Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.63 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
Phần mở đầu
1. Cơ sở phương pháp luận
2. Ý nghĩa của học tập môn học
3. Lý do chọn đề tài
4.Đối tượng nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu
6.Phạm vi nghiên cứu
Phần nội dung
A. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC(1945-1954)
Chương 1: Cơ sở lý luận
1. Hoàn cảnh lịch sử của đường lối
1.1. Đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền Cách mạng (1945 - 1946)
1.2 Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
2. Chủ trương của Đảng
Chương 2: Thực trạng
1. Quá trình hình thành và nội dung chủ trương của đảng
2. lấy ví dụ một trận đánh minh họa( đưa số liệu hình ảnh , phân tích )
3. kết quả, ý nghĩa
4. Nguyên nhân thắng lợi
5. Bài học kinh nghiệm
Chương 3. Kết luận kiến nghị
B. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC THỐNG
NHẤT TỔ QUỐC (1954-1975)
Chương 1. Cơ sở lý luận
1. Giai đoạn (1954-1964)
1.1 Hoàn cảnh lịch sử
2.1 chủ trương, đường lối của đảng
2. Giai đoạn (1965-1975)
1.1 Hoàn cảnh lịch sử


2.1 Chủ trương , đường lối của đảng
Chương 2: Thực trạng
1. Giai đoạn (1954-1964)
1.1 Quá trình hình thành , nội dung , ý nghĩa của đường lối
1.2 Nêu trận đánh tiêu biểu thể hiện rõ đường lối của đảng
2. Giai đoạn (1965-1975)
2.1 Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối
2.2 Nêu trận đánh tiêu biểu thể hiện rõ đường lối của đảng
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi
4. Bài học kinh nghiệm
Chương 3 . Kết luận kiến nghị
Phần Kết
Phần mở đầu
1. Cơ sở phương pháp luận
Thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Ý nghĩa của học tập môn học
a) Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về đường lối của Đảng trong
thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
b) Bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng theo mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm của sinh viên trước những nhiệm
vụ trọng đại của đất nước.
c) Giúp sinh viên vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực trong
giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội theo đường lối,
chính sách của Đảng
3. Lý do chọn đề tài:
Chương I. Dân tộc việt nam có một truyền thống lịch sử vẻ vang về dựng nước và giữ
nước dân tộc ta đã trãi qua 1000 năm bị giặc phương bắc đô hộ và phải trải qua hơn 30
năm kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc mĩ xâm lược , và để đạt được kết quả
vẻ vang như ngày hôm nay chúng ta đã phải hy sinh nhiều thứ trong dó có cả máu và nước

mắt của đồng bào và đâ tộc ta và để đạt được thành tựu như thê không thể không nhắc
đến đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta trong hai cuộc kháng chiến chống pháp và
mỹ đảng chính là người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn cho cả dân tộc
Việt nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ và sáng tạo.
chính vì lẽ đó mà nhóm 10 chúng em xin chọn đề tài” Đường lối kháng chiến chống thực
dân pháp và đế quốc mỹ xâm lược 1945-1975” với mong muốn là được hiểu thêm về
truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc và hơn nữa muốn góp một phần nhỏ của mình
nhằm truyền đạt lại những truyền thống đó lại cho các bạn trẻ để các bạn hiểu thêm về
Đảng về dân tộc Việt nam mình góp một hành trang cho các ban sinh viên có vững tin
bước vào đời với tự hào về Đảng về đất nước Việt nam.
4. Đối tượng nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgic, ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng
hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa thích hợp với từng
nội dung của môn học
6. Phạm vi nghiên cứu: đường lối kháng chiến của đảng trong hai cuộc kháng chiến
chống pháp và chống mi từ 1945-1975
Chương II. Nội dung
Chương III. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN
VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƯỢC(1945-1954)
Chương IV. Chương 1: Cơ Sở Lý Luận
1. Hoàn cảnh lịch sử của đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 -
1946)
Chương V. -Hoàn cảnh Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám
Chương VI. Thuận lợi:
- Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ
Cộng hoà ra đời, Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền
trong cả nước.
- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh kiên

cường bất khuất chống ngoại xâm. Truyền thống đó càng được phát
huy khi nhân dân ta đã thực sự trở thành người làm chủ đất nước,
thực sự được hưởng thành quả do cách mạng đem lại, nên có quyết
tâm cao độ trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
- Sau chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ
thống thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển trở thành một
dòng thác cách mạng; phong trào dân chủ và hoà bình cũng đang
vươn lên mạnh mẽ. Về cơ bản và lâu dài thì tình hình ấy có lợi cho
cách mạng Việt Nam.
Chương VII. Khó khăn:
Chương VIII. Chính quyền Nhà nước vừa ra đời còn non trẻ chưa được củng cố vững chắc.
Lực lượng vũ trang cách mạng đang trong thời kỳ hình thành, các công cụ bạo lực khác
chưa được xây dựng.
Chương IX. -Về kinh tế :nền kinh tế nước ta bị kiệt quệ sau nhiều năm chiến tranh.Tài
chính, kho bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng Đông Dương (một nửa rách nát), ngân hàng Đông
Dương vẫn đang nằm trong tay tư bản Pháp. Bên cạnh đó, bọn Tưởng Giới Thạch mang
tiền quan kim và quốc tệ sang tiêu ở Việt Nam gây rối loạn thị trường.
Chương X. -Về văn hoá: 95% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn
nặng nề.
- Về chính trị:
Chương XI. + Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 Đà Nẵng trở ra): Gần 20 vạn quân Tưởng lũ lượt
vào miền Bắc. Sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu chính
quyền cách mạng, đưa bọn tay sai lập chính quyền bù nhìn và thực hiện chính sách cứơp
bóc nhân dân Việt Nam.
Chương XII. + Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào): Trên một vạn quân Anh cũng mượn
tiếng là vào tước vũ khí của Nhật, nhưng kỳ thực là chúng mở đường cho thực dân Pháp
cướp lại nước ta. Ngày 23/9/1945 dưới sự yểm trở của 2 sư đoàn thiết giáp Anh, Pháp đã
nổ súng tấn công Sài Gòn, chính thức xâm lược nước ta lần thứ 2.
Chương XIII. Trên đất nước ta lúc này còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải
giáp nhưng một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng với quân Anh,

dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam. Chưa bao giờ, cùng
một lúc cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều kẻ thù như thời điểm này. Chúng có
thể mâu thuẫn với nhau về lợi ích kinh tế nhưng đều thống nhất với nhau trong âm mưu
chống cộng sản, thủ tiêu chính quyền cách mạng, xoá bỏ thành quả mà cuộc CMT8 vừa
giành được.
Chương XIV. Hoàn cảnh lịch sử của đường lối kháng chiến chống thực dân pháp
- Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành
phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều
cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh - Hàng Bún
(Hà Nội). Đồng thời Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta, đòi phải
tước hết vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ
đô.
- Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ
trung ương Đảng ta đã họp tại Vạn Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì
của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội
nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có
kết quả. Hội nghị cho rằng khả năng hoà hoãn không còn. Hoà hoãn
nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Do
đó, hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến
trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực
hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến
được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường
trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên
Đài tiếng nói Việt Nam.
Chương XV. Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là: cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự
do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng
đánh thắng quân xâm lược.
Chương XVI. Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây

bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã
chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân
đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
Chương XVII. 3.Chủ trương của đảng đối với chủ trương xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng(1945-1946)
Chương XVIII. .Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng
Chương XIX. Tình hình khó khăn trên đặt ra trước mắt Đảng và nhân dân ta những nhiệm vụ
nặng nề và cấp bách. Chúng ta vừa phải xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở
các cấp, vừa phải khôi phục kinh tế, giải quyết nạn đói, nạn thất học, vừa phải đấu tranh
với các thế lực thù địch để bảo vệ chính quyền cách mạng và khẳng định vị thế của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Nội dung chủ trương:
a. + Mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng.
b. + Khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”
c. + Về xác định kẻ thù: “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
d. + Về nhiệm vụ: có 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là:
“củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện
đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù,
thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch
và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
Chương XX. Tóm lại: Những chủ trương trên đây của Ban chấp hành trung ương Đảng được
nêu trong bản chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ra ngày 25/11/1945 đã giải quyết kịp thời
những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong tình thế mới
vô cùng phức tạp và khó khăn của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới khai sinh.
Chương XXI. Kháng chiến và kiến quốc là tư tưởng chiến lược của Đảng, của Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, quyết tâm đẩy mạnh kháng chiến
chống thực dân Pháp, bảo vệ và xây dựng chế độ mới.
Chương XXII. 3.2 Chủ trương của đảng đối với đường lối kháng chiến chống thực dân pháp
Chương XXIII. 3.2.1 Quá trình hình thành chủ trương đường lối của đảng

Chương XXIV. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta mà đứng đầu là chủ tịch Hồ
Chí Minh đã vạch ra đường 1ối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến của quân và
dân ta. Đường 1ối đó được xuất phát từ những văn kiện chính sau đây:
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946)
- Ban chi thị Toàn dân kháng chiến của Ban thường vụ trung ương Đảng
(22/12/1946).
-Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh 1947.
Từ những văn kiện ấy dần dần hình thành đường 1ối kháng chiến của ta. Đường
1ối đó 1à: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, và tự lực cánh sinh. Đường 1ối
này đã thể hiện tính chất của cuộc kháng chiến của nhân ta 1à:
- Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa, chống lại một
cuộc chến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích: Giành độc 1ập và thống nhất
Tổ Quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
- Trong cuộc kháng chiến này, dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình, vừa đấu
tranh cho hòa bình thế giới.Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam do đó
còn là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc 1ập, vì dân chủ hòa bình.
3.2.2 Nội dung đường lối kháng chiến chống pháp
Chương XXV. + Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh
thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật
sự cho Tổ quốc.
Chương XXVI. + Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân
dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải
phóng và dân chủ mới.
Chương XXVII. + Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản
động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
Đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến phải tự cấp, tự túc về mọi
mặt".
Chương XXVIII. + Nhiệm vụ kháng chiến:
1. Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.

2. Trong quá trình kháng chiến không thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến
hành từng bước chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối
liên minh công nông, phân hoá cô lập kẻ thù.
3. Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.
Chương XXIX. Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
Chương XXX.Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ
quân làm nòng cốt… "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất
kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện
mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
Chương XXXI. Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hoá, ngoại giao. Trong đó:
Chương XXXII. Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây
dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc
yêu chuộng tự do, hoà bình.
Chương XXXIII. Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích
chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến.
Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào
tạo thêm cán bộ".
Chương XXXIV. Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông,
cầu, cống, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến
vừa xây dựng đất nước”.
Chương XXXV. Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây
dựng nền văn hoá dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Chương XXXVI. Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương
thực lực. "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm
phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Chương XXXVII. Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh

của Pháp, để có thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan
lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
Chương XXXVIII. Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối
chính trị, chủ động xây dựng và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi
trọng viện trợ quốc tế.
Chương XXXIX. Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất
định thắng lợi.
Chương XL. Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng
đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về
chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước
lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc
kháng chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Chương XLI. Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng
ta chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn,
đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu
phương, tìm cách chống phá thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt
đánh người Việt" của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm 1950 đã
giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động
chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.
- Đầu năm 1951, trước tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương
có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ
nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của
nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan
trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều
kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối
cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
- Tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã họp đại hội đại biểu
lần thứ II tại Chiêm Hoá - Tuyên Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí

Minh trình bày và ra Nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương
thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của ba dân
tộc đi đến thắng lợi. ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên
là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc,
phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng Bí thư
Trường Chinh trình bày tại Đại hội của Đảng lao động Việt Nam đã
kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng lao
động Việt Nam.
Chương XLII. Nội dung của Chính cương Đảng lao động Việt Nam.
Chương XLIII. + Tính chất xã hội Việt Nam có ba tính chất: Dân chủ nhân dân một
phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn
chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu
thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Chương XLIV. + Đối tượng cách mạng Việt Nam có hai đối tượng:
Chương XLV. •Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc
Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
Chương XLVI. •Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản
động.
Chương XLVII. + Nhiệm vụ cách mạng:
Chương XLVIII. •Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự
cho dân tộc.
Chương XLIX. •Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người
cày có ruộng.
Chương L. •Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Chương LI. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn
thành giải phóng dân tộc.
Chương LII. + Động lực của cách mạng gồm: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân

tộc. Ngoài ra còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp
và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là công nông, lao động trí óc. Giai cấp
công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Chương LIII. + Sắp xếp loại hình cách mạng: Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của
Lênin (cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản)
gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường
Chinh giải thích:
Chương LIV. Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
Chương LV. Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng
đất cho nông dân.
Chương LVI. Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.
Chương LVII. Đây là sự bổ sung và phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết
Mác- Lênin mà công lao to lớn thuộc về đồng chí Trường Chinh.
Chương LVIII.+ Phương hướng tiến lên của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá
trình lâu dài và đại thể trải qua ba giai đoạn:
Chương LIX. •Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Chương LX. •Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế
độ dân chủ nhân dân.
Chương LXI. •Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội
Chương LXII. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.
Chương LXIII. + Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng
là giai cấp công nhân. Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của
nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
Chương LXIV. + Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến

thắng lợi.
Chương LXV. + Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ
sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô,
thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên - Lào.
- Đường lối, chính sách của Đảng ta đã được bổ sung, phát triển qua
các hội nghị trung ương tiếp theo.
Chương LXVI. + Tại HN trung ương lần thứ nhất (3 - 1951), Đảng ta đã nhấn mạnh
chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, củng cố và gia cường
quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích; gia cường việc lãnh đạo
kinh tế tài chính, thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi
vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp, tích cực tham gia phong trào bảo vệ
hoà bình thế giới, củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức.
Chương LXVII. + Nghị quyết HNTƯ lần thứ hai (họp từ 27/9/1951 đến ngày
5/10/1951), đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba
nhiệm vụ lớn là:
• Ra sức tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự.
• Ra sức phá âm mưu thâm độc của địch là lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt.
• Đẩy mạnh kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm, củng cố và phát
triển sức kháng chiến đoàn kết.
Chương LXVIII. + Tại HNTƯ lần thứ tư (tháng 1 - 1953) vấn đề cách mạng ruộng đất
được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm
tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng, muốn kháng chiến hoàn toàn
thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh
tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.
Chương LXIX. + HNTƯ lần thứ năm (11 - 1953), Đảng quyết định phát động quần
chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến.
Chương LXX. Chương 2 thực trạng
I. GIỚI THIỆU SƠ VỀ CUỘC KHÁNG CHIẾN
Chương LXXI. Lực lượng

Chương LXXII. Theo phương Tây:
Quân Pháp: 190.000
Các đồng minh ở thuộc địa Đông Dương: 55.000
Quốc gia Việt Nam: 150.000
Theo Việt Nam: 100.000 (1946) 239.000 (1950)
Chương LXXIII. Theo phương Tây:
125.000 lính chính quy
75.000 ở các quân khu
250.000 dân quân
Theo Việt Nam:
80.000 quân chính quy
-1.000.000 du kích (1946) 120.000 quân chính quy
1.000.000 du kích (1947)
230.000 quân chính quy
-3.000.000 du kích (1950)
Chương LXXIV. 166.000 quân chính quy
2.000.000+ du kích (1953)
Chương LXXV.
Chương LXXVI. Liên hiệp Pháp
Chương LXXVII. Pháp
Chương LXXXVII. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Chương LXXXVIII. Quân đội Nhân dân Việt Nam
1. Quân đoàn Viễn Đông Pháp
Chương LXXVIII. Liên bang Đông
Dương
Chương LXXIX. Nam Kỳ quốc
Chương LXXX. Quốc gia Việt
Nam
1. Quân đội Quốc gia Việt Nam
Chương LXXXI. Vương quốc Lào

Chương LXXXII. Vương quốc
Campuchia
Chương LXXXIII. Anh
Chương LXXXIV. Ấn Độ thuộc Anh
Chương LXXXV. Nhật Bản
Chương LXXXVI. MAAG
Chương LXXXIX. Pathet Lào
Chương XC. Mặt trận Lào Issara
Chương XCI. Chính phủ kháng chiến Lào
Chương XCII. Khmer Issarak
Chương XCIII. Chính phủ kháng chiến
Campuchia
Chương XCIV.
Chương XCV. Thời gian Chương XCVI. 19 tháng 12 năm 1946 – 1 tháng 8 năm
1954
Chương XCVII. Địa điểm Chương XCVIII. Đông Dương thuộc Pháp , phần lớn tại
Việt Nam
Chương XCIX. Chỉ huy
Chương C. Philippe Leclerc de Hauteclocque
(1945-46)
Jean-Étienne Valluy (1946-48)
Roger Blaizot (1948-49)
Marcel-Maurice Carpentier (1949-50)
Jean de Lattre de Tassigny (1950-51)
Raoul Salan (1952-53)
Henri Navarre (1953-54)
Chương CI. Hồ Chí Minh
Võ Nguyên Giáp
Nguyễn Chí Thanh
Hoàng Văn Thái

Văn Tiến Dũng
Phạm Văn Đồng
Trường Chinh
Souphanouvong
Chương CII.
Chương CIII. Theo phương Tây:
Quân Pháp: 190.000
Các đồng minh ở thuộc địa Đông Dương: 55.000
Quốc gia Việt Nam: 150.000
[1]

Chương CV. Theo phương Tây:
125.000 lính chính quy
75.000 ở các quân khu
250.000 dân quân
[4]
Chương CIV.
Theo Việt Nam: 100.000 (1946)
239.000 (1950)
Theo Việt Nam:
80.000 quân chính quy
-1.000.000 du kích (1946)
120.000 quân chính quy
1.000.000 du kích (1947)
230.000 quân chính quy
-3.000.000 du kích (1950)
Chương CVI. 166.000 quân chính quy
2.000.000+ du kích (1953)
Chương CVII.
II. CÁC GIAI ĐOẠN CHỐNG PHÁP

Chương CVIII. Cầm cự: bao gồm gian đoạn vừa đánh vừa đàm trước 19/12/1946 đến
hết Chiến dịch Việt Bắc . Thời này có cuộc Nam Bộ Kháng Chiến , cầm cự miền Nam,
miền Trung, Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp 6/3/1946 và Tạm ước Việt–Pháp 14/9/1946 Hà
Nội 1946 , nỗ lực vãn hồi hòa bình, di tản lên chiến khu. Cuối cùng là đánh bại Pháp trong
Chiến dịch Việt Bắc .
Chương CIX. Phòng ngự: sau chiến dịch Việt Bắc đến hết Chiến dịch Biên Giới. Có các
chiến dịch lớn: Chiến dịch Đông Bắc, Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, Chiến dịch Biên Giới.
Chương CX. phản công: Chiến dịch Trung Du (tháng 12-1950), Chiến dịch Đồng Bằng
(tháng 5-1951), Phòng tuyến Taxinhi,Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Chiến dịch Tây Bắc
(14/10 – 1/12/1952), Chiến dịch Hòa Bình 1952, Chiến dịch Thượng Lào (8/4 –
3/5/1953), Kế hoạch Nava, Chiến cục Đông Xuân 1953-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ
(13/3 – 7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông
Dương
Chương CXI. CÁC QUÁ TRÌNH CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
Chương CXII. Thế thượng phong của Pháp và các cố gắng thương lượng của Việt Minh
1. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, các lực lượng vũ
trang của Việt Minh đã nổ súng chống Pháp tại nhiều khu vực thành
thị trên cả nước: Hà Nội, Nam Ðịnh, đường số 5, Vinh, Huế, Đà
Nẵng , hoàn thành nhiệm vụ bao vây kìm chân và tiêu diệt quân
Pháp, tạo thời gian cần thiết để quân chủ lực tản về các căn cứ ở
nông thôn và để các cơ quan, công xưởng di chuyển lên vùng chiến
khu. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại Hà Nội (Xem Trận Hà Nội
1946). Tại đây, quân Pháp phải chiến đấu giành giật từng con phố
và phải chịu thương vong lớn, khoảng 100 lính Pháp được coi là bị
giết, 45 công dân Châu Âu thiệt mạng, 200 người mất tích
[18]
Trong
một hoàn cảnh chiến đấu vô cùng khó khăn và chênh lệch về vũ
khí, sau 57 ngày đêm chiến đấu ngoan cường trong lòng thành phố,
đến đêm 17 tháng 2 năm 1947 Trung đoàn Thủ đô mới rút ra khỏi

nội thành.
[19]
Đa số nhân dân Hà Nội và vùng ven cũng đã bỏ thành
phố vượt sông Hồng tản cư lên phía Bắc, tạo thế "vườn không nhà
trống".
2. Hồ Chí Minh vẫn chưa bỏ cuộc trong việc tìm kiếm một giải pháp
hòa bình. Ngay ngày đầu tiên của cuộc chiến, Việt Minh rải truyền
đơn trên đường phố Hà Nội thông báo với "nhân dân Pháp" rằng
chính phủ Việt Nam sẵn lòng tồn tại hòa bình trong Liên hiệp Pháp,
rằng chiến tranh nổ ra là do "bọn thực dân phản cách mạng tìm cách
chia rẽ và gây chiến", rằng chỉ cần Pháp công nhận độc lập và
thống nhất của Việt Nam thì thái độ hợp tác và hiểu biết lẫn nhau
giữa hai dân tộc sẽ được lập tức khôi phục. Ngày hôm sau, đài Việt
Minh bắt đầu định kì phát các lời kêu gọi tái đàm phán. Ngày 23
tháng 12, Hồ Chí Minh viết thư cho Marius Moutet, Bộ trưởng Bộ
các lãnh thổ thuộc địa, và tướng Henri Leclerc, đề nghị một cuộc
họp giữa đại diện cả hai bên. Một vài ngày sau, ông chính thức đề
nghị ngừng bắn và tổ chức một cuộc hội nghị hòa bình mới tại Paris
trong khuôn khổ Hiệp định sơ bộ hồi tháng 3. Nhưng tất cả đều
không đem lại kết quả gì, người Pháp muốn có phản ứng quân sự
mạnh trước khi tính đến chuyện đàm phán. Emile Bollaert, Cao ủy
Pháp mới được bổ nhiệm từ tháng 3 năm 1947, được tướng Leclerc
khuyên "đàm phán bằng mọi giá". Những người thân cận ông như
Pierre Messmer và Paul Mus cũng thiên về chiều hướng đối thoại.
Nhưng đã có hơn 1.000 binh sĩ Pháp chết hoặc mất tích, và cộng
đồng người Pháp ở Đông Dương phản đối kịch liệt việc thương
lượng với Việt Minh.
3. Ngày 23 tháng 4, qua Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Hoàng Minh
Giám, Hồ Chủ tịch lại gửi thông điệp tới Bollaert đề nghị ngừng
bắn lập tức và đàm phán. Tự tin vào ưu thế quân sự, Bollaert đáp lại

bằng một loạt các điều kiện đòi Việt Minh hạ vũ khí trước khi khôi
phục hòa bình. Hồ Chí Minh từ chối thẳng các yêu cầu này khi Paul
Mus đến chiến khu Việt Bắc gặp ông để truyền đạt thông điệp trên.
4. Mùa hè năm 1947, lực lượng chủ lực của Việt Minh có khoảng
60.000 người, chưa kể tự vệ và du kích địa phương. Vũ khí thiếu,
chủ yếu là do tự tạo và lấy được của Pháp. Yếu về hỏa lực nhưng cơ
động và có hỗ trợ lớn của nhân dân, các tiểu đoàn Việt Minh ngày
càng có khả năng tránh các trận càn của Pháp và tấn công đối
phương lại những nơi mình lựa chọn. Quân chủ lực chính quy của
Việt Minh tổ chức như quân đội phương Tây, nhưng thừa kế nhiều
kinh nghiệm chiến tranh cổ truyền của Việt Nam. Việt Minh tổ chức
du kích là những chiến sĩ bán quân sự, nửa bí mật nửa công khai,
sống tại nhà, vừa làm ruộng vừa chiến đấu trong lòng địch.
5. Cuộc chiến tranh du kích tại đồng bằng gây khó khăn lớn cho Pháp.
Ở mọi nơi, Việt Minh vẫn tự do đi lại, tuyển quân, thu thuế. Có
những hội tề (chính quyền làng xã thân Pháp) được lập ra để che
mắt Pháp nhưng hành động theo Việt Minh. Dân chúng gánh thóc
gạo từ vùng do Pháp chiếm đóng đi nộp thuế cho Việt Minh. Các
đội du kích được thành lập khắp các vùng bị chiếm quấy rối quân
Pháp, Pháp phải để phần lớn quân chủ lực giữ đồng bằng Bắc Bộ.
Mặc dù là vùng do Pháp kiểm soát, nhưng thực chất đồng bằng màu
mỡ đông dân đó vẫn là nguồn cung cấp nhân lực, hàng hóa và
lương thực lớn nhất cho Việt Minh. Thắng lợi duy nhất của Pháp
trong mùa hè này là về chính trị, khi sách lược hà khắc của tướng
Nguyễn Bình
[cần dẫn nguồn]
, tổng chỉ huy Việt Minh tại Nam Bộ, đã
làm nhiều người Việt ở Nam Bộ xa lánh
[cần dẫn nguồn]
và đẩy lãnh đạo

của các phái Hòa Hảo, Cao Đài về phía Pháp.
6. Hoàn thành việc đánh rộng ra vùng đồng bằng, Pháp quyết định
tiến công lên Việt Bắc để sớm kết thúc chiến tranh. Ngày 7 tháng
10 năm 1947, Chiến dịch Léa, cuộc tấn công vào chiến khu Việt
Bắc, bắt đầu. Quân Pháp tiến nhanh và mau chóng định vị được
những nơi đóng các cơ quan đầu não của đối phương, nhưng Hồ
Chí Minh và chính phủ của ông đã đi thoát, lực lượng vũ trang của
Việt Minh lặng lẽ lẩn vào rừng rồi quay ra đánh quân Pháp tại
những nơi mà họ chọn. Tuy Pháp không đạt được mục đích tiêu diệt
căn cứ Việt Bắc, nhưng họ đã cắt được đường số 4 và kiểm soát
biên giới Việt Trung tại Cao Bằng, cô lập Việt Minh với thế giới
bên ngoài.
2. Pháp sa lầy và giải pháp Bảo Đại
Chương CXIII. Sau chiến dịch Léa, xung đột lặng xuống. Thiếu phương tiện để tiếp tục
các chiến dịch tấn công, quân Pháp chỉ giới hạn trong các hoạt động vừa phải ở đồng
bằng. Nhưng cũng tại đồng bằng, Việt Minh tổ chức các đội du kích hoạt động bán công
khai, sống tại nhà, vừa làm ruộng vừa chiến đấu, thực hiện các hoạt động quấy rối quân
Pháp. Các cán bộ Việt Minh vẫn đi lại tuyển quân, thu thuế trong vùng Pháp kiểm soát.
Những vùng này vẫn tiếp tục là nơi cung cấp một số loại nhu yếu phẩm như thuốc men,
lương thực, vải vóc cho Việt Minh. Tại các chiến khu, Việt Minh củng cố căn cứ, tổ
chức tự sản xuất lương thực và vũ khí để có thể tự tồn tại lâu dài.
Chương CXIV.
Chương CXV.
Chương CXVI. Quân Pháp bắt giữ một người tình nghi là Việt Minh
Chương CXVII. Tại đồng bằng sông Hồng, các đội du kích được thành lập khắp các
vùng bị chiếm quấy rối quân Pháp. Cuối chiến tranh, du kích cầm giữ phần lớn quân Pháp
trong vùng đồng bằng. Mỗi chuyến hàng của Pháp từ Hải Phòng về Hà Nội phải tụ thành
đoàn lớn, nhiều xe tăng và lính bảo vệ mới đi thoát. Các đường bộ bị đào bới ngăn cản xe
cơ giới, đường sắt bóc hết gang thép làm vũ khí.
Chương CXVIII. Ở miền Trung Việt Nam, Việt Minh xây dựng được một vùng giải

phóng kéo dài từ Hội An đến Mũi Đại Lãnh, gần như ngăn đôi đất nước. Ở miền Nam,
quân Pháp ở tình thế tốt hơn do lực lượng Việt Minh ở đây ở xa và liên lạc rất khó khăn
với lực lượng ở miền Bắc. Lực lượng của tướng Nguyễn Bình bị đẩy vào vùng đầm lầy và
rừng núi, họ còn gặp sự chống đối của các nhóm dân tộc chủ nghĩ khác của người Việt.
Chương CXIX. Pháp bắt đầu tìm cách xây dựng một chính quyền bản xứ người Việt để
làm đối trọng với Việt Minh, và để thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để Pháp có
thể tiếp tục đứng chân tại Đông Dươn. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp
Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt
Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Tuy nhiên, chính
quyền Quốc gia Việt Nam non trẻ rất yếu ớt do các quyền quan trọng về quân sự, tài chính
và ngoại giao đều do người Pháp nắm giữ và quyền hành cao nhất trên thực tế là Cao ủy
Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập nhưng được huấn luyện kém và không
có sĩ quan chỉ huy cấp cao người Việt
[21]
. Pháp chỉ đơn giản là đưa những người lính mới
tuyển mộ được vào các quân đoàn viễn chinh của chính Pháp, tại đó, người chỉ huy là các
sĩ quan Pháp.
Chương CXX. 3. Chiến tranh đẩy mạnh - Việt Minh phản công
Chương CXXI. Năm 1950, Chiến tranh Đông Dương có sự thay đổi quan trọng, chuyển
sang một giai đoạn mới. Về phía Pháp, chiến tranh đã vào thế sa lầy tuy họ đã dùng đến
40-45% ngân sách quân sự và 10% ngân sách quốc gia. Với sự nổ ra của Chiến tranh
Triều Tiên vào tháng 6 năm 1950, Mỹ thay đổi thái độ về Chiến tranh Đông Dương, coi
Triều Tiên và Việt Nam là hai chiến trường phụ thuộc lẫn nhau trong cuộc chiến của
phương Tây chống lại chủ nghĩa cộng sản, tổng thống Mỹ Truman tuyên bố sẽ viện trợ
quân sự trực tiếp cho các nỗ lực của Pháp tại Đông Dương. Phía bên kia, năm 1949 ở
Trung Quốc, Đảng Cộng sản đã giành được quyền lực trên toàn quốc, họ nhanh chóng
công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chương CXXII. Thành công của Việt Minh trong Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950
đã phá được thế bị cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông dải biên giới Việt - Trung từ
Cao Bằng tới Vịnh Bắc Bộ để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ. Việt Minh bắt đầu chuyển

sang thế chủ động tấn công.
Chương CXXIII.
Chương CXXIV.
Chương CXXV. Bác sĩ Pháp chăm sóc cho 1 binh sĩ Việt Minh bị thương
Chương CXXVI. Không còn hy vọng tiến công hay bao vây chiến khu Việt Bắc, Pháp tổ
chức Phòng tuyến Taxinhi để bảo vệ vùng đồng bằng. Từ khi chuyển sang chủ động tiến
công, các chiến dịch liên tiếp của Việt Minh, Chiến dịch Trung Du, Chiến dịch Hoàng
Hoa Thám, Chiến dịch Hà Nam Ninh, Chiến dịch Hoà Bình, Chiến dịch Tây Bắc, Chiến
dịch Thượng Lào đã bóc vỏ Phòng tuyến Taxinhi khỏi đồng bằng, buộc Pháp duy trì một
lực lượng lớn bên trong để bảo vệ vùng đồng bằng Bắc Bộ
Chương CXXVII. Năm 1951, Việt Minh bắt đầu thực hiện các trận chiến quy mô lớn theo
kiểu kinh điển. Nhưng họ đã phải chịu thiệt hại lớn, các chiến dịch Hoàng Hoa Thám và
Hà Nam Ninh bị thất bại trước quân Pháp do tướng de Lattre de Tassigny chỉ huy. Trận
Hòa Bình mà de Lattre mở vào tháng 11 năm 1951 đã trở thành "cối xay thịt" đối với cả
hai bên. Khi trận đánh kết thúc vào tháng 2 năm 1952, Việt Minh chịu thương vong lớn,
nhưng họ đã học được cách đối phó với chiến thuật và vũ khí của Pháp, và họ đã thâm
nhập được sâu hơn vào trong vòng cung phòng thủ của Pháp.
Chương CXXVIII. Cuối năm 1952, Việt Minh đánh sang vùng núi phía Tây Bắc Việt Nam
rồi vượt sang lãnh thổ Lào. Chỉ huy mới của Pháp, tướng Raoul Salan cố gắng chặn đứng
cuộc tấn công này bằng cách đánh vào các tuyến hậu cần của Việt Minh, nhưng không có
kết quả. Đến tháng 12, quân Việt Minh vẫn chiếm giữ vùng biên giới Việt-Lào trong khi
quân Pháp đã quay trở lại bên trong tuyến phòng thủ mạnh bảo vệ đồng bằng sông Hồng.
Ở miền Trung, Việt Minh đã đạt được những thành công quan trọng. Vùng kiểm soát của
Pháp ở Tây Nguyên đã bị thu hẹp lại chỉ còn vài vùng ven biển hẹp ở quanh Huế, Đà
Nẵng, và Nha Trang. Những khu vực duy nhất mà Pháp còn có thành công là Nam Kỳ và
Campuchia.
Chương CXXIX. Mùa xuân năm 1953, Việt Minh tổ chức một lực lượng lớn đánh sang
Lào với sự hỗ trợ của Pathet Lào. Quân Pháp thành công trong việc ngăn không để Việt
Minh chiếm được Cánh đồng Chum và đến tháng 4 thì chặn được Việt Minh. Mùa mưa
đến buộc Việt Minh phải quay trở lại căn cứ.

Chương CXXX. Ở các vùng khác, Việt Minh tấn công phối hợp đồng bộ từ Nam Bộ,
Khu 5, Tây Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Bộ, buộc Pháp phân tán xé lẻ khối quân cơ
động. Việt Minh tiến đánh Tây Bắc, Pháp không còn lực lượng cơ động để ứng cứu, hình
thành Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954.
Chương CXXXI. .4 Kế hoạch Navarre và trận Điện Biên Phủ
Chương CXXXII. Năm 1950, Chiến tranh Đông Dương có sự thay đổi quan trọng, chuyển
sang một giai đoạn mới. Về phía Pháp, chiến tranh đã vào thế sa lầy tuy họ đã dùng đến
40-45% ngân sách quân sự và 10% ngân sách quốc gia. Với sự nổ ra của Chiến tranh
Triều Tiên vào tháng 6 năm 1950, Mỹ thay đổi thái độ về Chiến tranh Đông Dương, coi
Triều Tiên và Việt Nam là hai chiến trường phụ thuộc lẫn nhau trong cuộc chiến của
phương Tây chống lại chủ nghĩa cộng sản, tổng thống Mỹ Truman tuyên bố sẽ viện trợ
quân sự trực tiếp cho các nỗ lực của Pháp tại Đông Dương
[22]
. Phía bên kia, năm 1949 ở
Trung Quốc, Đảng Cộng sản đã giành được quyền lực trên toàn quốc, họ nhanh chóng
công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chương CXXXIII. Thành công của Việt Minh trong Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950
đã phá được thế bị cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông dải biên giới Việt - Trung từ
Cao Bằng tới Vịnh Bắc Bộ để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ. Việt Minh bắt đầu chuyển
sang thế chủ động tấn công.
Chương CXXXIV. Ví dụ về trân đánh ở Hà Nội 60 ngay1 đêm
1. Tuy nhiên, Chính phủ Pháp vẫn có dã tâm đô hộ Việt Nam. Biết rõ âm mưu đó, Đảng
và Chính phủ ta đã có những chủ trương và biện pháp chuẩn bị kháng chiến. Hà Nội
được giao nhiệm vụ là khi chiến tranh bùng nổ phải nhanh chóng giành thế chủ động,
chiến đấu giam chân địch một thời gian để hậu phương hoàn thành công việc chuẩn bị
và tổ chức kháng chiến. Phương châm là tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, đồng thời giữ
gìn và phát triển lực lượng để kháng chiến lâu dài. Kế hoạch của ta là xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân; chủ động ngay từ đầu tiến công làm rối loạn thế trận của địch;
sau đó một bộ phận lực lượng trụ lại thành một khu cố thủ ở giữa thành phố, kìm chân
địch ở bên trong; còn đại bộ phận lực lượng dãn ra chốt ở các cửa ô, tạo thế bao vây

nhiều tầng, nhiều lớp đánh địch ở bên ngoài. Hai bộ phận ấy dựa vào nhau mà chiến
đấu, làm cho địch trong ngoài đều bị đánh không thể tập trung lực lượng mau chóng
đánh rộng ra. Nội thành được chia là ba liên khu, Liên khu I là nơi quân ta chốt lại giữa
thành phố, còn Liên khu II và III cùng 5 khu ngoại thành là nơi quân ta xây dựng vành
đai bao vây địch.
Phía Pháp, bọn thực dân phản động xúc tiến phá hoại Hiệp định sơ bộ và rồi cả Tạm
ước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp ngày 14-9-1946 tại Paris.
Chúng đẩy mạnh những hoạt động quân sự lấn chiếm để đi đến thôn tính toàn bộ Việt
Nam.
Ngày 20-11-1946, chúng đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Bắc Ninh, đồng
thời cho hàng nghìn quân đổ bộ lên Đà Nẵng.
Ở Hà Nội, chúng tăng quân trái phép lên tới 6.500 tên được trang bị vũ khí đầy đủ, hiện
đại, đóng ở 45 cứ điểm then chốt trong thành phố. Hàng nghìn Pháp kiều cũng được
trang bị vũ khí, tổ chức thành những ổ tác chiến nằm ở những đường phố quan trọng.
Ngày 11-12-1946, chúng đốt Nhà thông tin Bờ Hồ. Ngày 10-12, chúng đặt mìn phá
công sự tự vệ ở nhiều nơi. Ngày 16-12, chúng xả súng vào công an ta đang làm nhiệm
vụ giữ trật tự. Ngày 17-12, chúng tiến công tự vệ, tàn sát nhân dân ở phố Yên Ninh.
Ngày 18-12, chúng đưa tối hậu thư đòi tước vũ khí tự vệ, chiếm Sở công an Hà Nội,
nắm quyền kiểm soát thành phố. Chúng khước từ đề nghị thương lượng do ta đưa ra.
Chúng công khai đòi tước bỏ chủ quyền của ta, bắt ta phải đầu hàng, quyết cướp nước
ta một lần nữa. Chúng đã xoá bỏ hoàn toàn mọi hiệp định. Khả năng hoà bình không
còn nữa.
Để bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hà Nội cùng với nhân dân cả
nước đứng dậy kháng chiến chống thực dân Pháp.
20 giờ 00 ngày 19-12-1946, quân dân Hà Nội nổ súng, mở đầu cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp xâm lược.
Tất cả các vị trí của địch ở thành phố đều bị tiến công, nhiều ổ tác chiến của chúng đã
bị tiêu diệt, như ở Nhà máy đèn Bờ Hồ, Nhà máy điện, Nhà máy nước Yên Phu, rạp
chiếu bóng Majestic… Địch bị giáng một đòn bất ngờ, thế trận bị đảo lộn, phải lúng
túng đối phó khắp nơi. Sau đó, địch phản kích lại, đánh chiếm những đầu mối giao

thông đồng thời tiến đánh các trụ sở cơ quan quan trọng của ta: Bắc Bộ phủ, Sở Bưu
điện, Uỷ ban hành chính Hà Nội, Bộ quốc phòng. Ở đâu quân Pháp cũng vấp phải sức
chiến đấu dai dẳng, quyết liệt của quân dân ta và bị tổn thất nặng nề. Ý đồ ngông cuồng
của Pháp định làm chủ thành phố trong 24 giờ đã hoàn toàn thất bại.
Từ ngày 21-12, quân dân Liên khu I trụ lại thành một chốt thép giữa lòng địch, thu hút
giữ chân chúng. Trong khi đó, các lực lượng của ta ở Liên khu II dựa vào ngoại thành,
tạo ra một vành đai vây hãm địch, phối hợp tác chiến với Liên khu I, trong và ngoài
cùng đánh. Địch bị kẹt ở giữa, lúng túng đối phó. Ta có điều kiện kéo dài thời gian,
giam chân và tiêu hao địch.
Sau khi kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” thất bại, Pháp phải tập trung quân địch
hòng tiêu diệt lực lượng ta ở nội thành, sau đó mới đánh ra ngoại thành. Chúng mở liên
tiếp các cuộc tiến công vào Hàng Da, chợ Hôm, Lò Lợn, Hàng Bông, Đại Cồ Việt, Ô
Cầu Dền, phía Nam khu Đông Kinh nghĩa thục… vào cuối tháng 12; đồng thời cố đánh
đường số 5 để viện binh từ Hải Phòng lên.
Quân đội ta đã thực hiện khẩu hiệu “mỗi người dân là một người lính”, “mỗi nhà là một
pháo đài”, “mỗi phố là một chiến tuyến”, phát huy nhiều sáng kiến đánh địch, với mọi
thứ vũ khí có trong tay, bám địch mà đánh với tinh thần “Sống chết với Thủ đô”. Tính
đến 29-12-1946, ở Hà Nội đã diễn ra 47 trận đánh ác liệt ở các khu phố nội thành.
Không tiêu diệt được lực lượng của ta ở nội thành, Pháp chuyển lực lượng tập trung
đánh ngoại thành để cô lập lực lượng trong nội thành. Từ 30-12 đến 6-1-1947 địch mở
liên tiếp 6 đợt tiến công đánh chiếm vành đai các cửa ô từ Lò Lợn đến Ô Cầu Dền, ngã
tư Kim Liên, Kim Mã, Ngọc Hà, Thuỵ Khuê, Yên Phụ. Ta đã chặn đánh quyết liệt,
giành đi giật lại từng tấc đất vành đai, đồng thời đánh mạnh ở Liên khu I.
Trong khói lửa chiến tranh, lực lượng của ta được rèn luyện và trưởng thành. Ngày 6-1-
1947, Trung đoàn Liên khu I – Trung đoàn Thủ đô được thành lập. Tiếp đó, Trung đoàn
48 (tháng 7-1947 được Quốc hội đặt tên là Trung đoàn Thăng Long) cũng được thành
lập ở Liên khu II, III. Ngày 13-1-1947, Đội quyết tử của Trung đoàn Thủ đô làm lễ
tuyên thệ trước khi bước vào cuộc chiến đấu mới.
Từ ngày 15-1, sau khi có viện binh từ Hải Phòng, địch tiếp tục mở những cuộc tiến
công mới trên đường vòng cung Vĩnh Tuy, ngã tư Trung Hiền, ngã tư Vọng, Bạch Mai,

ngã tư Sở, Ô Cầu Giấy… Đến 25-1, chúng kiểm soát được vòng cung bao quanh thành
phố. Quân ta lui ra ngoại thành sau khi gây cho địch nhiều tổn thất. Từ ngày 6-2, giặc
Pháp mở đợt tổng công kích vào Liên khu I. Quân ta chiến đấu ngoan cường, liên tục
bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch vào nhà Xô-va, Trường Ke; giành giật với địch từng
căn nhà, từng góc phố. Đêm 17-2-1947, sau khi hoàn thành việc giam chân địch, chiến
sĩ Liên khu I đã rút ra ngoài an toàn.
Sau 60 ngày chiến đấu ngoan cường (từ 19-12-1946 đến 17-2-1947), quân và dân Hà
Nội đã tiêu diệt hơn 2000 tên địch, phá huỷ hàng chục xe cơ giới, bảo toàn được lực
lượng để kháng chiến lâu dài.
Quân dân Hà Nội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Trung ương giao phó.
Phong trào đấu tranh trong Hà Nội bị tạm chiếm
Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút ra ngoài, Hà Nội tạm thời bị Pháp chiếm đóng. Chúng
một mặt tổ chức bộ máy cai trị, mặt khác bổ sung quân số, đóng ở nhiều vị trí, càn quét
nống ra ngoại thành.
Trong tình hình đó, Đảng bộ Hà Nội đã gây dựng và phát triển cơ sở Đảng, cơ sở quần
chúng, tổ chức lực lượng chính trị và vũ trang, phát động chiến tranh du kích, phá tề trừ
gian, phá kế hoạch lập phòng tuyến của địch. Nhiều trận đánh của du kích gây tiếng
vang như ở Xuân La, Cổ Nhuế, Nam Dư… Từ giữa năm 1949, Đảng bộ Hà Nội đẩy
mạnh xây dựng lực lượng, biến Hà Nội hậu phương của địch thành một chiến trường.
Cán bộ quân sự và công an được đưa nhiều vào thành phố. Đầu năm 1950, đã phát
động một chiến dịch xây dựng lực lượng vũ trang nội thành. Phối hợp với chiến trường
chính, đêm 18-1-1950, một đơn vị bộ đội tiến công sân bay Bạch Mai, phá 25 máy bay,
đốt 60 vạn lít xăng, diệt một số sĩ quan,binh lính địch.
Sau thất bại nặng nề ở biên giới phía Bắc, thu đông năm 1950, Pháp thực hiện kế hoạch
Đơtatxinhi, tập trung lực lượng phòng ngự đồng bằng Bắc Bộ, trong đó Hà Nội là cái
chốt quan trọng nhất. Vì vậy địch tăng cường phòng thủ Hà Nội. Trên địa bàn nội ngoại
thành ken dầy thêm đồn bót. Đồng thời địch quyết phá hết các cơ sở kháng chiến trong
thành phố, bình địch ngoại thành củng cố và mở rộng nguỵ quyền, nguỵ quân.
Về phía ta, do Hà Nội nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, Đảng bộ đã chuyển hướng
hoạt động, kết hợp đấu tranh chính trị, kinh tế với đấu tranh vũ trang; kết hợp hoạt

động hợp pháp, nửa hợp pháp với hoạt động bí mật. Nhờ đó, mặc dù tập trung lực
lượng mạnh, dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo, địch vẫn không phá được phong trào kháng
chiến ở Hà Nội. Đến mùng 3 rạng sáng ngày 4-3-1954, một đơn vị vũ trang của ta tập
kích sân bay Gia Lâm, phá huỷ 18 máy bay vận tải và kho xăng, gây nhiều khó khăn
cho địch trong việc tiếp tế cho Điện Biên Phủ.
Nhiều hoạt động quân sự đã phối hợp chặt chẽ với quân đội ta ở Điện Biên Phủ và cổ
vũ mạnh mẽ nhân dân Thủ đô đẩy mạng kháng chiến.
Về phong trào quần chúng, bất chấp mọi hành động đàn áp, mua chuộc, lôi kéo, nhân
dân Hà Nội vẫn hướng về kháng chiến đấu tranh với địch theo điều kiện và khả năng
của mình (có sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố).
Sau khi học sinh Trần Văn Ơn ở Sài Gòn bị địch giết hại, ngày 9-1-1950, học sinh, dinh
viên Hà Nội lập tức bãi khoá, để tang để tỏ tình đoàn kết đấu tranh với học sinh sinh
viên Sài Gòn – Chợ Lớn. Cuộc đấu tranh của học sinh được đông đảo các tầng lớp nhân
dân ủng hộ, làm chấn động dư luận.
Từ tháng 4-1950, ở Hà Nội liên tiếp nổ ra những cuộc đấu tranh của học sinh, chống
văn hoá nô dịch; của tiểu thương chợ Đồng Xuân đòi bỏ thuế thương vụ, giảm thuế chỗ
ngồi; của công nhân giao thông đòi tăng lương, chống dãn thợ…
Trong năm 1952, phong trào đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày phát triển. Quần
chúng đấu tranh chống giá sinh hoạt đắt đỏ, chống thuế; chống bắt thanh niên đi lính;
đòi tăng lương, không làm thêm giờ, không được phạt vạ vô cớ; không đi phu đắp
đường, xây bốt; không vào bảo an, hương dũng…
Tháng 1-1953, nhân dân đấu tranh chống cuộc bầu cử “Hội đồng thành phố” bù nhìn và
“Hội đồng hương chính” ở các xã; đại bộ phận cử tri không đi bỏ phiếu. Tháng 5-1953,
quần chúng đến các trại lính ở Ngọc Hà, Lò Đúc, Sinh Từ… đòi chồng con, anh em và
tuyên truyền thanh niên bị bắt lính bỏ về nhà. Cùng với cuộc đấu tranh của công nhân
đòi tăng lương, cuộc đấu tranh của tiểu thương các chợ đòi giảm thuế kéo dài từ tháng
5 đến tháng 8 năm 1953. Nổi bật trong thời gian này là phong trào chống bắt lính.
Thanh niên học sinh chống chủ trương quân sự hoá trong học đường; học sinh các
trường Minh Tân, Tây Sơn, Khai Thành, Chu Văn An, các trường đại học Văn khoa, Sư
phạm bãi khoá chống học quân sự.

Phong trào đấu tranh chống văn hoá nô dịch cũng có những chuyển biến mới. Ngày 23-
2-1954, trong “Hội nghị giáo dục toàn quốc” của bù nhìn, họp ở Hà Nội, đại biểu của
giáo viên và học sinh yêu cầu dùng tiếng Việt ở bậc đại học, chống học nhồi sọ… Ngày
10/03, nhân dịp kỷ niệm Hai Bà Trưng, phụ nữ tổ chức nói chuyện ở Nhà Hát Lớn,
công khai lấy kiến nghị chống truỵ lạc hoá thanh niên.
Thực hiện chủ trương của Thành uỷ, hưởng ứng bản kiến nghị đòi lập lại hoà bình của
trí thức Sài Gòn, ngày 12/04/1954, một số trí thức tiêu biểu ở Hà Nội đã ký bản kiến
nghị các bên tham chiến thương lượng chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình. Cuộc vận
động ký kiến nghị hoà bình cũng được phát động trong các tầng lớp nhân dân và phát
triển nhanh chóng. Đến tháng 6/1954, cuộc vận động đã thu hút được hàng vạn chữ ký.
Phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội, đấu tranh kinh tế, văn hoá kết hợp với đấu
tranh chính trị và những hoạt động quân sự đã tiến công quân thù ở ngay sào huyệt của
chúng và giành được thắng lợi to
(a) Cuối năm 1946, sau một thời gian hòa hoãn tạm thời, thực dân Pháp bắt
đầu tỏ ra khiêu khích chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa một cách
không che đậy. Chúng cướp chính quyền ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Ngày 17
tháng 12 năm 1946 chúng gây ra vụ thảm sát tại phố Hàng Bún, ngày
18/12/1946 là vụ thảm sát tại phố Yên Ninh. Sự nhẫn nhịn của chính phủ
và nhân dân ta trước hàng loạt những vụ nổ súng vô cớ của quân Pháp càng
làm chúng thêm hung hăng hơn. Đến cao trào là ngày 18, 19 tháng 12 năm
1946, chúng gửi tối hậu thư cho chính phủ ta đòi giải tán lực lượng bảo vệ
thủ đô và giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng. Trước tình hình đó,
chúng ta không thể nhân nhượng thêm được nữa. Đúng 20 giờ ngày 19-12-
1946, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn quốc bước vào cuộc
kháng chống thực dân Pháp xâm lược. Trước đó, ngày 12/12/1946 Đảng đã
nhận định và đưa ra “Chỉ thị toàn dân kháng chiến”. Những tư tưởng và nội
dung cơ bản đó được đồng chí Trường Chinh phát triển đầy đủ trong tác
phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" vào cuối năm 1947. Tập hợp 3 tác
phẩm này gọi là “Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Ba văn kiện
trên đã chỉ ra những tư tưởng cơ bản đặt nền móng cho đường lối kháng

chiến và đã trở thành những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến
của Đảng. Đường lối đó được đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng (2-1951) khẳng định là hoàn toàn đúng đắn
Chương CXXXV. KẾT QUẢ CỦA CUÔC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PH ÁP
Chương CXXXVI. Đầu tháng 1 năm 1947, thành lập Trung đoàn Thủ Đô với lực lượng là
chiến sỹ và tự vệ Hà Nội, trung đoàn này về sau là nòng cốt của Sư đoàn Quân tiên phong
308, chỉ huy Vương Thừa Vũ. Sư đoàn có mệnh danh là sư đoàn thép, được các sử gia và
các nhà nghiên cứu tại Việt Nam cũng như quốc tế coi là một trong những sư đoàn xuất
sắc nhất trên thế giới. (Xem Phillip Davidson, Vietnam at war,) Theo công sứ Mỹ
O'Sullivan, người Việt Nam chiến đấu với một sự "ngoan cường và dũng cảm chưa từng
thấy", gợi lại hình ảnh binh lính Nhật trong Đại chiến thế giới lần thứ hai
[

Chương CXXXVII. Với lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ, thiếu thốn, phải chống lại lực
lượng tinh nhuệ được vũ trang hiện đại của Pháp, cầm chân và tiêu hao quân Pháp trong
gần 2 tháng là một kỳ công đáng khích lệ cho quân đội non trẻ của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Các lực lượng Quyết tử Việt Nam đã thực hiện chiến thuật chiến tranh đô thị
cầm chân quân Pháp, tạo thời gian để chính quyền Việt Nam rút ra và tổ chức cuộc chiến
tranh lâu dài, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của quân Pháp, tạo điều kiện
sau này để chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành thắng lợi quyết định cuối cùng
tại trận Điện Biên Phủ.
Chương CXXXVIII. Về phía Pháp, chiếm được Hà Nội với tổn thất tương đối nhỏ (chừng
vài trăm thương vong trên tổng số chừng 110.000 quân Pháp có mặt tại Đông Dương vào
đầu năm 1947) cũng là một chiến thắng. Quân Pháp tin tưởng sau khi chiếm được Hà Nội,
họ sẽ có thể dễ dàng và nhanh chóng bình định được toàn bộ Việt Nam, nhưng cuộc chiến
đã kéo dài 9 năm, kết thúc tại chiến trường Điện Biên Phủ với thất bại hoàn toàn của
người Pháp. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất này, thương vong của Pháp
là 140.992, trong đó có 75.867 chết và mất tích, 65.125 bị thương; các quân đội đồng
minh ở Đông Dương chịu thương vong 31.716 người, trong đó có 18.714 chết và mất tích,
13.002 bị thương. Số thiệt mạng của Việt Minh được ước tính khoảng gấp 3 lần tổng số

thiệt mạng của Pháp và đồng minh. Khoảng 25.000 dân thường Việt Nam bị thiệt mạng.
Chương CXXXIX. Cuộc chiến đã góp phần làm nước Pháp suy sụp và phân hóa. Các
chính phủ hiếu chiến bị lật đổ liên tiếp. Pháp chi phí 3.000 tỷ quan, tương đương 7 tỷ
USD (trung bình 1 tỉ quan/ngày). Chính phủ Pháp thay đổi 20 lần, trung bình mỗi chính
phủ chỉ tồn tại 7 tháng (có chính phủ chỉ tồn tại trong 7 ngày). 7 lần cao uỷ Pháp bị triệu
hồi, 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận.
Chương CXL. Theo kết quả của hiệp định Geneva, Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng
vừa giành được thắng lợi quan trọng trên chiến trường, tập kết về miền Bắc. Lực lượng
Quốc gia Việt Nam trực thuộc Liên Hiệp Pháp, và cả những người mong muốn độc lập
cho Việt Nam nhưng bác bỏ lý luận đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của những
người cộng sản quân đội Pháp tập kết về miền Nam. Trên 1 triệu người dân từ miền Bắc
đã di cư vào Nam (trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, chiếm khoảng 2/3 số
người Công giáo ở miền Bắc), và 140.000 người (đa số là cán bộ kháng chiến của Việt
Minh) từ miền Nam tập kết ra Bắc.
Chương CXLI.
Chương CXLII.
Chương CXLIII. Người di cư vào Nam theo chương trình Passage to Freedom (Con
đường đến Tự Do) (8.1954)
Chương CXLIV. Ngày 10 tháng 10 năm 1954, quân Pháp chính thức rút khỏi Hà Nội,
Quân đội Nhân dân Việt Nam vào tiếp quản thủ đô. Thời kỳ hòa bình tại miền Bắc Việt
Nam bắt đầu. Ở miền Nam, quân đội Pháp dần dần rút đi và trao quyền lực cho chính
quyền Quốc gia Việt Nam.
Chương CXLV. Tuy nhiên, hiệp định Geneva không đem lại được hòa bình cho Đông
Dương. Tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam không được chính quyền Quốc gia Việt Nam
thực hiện (với cái cớ đưa ra là chính quyền này không tham gia ký kết hiệp định). Việt
Nam bị chia cắt thêm 20 năm nữa với chiến tranh tiếp tục nổ ra trên toàn Đông Dương với
sự tham gia của Mỹ thay thế cho Pháp. Cuộc chiến mới có quy mô và sức tàn phá lớn hơn
nhiều.
Chương CXLVI. Trên phạm vi thế giới, sự kết thúc của Chiến tranh Đông Dương cũng
đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thuộc địa trên toàn thế giới. Chẳng bao lâu sau đó, các

thuộc địa cũ của Pháp như Algérie, Tunisia và Maroc cũng theo gương Việt Nam nổi dậy.
Chương CXLVII. VI. NHẬN X ÉT ĐÁNH GIÁ V Ề CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP
1. Xác định đối tượng, mục đích và tính chất của cuộc kháng chiến.
Chương CXLVIII. Trong các văn kiện nêu trên, Đảng ta chỉ rõ đối tượng, nhiệm vụ và
mục đích của cuộc kháng chiến; "kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp đang dùng
vũ khí cướp lại nước ta".
- Xác định chính xác đối tượng chủ yếu của cuộc kháng chiến là vấn đề
chiến lược cực kỳ quan trọng, nhằm tập trung mũi nhọn để tiêu diệt
chúng, đoàn kết mọi lực lượng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ ngoài
nước để cô lập kẻ thù.
- Tính chất của cuộc kháng chiến là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc nhưng mang tính chất dân chủ mới. Vấn đề dân tộc vẫn là
hàng đầu nhưng bên cạnh đó có vấn đề dân chủ.
- Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập, tự do, thống nhất
thật sự, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân.
Chương CXLIX. Quán triệt mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến, Đảng ta đề ra
đường lối kháng chiến, chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược là đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; là đường lối tiến hành chiến
tranh nhân dân phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta.
Chương CL. 2. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến:
a) Kháng chiến toàn dân:
Chương CLI. Trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, điều cốt lõi và cơ bản nhất là
chiến lược toàn dân kháng chiến. Để đánh thắng những đội quân xâm lược lớn của chủ
nghĩa đế quốc, Đảng ta đã dựa vào sức mạnh của toàn dân, phát huy sức mạnh của khối
đoàn kết dân tộc. Với chiến lược toàn dân kháng chiến, Đảng đã tổ chức cả nước thành
một mặt trận, tạo nên thế trận "cả nước đánh giặc". Điều kiện chủ yếu để quyết định thắng
lợi của cuộc kháng chiến là huy động cho được sức mạnh toàn dân. Trong "Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến", chủ tịch HCM kêu gọi: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người

già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước".
Chương CLII. + Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch HCM không chỉ động viên,
cổ vũ cho toàn dân. Các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các nhân sĩ yêu nước trong khối
đoàn kết dân tộc đều cùng góp sức người, sức của cho kháng chiến.
Chương CLIII. + Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách trước mắt của cuộc kháng chiến
là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự. Đảng ta sớm
xác định được mục tiêu chính trị đúng đắn. Đó là điều cơ bản nhất, là điều kiện đi đến
thực hiện toàn dân kháng chiến. Do đó, trong kháng chiến, đảng ta đã biết tổ chức động
viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh giặc. Đảng đã phát động toàn dân tham gia
kháng chiến bằng nhiều biện pháp đa dạng, phong phú và phù hợp, làm cho toàn dân thấy
rõ mục đích kháng chiên, từ đó xác định trách nhiệm phải đứng lên giết giặc cứu nước cứu
nhà. Đồng thời, trong quá trình kháng chiến, đảng còn chăm lo thực hành những cải cách
dân chủ, giải quyết từng bước vấn đề ruộng đất, nhằm bồi dưỡng sức dân; nhân dân hăng
hái, phấn khởi, tự nguyện đóng góp ngày càng nhiều cho kháng chiến.
b) Kháng chiến toàn diện:
Chương CLIV.Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến, đảng chủ trương kháng
chiến toàn diện. Kháng chiến toàn dân gắn liên với kháng chiến toàn diện. Kháng chiến
toàn dân, toàn diện là nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân, có mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ.
Chương CLV. + Thực dân Pháp tiến hành chiến tranh tổng lực, đánh phá ta trên tất cả các
mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Để đánh bại chiến tranh tổng lực của
địch ta phải đánh chúng trên tất cả các mặt đó, tạo thành sức mạnh tổng hợp, tiến công
toàn diện kẻ địch.
Chương CLVI.+ Về chính trị: đảng ta nhấn mạnh vấn đề xây dựng khối toàn dân đoàn kết.
Trong suốt cuộc kháng chiến, đảng ta đã ra sức củng cố khối liên minh công, nông và trí
thức, không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc. Đảng đặc biệt chăm lo củng cố và
xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa, thường xuyên kiện toàn bộ máy kháng chiến từ

trung ương đến địa phương, kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng và đẩy mạnh đấu
tranh chính trị ở cả thành thị và nông thôn.
Chương CLVII. + Về quân sự: Đảng đã chăm lo vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân, xác định đánh lâu dài làm phương châm chiến lược, quán triệt tư tưởng
tích cực tiến công, kết hợp đánh địch cả bằng chiến tranh du kích và chiến tranh chính
quy, cả bằng quân sự, chính trị và binh vận. Phải xây dựng cho được ba thứ quân làm
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tiến công địch ở cả ba vùng chiến lược: nông thôn, đô
thị và miền núi.
Chương CLVIII. + Về kinh tế, ta vừa phải phá kinh tế địch, vừa xây dựng kinh tế của ta,
giảm tức, cải cách ruộng đất, xây dựng nền kinh tế của ta trong thời chiến. Đảng đã lãnh
đạo nhân dân ta vượt lên mọi khó khăn, xây dựng nền kinh tế tự chủ, bảo đảm nhu cầu của
kháng chiến. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ kháng chiến với kiến quốc.
Chương CLIX. + Về văn hóa: ta vừa chống lại văn hóa nô dịch của địch, vừa xây dựng
nền văn hóa mới ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Chương CLX. + Về ngoại giao: đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, mở rộng quan hệ quốc tế
nhằm tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu
và ủng hộ cuộc khán chiến của nhân dân ta.
Chương CLXI. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, ta đã tạo được sức
mạnh tổng hợp để đánh thắng thực dân Pháp xâm lược và cũng chính trong lòng cuộc
kháng chiến, chế độ dân chủ nhân dân được xây dựng và củng cố.
c) Kháng chiến lâu dài và dựa vào sức mình là chính:
Chương CLXII. Nước ta vừa giành độc lập, trên thế giới chưa có quốc gia nào công
nhận nền độc lập của Việt Nam. Chúng ta đang bị bao vây bốn phía. Do đó, khi tiến hành
cuộc kháng chiến, chúng ta không thể trông chờ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, mà chúng ta
phải tự lực cánh sinh.
Chương CLXIII. Trong các văn kiện nói trên, Đảng ta cũng chỉ ra rằng phương châm của
cuộc kháng chiến là: kháng chiến lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Đây cũng chính là
quy luật tất yếu của chiến tranh nhân dân do điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch
quy định. Đảng ta chỉ rõ: chỗ mạnh của địch là quân sự, chỗ yếu của địch là chính trị.
"Địch mạnh về ngọn, ta mạnh về gốc". Chiến lược của địch là đánh nhanh, thắng nhanh.

Ta dùng chiến lược đánh lâu dài để tiêu diệt địch.
Chương CLXIV. Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được thắng
lợi trong cuộc kháng chiến chống thức dân Pháp xâm lược. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện
đường lối kháng chiến đúng đắn: độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đường lối đó là sự kết tinh
những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mac-Lênin về cách mạng bạo lực, về chiến tranh
nhân dân được vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đường lối kháng chiến
trải qua thực tiễn chiến đấu được phát triển và hoàn chỉnh, là nguyên nhân đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Chương CLXV. V II. Kết Quả, Ý Nghĩa
Chương CLXVI. A 1 . Kết quả của việc thực hiện đường lối
Chương CLXVII. Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ
chức, tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp
được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng
bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Chương CLXVIII. Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn
bộ binh, một đại đoàn công binh - pháo binh. Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường
18, Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào đã tiêu diệt được nhiều sinh lực
địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và
cho cách mạng Lào Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử dân
tộc ta như một Bạch Đằng một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc
bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Chương CLXIX. Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự
và ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-
1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: "lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết
kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành
thương lượng nhằm mục đích giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam". Ngày 8-5-1954, Hội
nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương chính thức khai mạc ở Giơnevơ (Thuỵ
Sĩ). Ngày 20-7-1954, các văn bản của Hiệp nghị Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại

hoà bình ở Đông Dương được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
của quân dân ta kết thúc thắng lợi.
Chương CLXX. 4. Nguyên Nhân Thắng Lợi
Chương CLXXI. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là:
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng với đường lối kháng chiến đúng
đắn đã huy động được sức mạnh toàn dân đánh giặc; có sự đoàn kết
chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi - Mặt trận Liên Việt, được xây dựng trên nền tảng khối liên
minh công nông và trí thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo
ngày càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực
lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm
lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được
giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân
kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt
Nam, Lào, Campuchia cùng chống một kẻ thù chung; đồng thời có sự
ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ
nghĩa, các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân
tiến bộ Pháp.
Chương CLXXII. a2. Ý nghĩa lịch sử
Chương CLXXIII. Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng
chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở
rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông
Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân

tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chương CLXXIV. Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới, mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách
mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
Chương CLXXV. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa trên thế giới".
Chương CLXXVI. Bài Học Kinh Nghiệm
Chương CLXXVII. Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng
ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quan trọng.
Chương CLXXVIII. Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó
cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân,
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.
Chương CLXXIX. Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm
vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ
nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc,
bảo vệ chính quyền cách mạng.
Chương CLXXX. Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ
mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Chương CLXXXI. Thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài,
đồng thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ
thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa kháng
chiến đến thắng lợi.
Chương CLXXXII. Thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu
và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
Chương CLXXXIII. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU

NƯỚC THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1954-1975)
Chương CLXXXIV. Chương 1. Cơ sở lý luận
I. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
thống nhất tổ quốc (1954 - 1975)
1. Giai đoạn 1954 - 1964
a. Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7/1954
Chương CLXXXV. Sau Hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi
mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.
- Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế,
quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của Liên Xô; phong trào giải
phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ
La Tinh, phong trào hoà bình dân chủ lên cao ở các nước tư bản;
miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả
nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng
chiến; có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí
Nam.
- Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm
mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng;
thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai
phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong
hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc; đất
nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu,
miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở
thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Chương CLXXXVI. Đảng lãnh đạo đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền khác
nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7/1954. Đặc điểm bao trùm
và các thuận lợi khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối
chiến lược chung cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Chương CLXXXVII. b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
Chương CLXXXVIII.b1. Quá trình hình thành và nội dung đường lối

- Tháng 9/1954 bộ chính trị ra nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ
mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc
điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào
một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà
tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân
tán chuyển đến tập trung.
- Tại HNTƯ lần thứ bảy (3/1955) và lần thứ tám (8/1955) trung ương
Đảng nhận định: muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà
bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi
là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh
cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
- Tháng 12/1957, tại HNTƯ lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng được xác định: "Mục tiêu và nhiệm vụ cách
mạng của toàn đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương
pháp hoà bình.
- Tháng 1/1959 HNTƯ lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam.
Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp hành trung ương đã ra nghị
quyết về cách mạng miền Nam.
Chương CLXXXIX. Nội dung HNTƯ 15.
Chương CXC. + Hội nghị xác định tính chất xã hội miền Nam sau 1954 là xã hội thuộc địa
kiểu mới và nửa phong kiến.
Chương CXCI. + Mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân
ta ở miền Nam với đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai của chúng. Mâu thuẫn giữa nhân dân
miền Nam mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Trong hai mâu thuẫn trên, thì
mâu thuẫn chủ yếu ở miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc
mỹ xâm lược cùng tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm - tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện
cho bọn địa chủ phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất.
Chương CXCII. + Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam:

Chương CXCIII. •Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Chương CXCIV. •Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Chương CXCV. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ
hữu cơ với nhau nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất
nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Chương CXCVI. + Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô
Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện
độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà
bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo
vệ hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới.
Chương CXCVII. + Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa
vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh
đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền thống trị của đế quốc
và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân.
Chương CXCVIII. + Phương pháp cách mạng: Cần có sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù phân hoá cao độ đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. Sử dụng, kết hợp
những hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp, phối hợp chặt chẽ phong trào ở đô thị
với phong trào nông thôn và vùng căn cứ. Cần kiên quyết giữ vững đường lối hoà bình
thống nhất nước nhà. Đồng thời hội nghị dự báo đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến
nhất cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả
năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ và thắng lợi nhất định thuộc về ta.
Chương CXCIX. + Về mặt trận: Hội nghị chủ trương cần có mặt trận dân tộc thống nhất
riêng ở miền Nam có tính chất, nhiệm vụ và thành phần thích hợp nhằm tập hợp tất cả các
lực lượng chống đế quốc và tay sai.
Chương CC. + Về vai trò của Đảng bộ miền Nam: Hội nghị chỉ rõ sự tồn tại và trưởng thành
của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát xít là một yếu tố quyết định thắng lợi
phong trào cách mạng miền Nam. Phải củng cố Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, đề cao công tác bí mật, triệt để khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để

che dấu lực lượng đề phòng sự xâm nhập phá hoại của bọn gián điệp và những phần tử
đầu hàng, phản bội chui vào phá hoại Đảng.
Chương CCI. Nghị quyết hội Nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng
tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Chương CCII. Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính
là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn
chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) tại Hà Nội đã xác
định:
Chương CCIII. + Nhiệm vụ chung: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu
tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời
đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Chương CCIV. + Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại
có hai nhiệm vụ chiến lược:
Chương CCV. •Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Chương CCVI. •Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Chương CCVII. + Mục tiêu chiến lược: "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ
cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết
yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó
lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn
tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc".
Chương CCVIII. + Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục
tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng
thúc đẩy lẫn nhau".
Chương CCIX. + Vị trí, tác dụng:

Chương CCX. •Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và
bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của
toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.
Chương CCXI. •Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết
định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước.
Chương CCXII. + Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp
nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt
Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với
xu hướng chung của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn
sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra
chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy
đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".
Chương CCXIII. + Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện
thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và
lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng
nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Chương CCXIV. b2. Ý nghĩa của đường lối
Chương CCXV. Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách
mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền
Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam
và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được
sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức
mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự

đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra
được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung
của cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng
tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ
lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của
nhân loại và xu thế của thời đại.
- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở
mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được
những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ và tay sai ở miền Nam.
Chương CCXVI. 2. Giai đoạn 1965 - 1975
a. Bối cảnh lịch sử
Chương CCXVII. Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự
phá sản của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ ào ạt đưa quân Mỹ và quân các
nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ" với quy mô lớn; đồng
thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước trên phạm vi toàn quốc.
- Thuận lợi: khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách
mạng thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hoá. Sự chi viện
sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy
mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
Chương CCXVIII. Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961 - 1962,

×