín dụng. Rủi ro về mặt tín dụng có thể hiểu đơn
giản là khả năng chịu tổn thất do phía các đối tác trả chậm hoặc mất khả
năng chi trả các khoản vay nợ hoặc các khoản phải thu.
Thứ tư, một loại rủi ro tài chính thường gặp là rủi ro trong khả năng
thanh toán, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự phá sản của
hàng loạt doanh nghiệp hiện nay.
c. Nguyên nhân gây ra những rủi ro tài chính trong doanh nghiệp
Các rủi ro tài chính có thể xuất phát từ nhiều nguồn, bao gồm các biến
đổi về lãi suất hay lãi suất gia tăng hay giảm sút, các giao dịch hối đoái,
- 18 -
việc mở rộng tín dụng ,phát hành cổ phiếu và sử dụng các chứng khoán dẫn
xuất như hợp đồng thanh toán ngay, quyền chọn,… Do đó, các doanh nghiệp
mở rộng tín dụng cho các khách hàng của mình khiến đưa đến các rủi ro tài
chính. Những biến động không thể dự đoán trước của tỷ giá, lãi suất và giá
cả hàng hóa không những ảnh hưởng đến lợi nhuận được báo cáo hàng
quý của một công ty mà còn có thể định đoạt liệu công ty có thể tồn tại hay
không. Một công ty không chỉ cần có các công nghệ sản xuất tiên tiến nhất,
nguồn cung lao động rẻ nhất hoặc là chiến lược tiếp thị lớn nhất, những
biến động giá cả đột ngột có thể đẩy những công ty được điều hành tốt rơi
vào tình trạng phá sản. Bên cạnh những biến động của các yếu tố trên,
những yếu tố cấu thành rủi ro kiệt giá tài chính thì rủi ro tài chính còn xảy
ra khi doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính, tức sử dụng nguồn vốn vay
trong kinh doanh. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự phá sản của phần
lớn các doanh nghiệp hiện nay khi không thanh toán được các khoản nợ tới

hạn.
d. Tác động của rủi ro tài chính
 Tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Rủi ro tỷ giá làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
so với các đối thủ ở yếu tố “giá của sản phẩm trên thị trường”. Nếu doanh
nghiệp chịu sự tác động của rủi ro tỷ giá dẫn đến tổn thất ngoại hối thì
doanh nghiệp sẽ phải tìm cách nâng giá bán sản phẩm để trang trải tổn
thất. khi đồng nội tệ tăng giá, một công ty thuần túy kinh doanh trong nước
vẫn bị tác động bởi tỷ giá do sự xuất hiện của các công ty cạnh tranh nước
ngoài có chi nhánh trong nước nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về tiêu
thụ trong nước. Như vậy giá cả hàng hóa ở nước ngoài bây giờ rẻ tương
đối so với hàng hóa trong nước, do đó giá sản phẩm của doanh nghiệp sẽ
- 19 -
không hấp dẫn so với các đối thủ cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ bị giảm sút.
 Tác động đến khả năng chịu đựng tài chính và tái đầu tư của doanh
nghiệp
Rủi ro tỷ giá, lãi suất, giá cả hàng hóa tác động đến việc hoạch định tài
chính của doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư dài hạn. Bên cạnh đó
doanh
nghiệp muốn phát triển bền vững, quá trình sản xuất, kinh doanh của
doanh
nghiệp phải diễn ra liên tục, vòng sau phải cao hơn vòng trước, đó chính là
quá trình tái đầu tư. Nguồn vốn để tái đầu tư là quỹ khấu hao, lợi nhuận
thu
được từ quá trình sản xuất kinh doanh trước đó. Khi rủi ro tài chính tăng
cao
không kiểm soát được, nguồn vốn để tái đầu tư bị giảm đi, thậm chí là một
số

âm. Do đó khả năng tái đầu tư bị triệt tiêu, doanh nghiệp không thể hoạt
động
liên tục, quy mô kinh doanh bị thu hẹp. Nếu điều đó xảy ra trong một thời
gian dài, doanh nghiệp có thể sẽ “biến mất” trên thị trường. Với những
doanh
nghiệp đang thực hiện dự án đầu tư rủi ro tài chính có thể làm cho dự án
đầu
tư phải dừng lại thậm chí là “ nằm chờ vĩnh viễn” do tổng mức đầu tư tăng
đột biến, lãi suất tiền vay tăng cao, việc vay vốn bị chặn lại.
 Tác động đến lợi nhuận ròng của doanh nghiệp
- 20 -
Khi có những thay đổi trong giá hàng hóa, lãi suất và tỷ giá sẽ làm
thay
đổi giá trị một khoản tiền thu được hoặc các khoản chi phí.
Biến động trong tỷ giá đã làm cho doanh thu và chi phí không tương
thích khi nhập khẩu hàng nước ngoài bán hàng trong nước hoặc ngược lại.
Ngoài ra biến động tỷ giá làm thay đổi giá trị công ty khi tài sản ở nước
ngoài
được chuyển đổi sang đồng nội tệ. Tác động của thay đổi tỷ giá có thể ảnh
hưởng tiêu cực đáng kể đến lợi nhuận ròng của công ty.
Thay đổi trong lãi suất cũng có thể tác động đến báo cáo kết quả kinh
doanh, tác động đến các khoản thu hoặc các khoản chi phí. Đa số các công
ty
đều tập trung quan tâm vào chi phí lãi vay, thay đổi lãi suất tác động đến
chi
phí của công ty, có thể làm thay đổi số lượng hàng hóa do công ty bán ra.
Tác động biến động của giá cả hàng hóa ảnh hưởng đến các khoản thu
hoặc các khoản chi phí. Tác động này phản ánh trong báo cáo thu nhập của
các công ty theo hướng làm tăng giảm khoản thu hoặc tăng giảm khoản chi
phí của một công ty. Việc tăng giá dầu trong các năm qua, độ nhạy cảm

giao
dịch đối với giá dầu xuất hiện trong báo cáo thu nhập của các công ty theo
hướng tăng các khoản thu của các công ty sản xuất dầu, tăng chi phí với
các
công ty sử dụng dầu.
 Tác động đến dòng tiền của doanh nghiệp
Các luồng tiền vào của doanh nghiệp (dòng tiền vào) và các luồng tiền
ra khỏi doanh nghiệp (dòng chi) diễn ra một cách thường xuyên liên tục.
- 21 -
Trên
thực tế tại những thời điểm nhất định có thể xảy ra, hiện tượng lượng tiền
vào
doanh nghiệp (số thu) nhỏ hơn lượng tiền ra khỏi doanh nghiệp (số chi)
đến
hạn. Khi đó, tình trạng mất cân đối về dòng tiền đã xảy ra. Sự mất cân đối
này
tiềm ẩn một rủi ro lớn đối với hoạt động kinh doanh.
Sự mất cân đối dòng tiền được chia thành: mất cân đối tạm thời và
mất
cân đối dài hạn. Mất cân đối tạm thời về dòng tiền có thể khắc phục được
bằng nhiều biện pháp và hậu quả thường không lớn. Mất cân đối dài hạn
xảy
ra do những nguyên nhân quan trọng như: phần định phí trong tổng chi phí
của doanh nghiệp quá lớn; vốn lưu động tự có quá ít; nợ khó đòi tăng lên;
doanh thu chưa đủ bù đắp các khoản chi phí thường xuyên; v.v…
Khi rủi ro tài chính tăng cao do các biến động về giá cả hàng hóa, tỷ
giá
và lãi suất đã tác động lớn làm mất cân đối dòng tiền trong doanh nghiệp

do tác động dây chuyền giữa các doanh nghiệp, số nợ phải thu, đặc biệt là

nợ
phải thu khó đòi tăng lên, mất cân đối tạm thời rất dễ chuyển thành mất
cân
đối dài hạn. Mất cân đối dài hạn về dòng tiền có thể làm cho doanh nghiệp
bị phá sản.
- 22 -
1.1.2. Tổng quan về phân tích rủi ro trong doanh nghiệp
1.1.2.1. Sự cần thiết của việc phân tích rủi ro
Đối với doanh nghiệp: Phân tích rủi ro là công cụ để phát hiện những
rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Bất kỳ ngành nghề
kinh doanh với điều kiện và môi trường kinh doanh khác nhau thế nào đi
chăng nữa cũng luôn tồn tại những nhân tố gây bất lợi có ảnh hưởng
không tốt đến sự phát triển của doanh nghiệp. Chỉ khi tiến hành phân tích
mới phát hiện những yếu tố bất lợi đó và có những giải pháp ngăn chặn kịp
thời để giảm thiểu rủi ro và mang lại hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp.
Đối với nhà đầu tư: Để đưa ra quyết định đầu tư, các nhà đầu tư xem
xét tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua viêc phân tích hiệu quả
của doanh nghiệp. Tuy nhiên đó chỉ mới là một mặt để xem xét tinh hình tài
chính của doanh nghiệp. Những kết luận rút ra từ nội dung phân tích này
sẽ không đầy đủ nếu ta không xem xét một dạng khác của nó, đó là phân
tích rủi ro của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp chỉ
có thể được xem xét tương ứng với một mức rủi ro mà nó có thể chịu và
ngược lại. Nhà đầu tư chỉ chấp nhận một rủi ro đầu tư tương ứng với một
hiệu quả trông chờ nào đó. Phân tích rủi ro của doanh nghiệp, nhà đầu tư
sẽ biết được mức độ rủi ro của doanh nghiệp từ đó đưa ra quyết định có
nên đầu tư hay không.
Đối với các chủ nợ: Các chủ nợ quan tâm đầu tiên đó là mức độ an
toàn của các doanh nghiệp để đảm bảo trả nợ. Thông qua việc phân tích rủi
ro của doanh nghiệp, các chủ nợ sẽ biết được mức độ an toàn của doanh
nghiệp từ đó đưa ra quyết định cho vay hay không và mức vay là bao nhiêu.

Doanh nghiệp có mức rủi ro càng thấp sẽ được các nhà cho vay càng tin
tưởng, ưu tiên để tiếp cận với nguồn vốn của họ.
1.1.2.2. Các nguồn thông tin để phân tích rủi ro
- 23 -
a. Báo cáo tài chính
 Bảng cân đối kế toán
Đây là một báo cáo tài chính tổng hợp dùng để phản ánh tổng quát
toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của
doanh nghiệp dưới hình thức tiền tệ tại một thời điểm nhất định. Qua bảng
cân đối kế toán ta thấy được toàn bộ giá trị tài sản hiện có, hình thái vật
chất của tài sản, nguồn hình thành tài sản đó và đánh giá khái quát được
tình hình tài chính, sự biến động tăng giảm của nguồn vốn chủ sở hữu. Nó
là một ảnh chụp (tĩnh) chứ không phải là một cuốn phim (động) và phải
được phân tích dựa trên sự so sánh với các bản cân đối kế toán trước đây
và các báo cáo hoạt động khác. Dựa vào số liệu trên bảng cân đối kế toán ta
có thể tính được các chỉ tiêu để phân tích các vấn đề cần thiết của doanh
nghiệp.
 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Là báo cáo tài chính tổng hợp cho biết tình hình tài chính của doanh
nghiệp trong từng thời kỳ nhất định, phản ánh tóm lược các khoản thu, chi
phí, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp, kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh theo từng hoạt động kinh doanh (sản xuất
kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất thường). Bên cạnh đó, báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với
Nhà nước của doanh nghiệp trong thời kỳ đó. Dựa vào số liệu trên báo cáo
kết quả kinh doanh, người sử dụng thông tin có thể kiểm tra, phân tích,
đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, so sánh
với kỳ trước và với doanh nghiệp khác để nhận biết khái quát hoạt động
trong kỳ và xu hướng vận động.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ

Được lập để trả lời những câu hỏi liên quan đến luồng tiền ra vào
trong doanh nghiệp, tình hình trả nợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp
- 24 -
trong từng thời kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về
những luồng vào, ra của tiền và coi như tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn
có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một
khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về giá trị do những sự thay đổi về lãi
suất. Những luồng vào ra của tiền và những khoản coi như tiền được tổng
hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, lưu
chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài
chính và lập theo phương pháp trực tiếp, gián tiếp.
 Thuyết minh báo cáo tài chính và các báo cáo kế toán nội bộ khác
Đây là báo cáo mô tả các phương pháp kế toán, phương pháp tính giá,
phương pháp khấu hao… mà doanh nghiệp đang sử dụng. Đồng thời nó
cũng cung cấp thêm các thông tin chi tiết hơn cho các khoản mục quan
trọng trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
như: tiền và tương đương tiền, tài sản cố định, các khoản vay, các khoản
phải thu, phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu… phục vụ thêm cho công tác phân
tích cho cụ thể và xác thực. Ngoài báo cáo tài chính doanh nghiệp, còn sử
dụng thêm các báo cáo quản trị khác mang đặc thù của doanh nghiệp và
nhu cầu quản lý để phân tích hiệu quả hơn.
b. Các nguồn thông tin khác
Ngoài thông tin từ báo cáo kế toán, phân tích rủi ro doanh nghiệp còn
sử dụng nhiều nguồn thông tin khác để các kết luận trong phân tích có tính
thuyết phục hơn. Các nguông thông tin khác được chia thành 3 nhóm sau:
 Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu nhiều sự tác động bởi
nhiều nhân tố thuộc môi trường vĩ mô nên phân tích cần dặt trong bối cảnh
chung của kinh tế trong nước và khu vực. Kết hợp thông tin này sẽ đánh giá
đầy đủ hơn tình hình tài chính và dự báo nguy cơ của doanh nghiệp. Những

thông tin quan tâm bao gồm:
- 25 -

×