Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

BÀI BÁO CÁO -Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.02 KB, 28 trang )

Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng ở Việt Nam
Năm 1943, diện tích rừng Việt Nam ước tính có khoảng 14,3 triệu ha (Maurand, 1943), vớI tỷ lệ
che phủ là 43,8%; trên mức an toàn sinh thái là 33%. Năm 1976 giảm xuống còn 11 triệu ha vớI
tỷ lệ che phủ còn 34%. Năm 1985 còn 9,3 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 30%. Năm 1995 còn 8 triệu
ha và tỷ lệ che phủ là 28%. Năm 1999 cả nước có 10,88 triệu ha rừng và độ che phủ là 33%
(Jyrki và cộng sự, 1999). Diện tích rừng bình quân cho 1 người là 0,13 ha (1995), thấp hơn
mức trung bình ở Đông Nam Á (0,42%).
Trong thời kỳ 1945 – 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân 100.000 ha năm. Quá
trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975 – 1990: Mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000
ha/ năm. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt
nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà
phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu. Tuy nhiên từ những năm 1990 – 1995, do công
tác trồng rừng được đẩy mạnh đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên.
Về chất lượng, trước năm 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m
3
/ha, trong
đó các loài gỗ quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Những cây gỗ có
đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng tre nứa với những cây tre
có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 – 12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe, 1998). Hiện
nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không
cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993 ước tính khoảng 525 triệu m
3
(trung bình 76 m
3
/ha).
Tốc độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m
3
/ha/năm, đối với rừng
trồng có thể đạt 5 – 10 m
3
/ha/năm (Castren, 1999).


Ngoài tài nguyên gỗ, rừng Việt Nam cũng rất giàu có về các loài tre nứa (khoảng 40 loài có ý
nghĩa thương mại và khoảng 4 tỷ cây tre nứa); Song mây có khoảng 400 loài ; hàng năm
khai thác khoảng 50.000 tấn
Trong rừng Việt Nam cũng phong phú về các loài dược liệu, hiện đã biết được 3800 loài (Viện
Dược liệu, 2002), trong đó có nhiều loài đã được biết và khai thác phục vụ cho việc chế biến
thuốc. Nhiều loài cây cho chất thơm, tanin, tinh dầu và dầu béo. Ngoài ra, rừng còn cung cấp
nhiều loại sản phẩm quý khác như cánh kiến, nấm, mật ong, hoa lan, thịt thú rừng.
Hiện nay, có rất nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo vệ như:
cẩm lai (Dalbergia bariaensis), trầm hương (Aquilaria crassna) sam bông (Amentotaya
argotenia), thông tre (Podocarpus neriifolius), gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), trắc
(Dalbergia cochinchinensis), giao xẻ tua (Sterospermum ferebriatum), gạo bông len
(Bombax insigne).
Các loài động vật quý hiếm như: báo gấm (Neophelis nebulosa), voọc quần đùi trắng
(Trachipythecus francoisi delaconri), gà lôi hồng tía (Lophura diardi), trĩ sao (Rheinartia
ocellata), chồn bạc má (Megogale personata geeoffrory), cu li lớn (Nycticebus coucang
boddaert), bò tót (Bos gaurus), cà tong (Cervus eldi), hổ (Panthera tigris).
Những nguyên nhân chính làm suy thoái rừng ở Việt Nam
Có thể nêu ra các nguyên nhân chính gây nên sự mất rừng và làm suy thoái rừng ở nước ta là:
- Đốt nương làm rẫy : sống du canh du cư; trong tổng số diện tích rừng bị mất hàng năm thì
khoảng 40 – 50% là do đốt nương làm rẫy. Ở Đắc Lắc trong thời gian từ 1991 – 1996 mất trung
bình 3.000 – 3.500 ha rừng/ năm, trong đó trên 1/2 diện tích rừng bị mất do làm nương rẫy.
- Chuyển đất có rừng sang đất sản xuất các cây kinh doanh, đặc biệt là phá rừng để trồng các cây
công nghiệp như cà phê ở Tây Nguyên chiếm 40 – 50% diện tích rừng bị mất trong khu vực.
- Khai thác quá mức vượt khả năng phục hồi tự nhiên của rừng.
- Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất độc hóa học trong chiến tranh, riêng ở miền Nam đã
phá hủy khoảng 2 triệu ha rừng tự nhiên.
- Do khai thác không có kế hoạch, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm lãng phí tài nguyên rừng.
- Do cháy rừng, nhất là các rừng tràm, rừng thông, rừng khộp rụng lá.
Việt Nam đối mặt với nguy cơ suy thoái đa dạng sinh học
Việt Nam đã và đang đối mặt với nguy cơ suy thoái đa dạng sinh học đặc biệt trong những

năm gần đây, là hậu quả tất yếu của ô nhiễm môi trường.
Thông tin trên được đề cập trong bài giảng của ông Hoàng Minh Đạo, Cục trưởng Cục kiểm soát
ô nhiễm, Tổng cục Môi trường, tại “Khóa dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường cho phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí” do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ
chức ngày 29/10 ở Hà Nội.
Ông Đạo cho biết, nước ta là nước nhiệt đới gió mùa, đa dạng về địa hình, khí hậu, do đó có tính
đa dạng sinh học rất cao, đặc biệt về các hệ sinh thái rừng, động thực vật, đất ngập nước và biển.

Để tăng cường bảo vệ đa dạng sinh học, Quốc hội đã ban hành luật Đa dạng Sinh Học,
chính thức có hiệu lực kể từ 01/07/2009. (Ảnh minh họa)
Cũng theo ông Đạo, Việt Nam là một trong khoảng trên 20 nước có mức độ đa dạng sinh học
hàng đầu trên thế giới (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới). Nhiều loài trong số này là đặc hữu
duy nhất ở nước ta hoặc chỉ tìm thấy ở rất ít nơi trên thế giới.
Rừng tự nhiên đang bị xuống cấp
Hiện nay, độ che phủ rừng tuy tăng nhưng chủ yếu là ở rừng trồng. Tuy nhiên, chất lượng của
hầu hết các vùng rừng tự nhiên còn lại đều đang bị xuống cấp. Diện tích rừng nguyên sinh chưa
bị tác động chỉ còn tồn tại trong các vùng rừng nhỏ, rời rạc tại các khu vực núi cao của miền Bắc
và Tây Nguyên.
Mất rừng và suy thoái rừng gây nên sa mạc hoá, làm nghèo đất tại nhiều địa phương, như một số
huyện ở tỉnh miền núi phía bắc Lào Cai; gây lũ lụt và hạn hán, đồng thời cũng làm trở việc cung
ứng lâm sản…
Hệ sinh thái biển đang bị đe dọa
Tình trạng khai thác, đánh bắt quá mức các nguồn lợi thủy, hải sản đang diễn ra ở nhiều nơi, nhất
là khai thác bằng các phương pháp có tính hủy diệt. Xu hướng quần thể của nhiều loại động thực
vật biển cũng đang suy giảm, ngày càng có nhiều loài hơn phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.
PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho hay,
có tới 90% ô nhiễm trên biển liên quan tới các hoạt động do tàu gây ra (sự cố tràn dầu, đắm tàu).
Cũng theo ông Hồi, chất thải sẽ tăng rất lớn ở vùng nước ven bờ tính đến cuối năm 2010: dầu
khoảng 35-160 tấn/ngày, nitơ tổng số 26-52 tấn/ngày và tổng amonia 15-30 tấn/ngày.
Diện tích đất ngập nước có chiều hướng suy giảm

Theo các nhà khoa học, đất ngập nước ở Việt Nam đang biến đổi đáng lo ngại. Chất lượng môi
trường và hệ sinh thái đất ngập nước ven đô thị, khu công nghiệp, vùng nuôi trồng thủy sản, sản
xuất lúa nước… ngày càng bị suy thoái. Cùng với đó, môi trường sống và di cư của nhiều loài
sinh vật bị phá hủy, các loại chất thải ngày càng gia tăng, nạn chặt phá rừng ngập mặn, sử dụng
không hợp lý các hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón trong sản xuất nông nghiệp
Nước ngầm bị khai thác quá mức phục vụ nuôi tôm và các dịch vụ đi kèm dẫn đến hiện tượng
thâm nhập mặn và lún sụt địa tầng cục bộ như vùng rìa phía đông nam bán đảo Cà Mau. Những
khu vực nuôi tôm trên cát, nơi nguồn nước ngầm tự nhiên không lớn và khan hiếm, trong khi nhu
cầu nước cho vùng nuôi ngày càng tăng
Hệ sinh thái rừng Việt Nam suy thoái trầm trọng 10/29/2009 12:18:47 PM .
(LĐĐT) - Đa dạng sinh học của Việt Nam
xếp thứ 16 trên thế giới. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà đa dạng sinh
học, các hệ sinh thái, nhất là hệ sinh thái rừng - hệ sinh thái có đa dạng sinh học cao nhất bị suy
thoái trầm trọng trong thời gian qua.
Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Rừng ngập mặn ven biển
cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các ao - đầm nuôi
trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch.
Gần đây, diện tích rừng tuy có tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn
chỉ ở mức khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực.
Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong các hoạt
động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu quả
bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nước,
giảm phát thải CO2.
Một trong những thành tựu quan trọng mà Việt Nam đạt được là thành lập được 126 khu bảo tồn
bao gồm nhiều các sinh cảnh quan trọng có ý nghĩa quốc tế. Nhưng nếu theo kịch bản về biến
đổi khí hậu của Ngân hàng thế giới (WB) nước biển dâng cao 1m sẽ có 78 sinh cảnh tự nhiên
quan trọng (27%), 46 khu bảo tồn (33%), 9 khu vực có đa dạng sinh học quan trọng (23%), 23
khu có đa dạng quan trọng khác (21%) bị tác động nghiêm trọng.
Nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần thể sinh vật của nhiều hệ

sinh thái. Các nhà khoa học đã chứng minh được sự di cư của một số loài do sự ấm lên của trái
đất, nhiều loài cây trên dãy Hoàng Liên Sơn đang phải "sơ tán" lên cao hơn để tồn tại. Giới khoa
học gọi đây là hiện tượng "dịch chuyển vành đai nhiệt lên cao". Đặc trưng trong số đó có thông
Diện tích rừng ngập mặn bị suy giảm nghiêm trọng.
Vân San Hoàng Liên - một loài chỉ tìm thấy duy nhất tại đây, trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao
2.200m - 2.400m, thì nay chỉ có thể gặp ở độ cao 2.400m - 2.700m. Cùng với nó, Thông thích
Xi-Pan, Thông thích SaPa và một số loài khác cũng đang "leo" dần lên cao.
Ngoài ra, ranh giới nhiệt của các hệ sinh thái đất ngập nước và lục địa cũng có xu hướng dịch
chuyển lên cao hơn. Các loài nhiệt đới sẽ giảm đi trong các hệ sinh thái ven biển có xu hướng
chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn trong các hệ sinh thái trên cạn các loài ôn đới (thường
cho năng xuất sinh học cao) sẽ giảm đi cấu trúc chuỗi và lưới thức ăn cũng thay đổi.
Nhiệt độ tăng còn làm gia tăng khả năng cháy rừng, nhất là các khu rừng trên đất than bùn vừa
gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa gia tăng lượng phát thải khí nhà kính làm gia tăng biến đổi
khí hậu.
Một nghiên cứu sinh về sinh học người Anh vừa phát hiện thêm 3 loại côn trùng mới trong một
chuyến đi thực địa trong rừng. Đây là 3 loại côn trùng duy nhất chỉ có ở nước ta ". " Thêm một
loài thực vật được phát hiện ở khu rừng Loài cây này vừa có giá trị nghệ thuật do có hình dáng
đẹp, hoa nhiều, thơm vừa là loài thuốc quí ".
Những thông tin tương tự thường xuất hiện trên báo chí, đài phát thanh và truyền hình khiến
người đọc luôn thấy hứng thú, bất ngờ và tự hào vì sự xuất hiện đa dạng và mới của các giống,
loài sinh vật ở Việt Nam.
Trải dài từ 8030 tới 230vĩ độ Bắc, với sự khác biệt về khí hậu và địa hình giữa các miền nên Việt
Nam có sự đa dạng lớn về môi trường tự nhiên và sinh học. Hệ sinh thái từ rừng mưa thường
xanh cận nhiệt đới ở phía Bắc tới rừng khộp nhiệt đới ở phía Nam, rừng ngập mặn và đất ngập
nước ven biển đã tạo ra hệ động, thực vật phong phú và có giá trị.
Lĩnh vực sinh học hiện nay vẫn còn nhiều bí ẩn bởi những gì chúng ta biết mới chỉ là một phần
rất nhỏ của thiên nhiên. Không chỉ các nhà sinh học trong nước mà nhiều nhà sinh học nước
ngoài đến Việt Nam để nghiên cứu về đa dạng sinh học (ĐDSH) bởi sự bùng nổ của công nghệ
sinh học, vấn đề kiểm soát các thông tin di truyền và an toàn sinh học được đặt ra trên phạm vi
quốc tế.

Đa dạng sinh học thường được nghiên cứu ở 3 góc độ: di truyền, loài và hệ sinh thái. Tuy nhiên,
những kiến thức khoa học hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá tính đa dạng của các dạng
sống và mức độ cũng như tốc độ suy thoái của chúng. Chỉ tính ở mức độ loài, số loài sinh vật
được mô tả mới chỉ hơn 1,7 triệu, chưa phản ánh số lượng thực của các loài, đặc biệt là các loài
côn trùng và vi sinh vật có trên trái đất.
Đa dạng sinh học là sự phong phú của tất cả thế giới sinh vật ở tất cả các dạng, các mức độ và sự
tổ hợp của chúng. Đó không chỉ là tổng số của các hệ sinh thái, các loài, các vật chất di truyền
mà còn bao gồm tất cả các mối quan hệ phức tạp bên trong và giữa chúng với nhau, với thế giới
vô sinh và với con người. Vì vậy, có thể cho rằng đa dạng sinh học là kết quả của sự tương tác
giữa hai hệ thống tự nhiên và xã hội.
Cho tới nay, nước ta thống kê được gần 13.000 loài thực vật và 12.000 loài động vật. Nhiều
nhóm sinh vật có tính đặc hữu cao, có giá trị khoa học và thực tiễn lớn, nhiều loài thú mới đã
được phát hiện. Việt Nam được xếp là một trong 16 nước có đa dạng sinh học cao nhất thế giới.
Tuy nhiên, do khai thác quá mức, con người đã làm suy thoái những tài sản quí giá, không thể
thay thế được mà thiên nhiên ban tặng. Trong vòng 50 năm trở lại đây, diện tích che phủ rừng ở
Việt Nam đã giảm đi hơn 30% rừng nguyên sinh chỉ còn chưa đến 10%. Nhiều loài động vật quí
hiếm như tê giác, bò rừng, trâu rừng và những loài cây như gỗ đỏ, gụ mật, hoàng liên chân gà
đang trong nguy cơ tuyệt chủng.
Nguyên nhân chính gây suy thoái đa dạng sinh học do tác động trực tiếp và gián tiếp của con
người. Mở rộng đất canh tác nông nghiệp vào đất rừng là một trong những nguyên nhân quan
trọng nhất: hình thức du canh đã biến 13 triệu ha rừng trước đây thành đất trống, đồi trọc. Vùng
ven biển, nhân dân nhiều nơi phá rừng ngập mặn quai đê lấn biển để trồng lúa, phá rừng làm ao
nuôi tôm đã làm nhiều rừng ngập mặn biến mất. Khai thác gỗ trái phép, khai thác củi phục vụ
nhu cầu sinh hoạt con người đã làm rừng bị cạn kiệt nhanh chóng, các loài gỗ quí còn lại không
đáng kể. Khai thác các lâm sản ngoài gỗ như song mây, tre nứa, lá, cây dược liệu để bán trên thị
trường trong nước và xuất khẩu, khu hệ động vật hoang dại bị khai thác bừa bãi làm nghèo tính
đa dạng. Hiện tượng cháy rừng ngày càng phổ biến với nhiều nguyên nhân khác nhau: riêng quí
I/1998 đã có 1.116 vụ cháy rừng, huỷ hoại 16.059 ha rừng.
Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác như việc xây dựng đường sá, cầu cống, đường dây
điện, hồ chứa nước các nguyên nhân sâu xa từ hậu quả của chiến tranh, sự tăng dân số đã gây

ra những biến động lớn về phân bố dân cư. Với gần 80% dân số sống ở nông thôn, đời sống phụ
thuộc vào nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên đã tạo nên thói quen xấu trong việc khai thác và
sử dụng tài nguyên cũng góp phần quan trọng làm suy thoái đa dạng sinh học.
Nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng kinh tế và văn hoá của đa dạng sinh học, Đảng và Nhà nước
đã có những cố gắng trong công tác bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học: thành lập các vườn
quốc gia, ban hành nhiều chính sách về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững Thành công
nhất có lẽ là việc xây dựng hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm hầu hết các hệ sinh
thái trong phạm vi toàn quốc với 10 vườn quốc gia; 61 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu bảo tồn
di tích văn hoá và lịch sử. Một số khu bảo tồn được trang bị cơ sở vật chất và bộ máy quản lý tốt
song vẫn còn nhiều khu bị xuống cấp. Vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học đang được quan tâm hàng
đầu trong bối cảnh ô nhiễm môi trường hiện nay.
Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam là một thực tế. Hãy cùng góp sức để ngăn lại quá trình
suy thoái và bảo tồn sự phong phú đa dạng sinh học ở nước ta vì đó là sự sống của tương lai
chúng ta.
sinh học
Tags: đa dạng sinh học, hơn bao giờ hết, sự suy giảm, hệ sinh thái, thế giới, báo cáo, chặn đứng, tự
nhiên, người, động
Theo một báo cáo được công bố hôm 19/5 tại London của LHQ, đa dạng sinh học
đang biến mất nhanh hơn bao giờ hết. Nếu không ngăn chặn tình trạng này, sức
khoẻ và cuộc sống của mọi người trên thế giới sẽ bị đe doạ.
Đây là báo cáo mới nhất trong một loạt báo cáo của dự án Đánh giá hệ sinh thái thiên
niên kỷ. Dự án kéo dài 4 năm với sự tham gia của hơn 1.300 nhà khoa học nhằm mục
đích phân tích dữ liệu về tài nguyên thiên nhiên của thế giới.
Trong 50 năm qua tổn hại mà con người gây ra cho nguồn đa dạng sinh học của thế
giới lớn hơn nhiều so với mọi thời kỳ khác trong lịch sử. Trong thế kỷ 20, do hoạt động
của con người mà tốc độ tuyệt chủng của các loài lớn gấp 1.000 lần so với tỷ lệ tuyệt
chủng tự nhiên. Báo cáo tiết lộ 12% loài chim, gần 25% động vật có vú và khoảng 30%
động vật đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Kể từ khi có đánh bắt cá thương mại,
nguồn cá toàn cầu đã giảm 90%. Nguyên nhân chủ yếu là hành động phá hoại các hệ
sinh thái tự nhiên như đồng cỏ và rừng . 10-20% tổng tài nguyên còn lại sẽ được

chuyển đổi sang các mục địch sử dụng đất khác, chẳng hạn như nông nghiệp, vào năm
2050.
Theo Kaveh Zahedi, Giám đốc Trung tâm giám sát bảo tồn thế giới của Chương trình
môi trường LHQ, nếu xu hướng này không bị chặn đứng, con người sẽ mất đi các lợi
ích quan trọng từ thế giới tự nhiên - các dịch vụ sinh thái. Ước tính khoảng 3,5 tỷ người
trên thế giới phụ thuộc vào các đại dương để có thực phẩm và khoảng 70% dân số thế
giới dựa vào tự nhiên để có các loại thuốc truyền thống. Georgina Mace, Giám đốc
khoa học tại Viện động vật học ở London, cho rằng các nước trên thế giới nên học tập
mô hình của châu Âu. Với các biện pháp ưu đãi về tài chính, châu Âu đã khuyến khích
nông dân để cho các loài thực vật tự nhiên, chim và côn trùng cư trú trên đồng ruộng.
Rừng mưa nhiệt đới có hệ sinh
thái đa dạng song đang ngày càng
thu hẹp so sự khai thác của con
người.
Do vậy, họ đã giúp đa dạng sinh học đã trở lại trên đất canh tác.
Các tác giả của báo cáo cũng tính toán rằng một hecta rừng đước nguyên vẹn có giá trị
hơn 1.000 đôla đối với những quốc gia như Thái Lan và chỉ đáng giá 200 đôla nếu bị
khai thác để nuôi trồng thuỷ sản.
Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng trên thế
giới
Tài nguyên sinh vật là nguồn sống chính của loài người, nền tảng của mọi nền văn minh trong
lịch sử phát triển của nhân loại. Tài nguyên sinh vật có giá trị cho cuộc sống của con người là
rừng và các động vật hoang dã sống trong rừng, là các nguồn lợi thủy sản chứa trong các sông,
hồ, đồng ruộng, đặc biệt tiềm tàng trong các biển và đại dương.
Rừng là yếu tố quan trọng nhất của sinh quyển và có ý nghĩa lớn trong sự phát triển kinh tế xã
hội, sinh thái và môi trường. Trên thực tế rừng đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng những hiểu
biết về rừng chỉ mới thực sự có được từ thế kỷ thứ XIX. Theo quan điểm học thuyết sinh thái
học, rừng được xem là hệ sinh thái điển hình trong sinh quyển (Tansley, 1935; Vili,
1957; Odum, 1966). Rừng là sự thống nhất trong mối quan hệ biện chứng giữa sinh vật – trong
đó thực vật với các loài cây gỗ giữ vai trò chủ đạo, đất và môi trường. Rừng là dạng đặc

trưng và tiêu biểu nhất của tất cả các hệ sinh thái trên cạn, đồng thời cũng là đối tượng tác động
sớm nhất và mạnh nhất của con người.
Việc hình thành các kiểu rừng có liên quan chặt chẽ giữa sự hình thành các thảm thực vật tự
nhiên với vùng địa lý và điều kiện khí hậu. Trong mỗi kiểu rừng được hình thành thì khí
hậu, đất đai và độ ẩm sẽ xác định thành phần cấu trúc và tiềm năng phát triển của thảm thực vật
rừng Các kiểu thảm thực vật rừng quan trọng trên thế giới là:
Rừng lá kim (rừng Taiga) vùng ôn đới có thành phần khá đồng nhất, phân bố chủ yếu ở
Bắc Mỹ, Châu Âu, Bắc Trung Quốc và một số vùng núi cao nhiệt đới. Kiểu rừng này có năng
suất thấp hơn vùng nhiệt đới.
Rừng rụng lá ôn đới phân bố ở vùng thấp hơn và gần vùng nhiệt đới hơn, chủ yếu ở Đông Bắc
Mỹ, Nam Mỹ, Châu Âu, một phần Trung Quốc, Nhật Bản, Australia.
Rừng mưa nhiệt đới có độ Đa dạng sinh học cao nhất. Phân bố chủ yếu ở vùng xích đạo thuộc
lưu vực sông Amazone (Nam Mỹ), sông Congo (Châu Phi), Ấn Độ, Malaysia. Trong đó dãi rừng
Ấn Độ - Malaysia có sự đa dạng sinh học trên một đơn vị diện tích là cao nhất, có tới
2.500 – 10.000 loài thực vật trong một khu vực hẹp và có tới 7 tầng cây với các loài cây quý
như lim (Erythrophleum sp), gụ (Sindora sp), chò chỉ (Shorea chinensis), lát (Chukrasia sp). Do
có sự biến đổi phức tạp về chế độ mưa, gió mùa và nhiệt độ, rừng nhiệt đới thường rất phức tạp
cả về thành phần loài và cấu trúc của rừng.
Dựa vào chức năng cơ bản mà thực chất là dựa vào tính chất và mục đích sử dụng, rừng được
chia thành 3 loại chính như sau:
+ Rừng phòng hộ được sử dụng cho mục đích bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn,
hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, bảo vệ môi trường. Rừng phòng hộ lại được chia thành 3 loại
là rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ chống cát bay, rừng phòng hộ chắn sóng ven biển.
+ Rừng đặc dụng được sử dụng cho các mục đích đặc biệt như bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn
hệ sinh thái, bảo tồn nguồn gen động thực vật rừng, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học,
bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh cho nghỉ ngơi du lịch. Rừng đặc dụng bao
gồm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu văn hóa - lịch sử và môi trường.
+ Rừng sản xuất bao gồm các loại rừng sử dụng để sản xuất kinh doanh gỗ, lâm đặc sản rừng,
động vật rừng và kết hợp bảo vệ môi trường.
Sự suy giảm diện tích rừng và suy thoái rừng. Theo tài liệu mới công bố của Quỹ bảo vệ động

vật hoang dã (WWF, 1998), trong thời gian 30 năm (1960 – 1990) độ che phủ rừng trên toàn thế
giới đã giảm đi gần 13%, tức diện tích rừng đã giảm đi từ 37 triệu km2 xuống 32 triệu km2, với
tốc độ giảm trung bình 160.000km2/năm. Sự mất rừng lớn nhất xãy ra ở các vùng nhiệt đới, ở
Amazone (Braxin) trung bình mỗi năm rừng bị thu hẹp 19.000km2 trong suốt hơn 20 năm qua.
Bốn loại rừng bị hủy diệt khá lớn là rừng hỗn hợp và rừng ôn đới lá rộng 60%, rừng lá kim
khoảng 30%, rừng ẩm nhiệt đới khoảng 45% và rừng khô nhiệt đới lên đến khoảng 70%. Châu
Á là nơi mất rừng nguyên sinh lớn nhất, khoảng 70%. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
làm mất rừng trên thế giới, tập trung chủ yếu vào các nhóm nguyên nhân sau đây:
- Mở rộng diện tích đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu sản xuất lương thực, trong đó những
người sản xuất nhỏ du canh là nguyên nhân quan trọng nhất. Rowe (1992) cho rằng, có
đến 60% rừng nhiệt đới bị chặt phá hàng năm là do nguyên nhân này. Hiện nay mở rộng diện
tích nông nghiệp ở Châu Á và Châu Phi đang xãy ra với tốc độ mạnh hơn so với Châu Mỹ La
Tinh.
- Nhu cầu lấy củi: Chặt phá rừng cho nhu cầu lấy củi đốt cũng là nguyên nhân quan trọng làm
cạn kiệt tài nguyên rừng ở nhiều vùng. Lượng gỗ sử dụng làm chất đốt trên thế giới đã tăng từ
600 triệu m
3
vào năm 1963 lên 1.300 triệu m
3
vào năm 1983. Hiện nay vẫn còn khoảng 1,5 tỷ
người chủ yếu dựa vào nguồn gỗ củi cho nấu ăn. Riêng ở Châu Phi đã có 180 triệu người thiếu
củi đun.
- Chăn thả gia súc: Sự chăn thả trâu bò và các gia súc khác đòi hỏi phải mở rộng các đồng cỏ
cũng là nguyên nhân làm giảm diện tích rừng. Ở Châu Mỹ La Tinh, có khoảng 35% rừng
bị chặt phá do những người sản xuất nông nghiệp nhỏ. Phần còn lại do chăn thả súc vật. Riêng ở
Nam Mỹ việc mở rộng diện tích đồng cỏ với tốc độ 20 nghìn km2/năm trong giai đoạn 1950 –
1980. Còn ở Braxin, khoảng 3/4 diện tích rừng bị phá hủy ở vùng Amazone đến 1980 có liên
quan trực tiếp đến việc nuôi bò.
- Khai thác gỗ và các sản phẩm rừng: Việc đẩy mạnh khai thác gỗ cũng như các tài nguyên rừng
khác cho phát triển kinh tế và xuất khẩu cũng là nguyên nhân dẫn đến làm tăng tốc độ phá rừng ở

nhiều nước. Hiện nay việc buôn bán gỗ xãy ra mạnh mẽ ở vùng Đông Nam Á, chiếm đến gần
50% lượng gỗ buôn bán trên thế giới. Ví dụ, ở Malaisia rừng nguyên sinh che phủ gần như toàn
bộ đất nước vào năm 1990, đến năm 1960 đã có trên 1/2 diện tích rừng bị khai thác gỗ cho xuất
khẩu. Còn ở Philippine, đến năm 1980 rừng đã bị phá hủy khoảng 2/3 diện tích, trong đó khai
thác gỗ cho xuất khẩu chiếm một phần lớn.
- Phá rừng để trồng cây công nghiệp và cây đặc sản; nhiều diện tích rừng trên thế giới đã bị chặt
phá lấy đất trồng cây công nghiệp và các cây đặc sản phục vụ cho kinh doanh. Mục đích là để
thu được lợi nhuận cao mà không quan tâm đến lĩnh vực môi trường. Ở Thái Lan, một diện tích
lớn rừng đã bị chặt phá để trồng sắn xuất khẩu, hoặc trồng côca để sản xuất sôcôla. Ở Pêru, nhân
dân phá rừng để trồng côca; diện tích trồng côca ước tính chiếm 1/10 diện tích rừng của Pêru.
Các cây công nghiệp như cao su, cọ dầu cũng đã thay thế nhiều vùng rừng nguyên sinh ở các
vùng đồi thấp của Malaisia và nhiều nước khác.
- Cháy rừng: Cháy rừng là nguyên nhân khá phổ biến ở các nước trên thế giớI và có khả năng
làm mất rừng một cách nhanh chóng. Ví dụ, năm 1977 đã xảy ra cháy rừng ở nhiều nước
thuộc Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ. Chỉ tính riêng ở Indonesia trong một đợt cháy rừng (năm
1977) đã thiêu hủy gần 1 triệu ha rừng. Còn ở Mỹ, trong năm 2000 đã có 2,16 triệu ha rừng bị
cháy.
Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếplàm tăng quá trình phá
rừng trên thế giới. Đó là các chính sách quản lý rừng, chính sáh đất đai, chính sách về di cư,
định cư và các chính sách kinh tế xã hội khác. Các dự án phát triển kinh tế xã hội
như xây dựng đường giao thông, các công trình thủy điện, các khu dân cư hoặc khu công
nghiệp cũng làm gia tăng đáng kể tốc độ mất rừng ở nhiều nơi trên thế giới.
Rừng là hệ sinh thái đa dạng, giàu tiềm năng nhất trên mặt đất. Năng suất bình quân là 5 tấn chất
thô/năm/ha.
1.1.Tầm quan trọng của rừng
Rừng có ý nghĩa rất quan trọng vì rừng giữ đất, hạn chế x�i mòn, điều hòa nhiệt độ, độ
ẩm và giữ nước, cản bớt nước chảy bề mặt. Rừng cung cấp nhiều đặc sản qu� như gỗ,
c�y thuốc, rong rêu, địa y và chim thú.
Rừng có mối quan hệ mật thiết đối với thế giới, là nơi cư trú cho khoảng 70% các loài
động vật và thực vật, bảo vệ và làm giàu cho đất, điều chỉnh tự nhiên chu trình thủy học,

ảnh hưởng đến kh� hậu địa phương và khu vực nhờ sự bay hơi, chi phối các dòng chảy
mặt và ngầm.
Rừng còn bổ sung khí cho không khí (nhờ cây xanh có khả năng hấp thu kh� CO
2
để
thực hiện quang hợp�) và ổn định kh� hậu toàn cầu bằng cách đồng h�a cacbon và
thải khí oxy, lọc sự ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, chống lũ lụt, xói mòn. Rừng còn là
nơi cung cấp gỗ, dược phẩm, lương thực và tạo việc làm cho con người.
1.2.Rừng trên thế giới
1.2.1.Phân loại
Rừng có 3 loại chính
Rừng nhiệt đới ẩm: hơn 1 tỉ ha. Đ�y là hệ sinh thái phong phú nhất về sinh
khối và loài. Mặc dù chỉ chiếm 7% diện tích đất tự nhiên, nhưng là nơi cung cấp
khoảng 15% lượng gỗ và 50% số loài đã biết trên thế giới, cũng là nơi ở của hơn
140 triệu người. Khoảng 2/3 rừng này ở Mỹ Latinh, chủ yếu thuộc lưu vực sông
Amazon, phần còn lại ở Châu Phi và Châu Á.
Rừng nhiệt đới kh�: 1,5 tỉ ha, trong đ� � ở Châu Phi. Loại rừng này không
phong phú về loài và sinh thái như rừng nhiệt đới ẩm, nhưng lại là phương tiện
bảo vệ đất quan trọng. Gi� trị kinh tế chủ yếu của ch�ng là chăn nu�i và cung
cấp củi đun cho cư d�n n�ng th�n.
Rừng ôn đới: khoảng 1,6 tỉ ha, � thuộc các nước công nghiệp phát triển. Tính
đa dạng sinh học của rừng này kém nhất, nhưng là nguồn cung cấp gỗ, nơi nghỉ
ngơi, giải trí.
1.2.2.Phân bố
Rừng phân bố không đồng đều trên các Châu Lục về diện tích cũng như thể loại.
Tổng cộng có 29% diện tích lục địa được che phủ bởi rừng (khoảng 3.837 triệu
ha, trong đ� 1.280 triệu ha-chiếm 33% diện t�ch rừng là rừng thông-tập trung ở
miền lạnh và ôn đới, còn lại 2.257 triệu ha-chiếm 67% là rừng rậm miền xích đạo
và nhiệt đới.
Bảng 1. Sự phân chia rừng ở các khu vực

Khu vực Diện tích (triệu ha) (%)
Châu Âu (trừ Nga)
Nga (Liên xô cũ)
Bắc Mỹ
Mỹ Latinh
Châu Phi
Châu Á
136
743
656
890
801
525
3,5
19,4
17,1
23,2
20,9
13,7
Châu Đại dương 86 2,2
1.2.3.Rừng hiện nay trên thế giới
"Lá cây là lá phổi của con người", thành ngữ này hiển nhiên được rất nhiều người
biết đến, nhưng � nghĩa thật sự thì vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ được. Rừng
trên thế giới vẫn tiếp tục bị biến mất với tốc độ kh�ng ngờ mặc dù có những
cảnh báo về hiện tượng phá rừng. Năm 1980, khoảng 15,2 triệu ha rừng nhiệt đới
bị ph� mỗi năm và có xu hướng tăng lên trong thập niên này.
Theo tổ chức nông nghiệp và lương thực Liên Hiệp Quốc (FAO), diện tích rừng
tiếp tục bị giảm nhanh, đặc biệt ở c�c nước đang ph�t triển, khoảng giữa năm
1985 và 1995, đã mất khoảng 200 triệu ha rừng. Mặc dù, được bù đắp bởi sự t�i
trồng rừng, tạo những khu đất trồng rừng mới, sự t�i ph�t triển từ từ và việc mở

rộng diện tích trồng rừng ở các nước phát triển, nhưng diện tích rừng cũng mất
khoảng 180 triệu ha nghĩa là khoảng 12 triệu ha/năm.
Ở các nước phát triển, việc chuyển đổi rừng kh�ng quan trọng nhưng sự suy
tho�i rừng lại đ�ng b�o động.
1.2.4.Một số nguyên nhân chính của việc phá rừng
Trong thời kỳ phát triển ban đầu của c�c nước c�ng nghiệp, 1/3 rừng �n đới bị
ph�t hoang làm nông nghiệp, lấy gỗ và củi. Nạn phá rừng hầu như không còn,
diện tích rừng ôn đới n�i chung đang tăng.
Phá rừng nhiệt đới chủ yếu để lấy củi. Giảm diện t�ch rừng ẩm để tăng đất trồng
trọt. C�c động cơ ph� rừng hiện nay vẫn còn rất mạnh.
Tăng lợi nhuận và tiêu thụ;
Sự gia tăng d�n số và nhu cầu về miền đất mới;
Chính sách kinh tế không hợp lý;
Nạn tham nhũng và mua bán bất hợp pháp;
Nạn nghèo đ�i, và tình trạng không có ruộng đất.
1.3.Rừng ở Việt Nam
1.3.1.Theo Luật bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam
Căn cứ vào mục đ�ch sử dụng chủ yếu, rừng c� thể được ph�n thành các loại sau
đ�y: Rừng phòng hộ; Rừng đặc dụng; Rừng sản xuất.
Rừng phòng hộ: được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống
x�i mòn, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường sinh
thái. Rừng phòng hộ được ph�n thành các loại: Rừng phòng hộ đầu nguồn; Rừng
phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển; Rừng
phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.
Rừng đặc dụng: được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ
sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen thực vật, động vật rừng; nghiên cứu khoa
học; bảo vệ di tích lịch sử, văn h�a và danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi,
du lịch. Rừng đặc dụng được ph�n thành các loại: Vườn quốc gia; Khu rừng bảo
tồn thiên nhiên; Khu rừng văn h�a - xã hội, nghiên cứu thí nghiệm.
Ranh giới của khu rừng đặc dụng phải được x�c định bằng hệ thống biển b�o,

mốc kiên cố.
Rừng sản xuất: được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, c�c l�m
sản kh�c, đặc sản rừng, động vật rừng và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường
sinh thái. Rừng sản xuất được Nhà nước giao cho tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế có đủ điều kiện quy định để sản xuất, kinh doanh theo hướng
th�m canh, n�ng - l�m - ngư nghiệp kết hợp.
1.3.2.Hiện trạng
Rừng nước ta ngày càng suy giảm về diện tích và chất lượng, tỉ lệ che phủ thực
vật dưới ngưỡng cho phép về mặt sinh thái. 3/4 diện tích đất đai của nước ta (so
với diện t�ch đất tự nhiên S
TN
) là đồi n�i, kh� hậu nhiệt đới ẩm gi� mùa nên
rừng rất quan trọng trong cân bằng sinh thái. Đất c� rừng phải được duy trì tối
thiểu 50-60% S
TN
, vùng đồi n�i phải là 80-90%, vùng đầu nguồn s�ng suối phải
là 100%.
Rừng ngập mặn với diện tích 800.000 ha có tác dụng cung cấp gỗ và than, đồng
thời c� t�c dụng giữ và cải tạo đất, là nơi cư trú và sinh sản của các loài thủy
sinh.
Đất l�m nghiệp chiếm 30% diện t�ch tự nhiên (rừng tự nhiên 26%, rừng trồng
4%). Tỉ lệ che phủ này còn dưới tiêu chuẩn cho phép do UB môi trường quốc tế
đưa ra và áp dụng cho toàn cầu là 33%. Tỉ lệ che phủ ở Tây Bắc chỉ còn 13,5%,
Đ�ng Bắc 16,8%, Sơn La 9,8%, Cao Bằng 11,2%.
Về động vật sống trong rừng, nước ta c� khoảng 1.000 loài chim, 300 loài thú,
hơn 300 loài bò sát, ếch nhái � phân bố rộng rãi trên các sinh cảnh, có 28 loài
động vật qu�, mang t�nh đặc biệt nhiệt đới như voi, tê giác, bò rừng, bò tót, bò
xám, hổ, báo, hươu sao, hươu xạ, nai cà tông, vược, vộc cá đầu x�m, vộc mũi
hếch, sếu trụi cổ, cò quắm cánh xanh, rắn, trăn, rùa biển � và hiện còn phát hiện
ra một số loài mới.

Theo điều tra của năm 1993, nước ta còn khoảng 8,631 triệu ha rừng (trong đ�
c� 5.169 ngàn ha rừng sản xuất kinh doanh, 2.800 ngàn ha rừng phòng hộ,
663.000 ha rừng đặc dụng). Rừng ph�n bố kh�ng đồng đều, tập trung cao nhất
ở khu vực T�y Nguyên (Đăk Lắk 1.253 ngàn ha, Gia Lai 838.600 ha), kế là miền
núi Trung du phía Bắc (Lai Châu 229.000 ha) và thấp nhất ở vùng đồng bằng
s�ng Cửu Long (An Giang 100 ha).
Bảng 2. Diện tích rừng tự nhiên
Loại rừng Diện tích (ha)
Tổng diện tích rừng tự nhiên
1. Rừng sản xuất kinh doanh (60%)
a/ Rừng đặc sản
b/ Rừng giống
c/ Rừng kinh doanh gỗ, lâm sản
2. Rừng đầu nguồn (32%)
a/ Rừng đầu nguồn
b/ Rừng chắn sóng
c/ Rừng chắn gió
3. Rừng đặc dụng (8%)
8.630.965
5.168.952
16.187
1.783
5.150.982
2.798.813
2.780.010
11.801
7.002
663.200
Bảng 3. Diện tích rừng tự nhiên ở Việt Nam năm 1993 (đơn vị: 1000 ha)


Đất tự nhiên Rừng
Diện tích (%)
Diện
tích (%)
Cả nước 44.314,0 8.630,9
Miền núi trung du phía
Bắc 8.312,0 18,8 1.688,5 19,6
Đồng bằng s�ng Hồng 895,0 2,0 22,7 0,3
Khu Bốn cũ 5.262,0 11,9 1.426,8 16,5
Duyên hải miền Trung 5.978,0 13,5 1.490,1 17,3
Tây Nguyên 18.736,0 42,3 3.396,7 39,4
Đ�ng Nam bộ 2.635,0 5,9 527,6 6,1
Đồng bằng s�ng Cửu
Long 2.496,0 5,6 78,5 0,9
Khai thác rừng quá mức
Giữa thế kỷ 20, khoảng 60 dân tộc thiểu số là những người cư ngụ chủ yếu trong
rừng núi cao. Nhiều người trong các dân tộc này dùng kỹ thuật trồng trọt rộng �
điều này có thể chấp nhận với mật độ d�n số thấp. Hiện nay, hơn 30% người
Việt Nam, phần lớn là người Kinh, sống phụ thuộc vào các sản phẩm rừng. Mật
độ d�n số ở những vùng này gia tăng rất nhanh chỉ trong 15 năm.
Giai đoạn 1943-1997, diệnt �ch rừng che phủ đã giảm từ 43% xuống còn 28%
tổng diện tích đất tự nhiên. Mức mất rừng hiện nay khoảng 180.000-200.000
ha/năm, trong đ� 30% bị chặt ph� làm nông nghiệp, không có kế hoạch; 20-
25% bị cháy; còn lại do khai thác gỗ, củi. Mức trồng rừng hàng năm từ 80.000-
100.000 ha kh�ng bù lại được sự tổn hại do mất rừng.
Những nơi cần được bảo vệ nhất cũng là những nơi rừng bị tàn phá mạnh. Năm
1980, miền n�i và trung du Bắc bộ có 3.609.800 ha (35% diện tích tự nhiên) thì
đến năm 1990 chỉ còn 1.709.300 ha (17% diện tích tự nhiên). Ở miền Đ�ng nam
bộ, diện t�ch rừng bị giảm mạnh nhất, từ 1.138.700 ha năm 1980 (chiếm 47%
diện t�ch tự nhiên) xuống còn 572.780 ha năm 1990 chiếm 24% diện t�ch tự

nhiên). Vùng đồng bằng s�ng Cửu Long cũng nằm trong tình trạng tương tự
253.800 ha năm 1980 (6,35% diện t�ch tự nhiên) xuống còn 179.300 ha và năm
1993 còn 3,1% diện tích tự nhiên).
Bảng 4. Diện tích rừng bị cháy và chặt phá
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995
CẢ NƯỚC (ha) 37.775 20.257 40.209 21.688 14.436 25.898
Miền núi và trung du Bắc
bộ
6,06% 16,22%
14,79
%
13,66
%
21,73
%
11,21%
Đồng bằng s�ng Hồng
0,01% 0,12% 0,00% 0,06% 0,12% 0,01%
Khu Bốn cũ 7,69% 3,97% 4,23% 21,89% 1,29% 0,54%
Duyên hải miền Trung 5,88%
15,61
%
20,90%
12,10
%
6,21% 14,97%
Tây Nguyên
11,41
%
8,84% 32,28% 25,49% 44,97% 48,18%

Đ�ng Nam bộ
15,79% 21,23%
14,62
%
8,86% 0,19% 7,39%
Đồng bằng s�ng Cửu
Long
53,16
%
34,00
%
13,18
%
17,94
%
25,49% 17,70%
Nạn cháy rừng
Cũng như những nước khác trên thế giới, cùng với việc khai thác quá mức, thì
nạn cháy rừng trong mấy thập niên qua cũng là vấn đề đ�ng lo ngại. Trong vòng
23 năm (1965-1988) đã có gần 1 triệu ha rừng cây gỗ và trảng cỏ tranh bị cháy.
1992-1993, ở 13 tỉnh ven biển đã xảy ra 300 vụ cháy rừng. Năm 2002, ch�y lớn
ở rừng U Minh thượng và U Minh hạ.
Cháy rừng không chỉ làm cạn kiệt tài nguyên rừng mà còn là nguyên nhân làm
cạn kiệt nguồn nước, làm đất bị suy tho�i, giảm nguồn sinh vật qu� hiếm, g�y
nhiều t�c hại nghiêm trọng đối với m�i trường, kh� hậu, đất đai, đời sống và
sự phát triển kinh tế xã hội cả nước. Giảm diện tích rừng đầu nguồn g�y �ng
lụt, hạn h�n, kh�ng điều tiết được lượng nước g�y nhiều thảm họa cho d�n
cư vùng trung du và đồng bằng.
Chất lượng rừng suy giảm: rừng giàu 10%, rừng trung bình 23%, rừng nghèo 33%
và rừng phục hồi 34%. Tỉ lệ cây bệnh mục 20-25%.

1.4.Tình hình bảo vệ tài nguyên rừng trên thế giới
Hội đồng liên hiệp quốc về phát triển bền vững, thống nhất đẩy mạnh tr�ch nhiệm trong
việc bảo tồn rừng, gi�p cho c�c nước đang ph�t triển quản l� rừng và khuyến khích
các tư nhân hình thành những quy tắc hướng dẫn để khuyến kh�ch quản l� rừng bền
vững.
Ở Việt Nam có Luật bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội th�ng qua năm 1994. Để
đạt mục tiêu đưa tỉ lệ che phủ rừng của Việt Nam đạt 43% (tỉ lệ của năm 1943), Ch�nh
phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định đ�ng cửa rừng tự nhiên, chương trình trồng mới
5 triệu ha rừng. Điều này đã khẳng định rõ nỗ lực của Việt Nam trong việc tiếp cận phát
triển bền vững.
2.Đa dạng sinh học
2.1.Khái niệm
Đa dạng sinh học là khái niệm dùng để chỉ tất cả c�c giống loài và mối liên hệ giữa
chúng với môi trường tự nhiên, là tập hợp các thông tin di truyền, loài và hệ sinh thái.
2.2.Vai trò của đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học c� vai trò quan trọng trong duy trì sự sống. Ngoài việc cung cấp
nguồn nguyên liệu công nghiệp, lương thực thực phẩm, nhiều loại thuốc cho con người,
chúng còn có thể làm ổn định hệ sinh th�i nhờ sự t�c động qua lại giữa ch�ng.
Gần đ�y, thuốc trị bệnh bạch cầu c� thể được tr�ch từ một loại hoa � Rosy
Periwrinkle (dừa cạn hồng), chỉ được tìm thấy ở Madagascar, và thuốc điều trị bệnh ung
thư v� từ c�y Thủy tùng ở Tây Bắc Pacific. Các sản phẩm từ động vật, c� và thực vật
được dùng làm thuốc, đồ trang sức, năng lượng, vật liệu x�y dựng, lương thực và những
vật dụng cần thiết khác .v.v�
Những vườn sinh học được thành lập với rất nhiều loài hoang dã tạo vẻ đẹp phục vụ nhu
cầu vui chơi giải tr� của con người.
Về mặt sinh thái, đa dạng sinh học còn có vai trò trong bảo vệ sức khỏe và tính toàn bộ
của hệ sinh thái thế giới. Cung cấp lương thực, lọc các chất độc (qua c�c chu trình sinh
địa h�a học), điều hòa khí hậu của trái đất, điều chỉnh cung ứng nước ngọt � Nếu mất
những loài hoang dại sẽ làm mất sự cân bằng sinh thái và ảnh hưởng tới con người, chất
lượng của cuộc sống.

Thay đổi t�nh đa dạng và nơi cư trú của đa dạng sinh học cũng ảnh hưởng tới sức khỏe
và bệnh tật của con người.
2.3.Một số hiện trạng
Hình 1.Phần trăm c

c loài đã được x

c định trên thế giới
Đa dạng sinh học rất phong ph� trên trái đất, trong đ� chim, động vật hữu nhũ, thực
vật được x�c định nhiều. Theo dự đo�n, tr�i đất c� khoảng 14 triệu loài. Nhưng chỉ
mới xác định 1,7 triệu loài (khoảng 13%), cao nhất là côn trùng với 950.000 loài, kế là
thực vật 270.000 loài. Con người chỉ mới sử dụng có hiệu quả 1.500 loài / 80.000 loài
thực vật có khả năng cung cấp lương thực. Trong số c�c loài được ph�t hiện, con
người chỉ mới tìm ra khoảng 5.000 loài cây chứa các hoạt chất đặc biệt c� thể dùng để
điều trị hoặc phòng bệnh. Với nguồn tài nguyên quý giá này đã mang lại cho thế giới
khoảng 40 tỉ đ� la/năm.
Sự đa dạng của c�c loài sinh vật trên thế giới đang bị đe doạ, với 1.130 trong số 4.000
loài động vật c� v� và 1.183 trong số 10.000 loài chim có thể sẽ bị tuyệt chủng.
Gần đ�y, nguy cơ bị tuyệt chủng của thực vật có hoa (xương rồng, lan) và động vật c�
xương sống (hổ, cọp, cá tuyết �) tăng gấp 50-100 lần tỉ suất tự nhiên. Liên Hiệp Quốc
cảnh báo � loài động vật c� v� trên thế giới � từ cọp cho đến tê giác � có thể sẽ
tuyệt chủng trong vòng 30 năm tới. Với tốc độ tuyệt chủng như hiện nay, dự tính sẽ có 70
loài động vật, thực vật biến mất mỗi ngày. Trong số những loài vật bị đe dọa lớn nhất c�
giống tê giác đen ch�u Phi, cọp Sibêria và báo Amur châu Á.
Châu Á, 323 trong tổng số 2700 loài chim đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng do hoạt
động của con người, đặc biệt là việc đốn gỗ và phá rừng làm đất n�ng nghiệp. Cảnh
b�o ch�u � c� nguy cơ hết chim được đưa ra đ�ng vào thời điểm loài người rầm rộ
kỷ niệm ngày Môi trường thế giới, 05/6/2001. Trong số 23 nước châu Á được Tổ chức
chim quốc tế điều tra, Indonesia đứng đầu về mức b�o động, c� số loài chim thuộc
diện nguy cấp chiếm khoảng 1/3 trong số 323 loài kể trên. Kế đến là Trung Quốc với 78

loài, Ấn Độ với 73 loài và Philippines là 69. Con số này đã tăng lên nhanh chóng trong
vòng 20 năm qua. Cho tới năm 1998, mới chỉ c� 51 loài bị đe dọa tuyệt chủng.
2.4.Nguyên nhân làm suy giảm đa dạng sinh học
Nơi cư trú giảm
Phá rừng. Trước khi nền nông nghiệp bắt đầu ph�t triển, bề mặt hành tinh được
phủ khoảng 35% rừng. Hiện nay, chỉ còn khoảng 25% trong đ� 12% là rừng tự
nhiên. Theo ước lượng, hàng năm mất khoảng 60.000 km
2
rừng nhiệt đới. Đốn gỗ
là mối đe dọa lớn nhất, t�c động tới 50% tổng số c�c loài có nguy cơ tuyệt
chủng, tiếp đ� là hoạt động canh t�c, ảnh hưởng tới 30% và hoạt động du canh
20%. Theo �ng Szabo, Gi�m đốc th�ng tin của Tổ chức chim Quốc tế, một số
loài chim chỉ sống tại các vùng sinh thái nhất định, nếu những khu rừng này bị
chặt phá hay đốt ch�y, c�c loài chim rất dễ bị tổn thương.
Mở rộng nơi cư trú của các loài ngoại lai.
50% đất đai trên thế giới đã bị thoái hoá bởi các hoạt động của con người (sản
xuất công nghiệp, hầm mỏ, nông nghiệp).
50% các con sông bị cạn kiệt hoặc ô nhiễm nghiêm trọng.
Thay đổi mục đ�ch sử dụng đất. Ở Illinois (Hoa Kỳ), thảo nguyên và rừng là
chiếm ưu thế. Nhưng hiện nay chỉ còn ít hơn 1% thảo nguyên và ít hơn 20% rừng
nguyên sinh được giữ lại và có 356 thực vật và 144 động vật được xem là bị đe
dọa hoặc c� nguy cơ bị tuyệt chủng.
Thu hẹp nhanh chóng diện tích rừng nhiệt đới, rừng ngập nước ngọt và ven biển,
các ám tiêu san hô � là những nơi có sự tập trung nhiều loài nhất. Rạn san hô vĩ
đại ngoài khơi bờ biển Úc, chiếc barrier tự nhiên lớn nhất thế giới, đang bị đe dọa
t�nh mạng bởi c�c dòng bùn đất chứa nhiều ph�n h�a học, cuốn tr�i ra từ
c�c vùng đầm lầy và rừng nhiệt đới bị ph� hủy dọc theo bờ biển Queensland,
đ�ng bắc Australia. Số c� nược (loài thú thuộc bộ lợn biển) trong vùng đã giảm
đi từ 50 đến 80% trong 10 năm qua, loài rùa quý hiếm caretta, hoạt động sinh sản
của ch�ng đã sụt đi 80% từ thập kỷ 70.

Nhiều đ� thị, ngoại � và nhà máy sản xuất được hình thành.
Các dịch vụ giải trí được mở rộng.
Do mất nơi cư trú và nhiều nguyên nhân khác, đa dạng sinh học bị suy giảm như cọp Ấn
Độ chỉ còn khoảng 5-10% so với ban đầu, nơi cư tr� của tê giác đen chỉ còn 1-3% và
Puma châu Phi gần như tuyệt chủng, còn khoảng 30-50 loài hoang dã.
Dân số tăng, làm tăng c�c nhu cầu của con người như nguồn thức ăn, đất định cư,
năng lượng, mức sống �
Quá trình sản xuất, sinh hoạt thải ra nhiều chất thải làm thay đổi m�i trường sống tự
nhiên của các sinh vật.
2.5.Việt Nam
Nước ta với khí hậu nhiệt đới, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh th�i rừng với trên
12.000 loài thực vật (có những loài quý như đinh, lim, sến, cẩm lai, gi�ng hương, l�t
hoa �). Khoảng 2.300 loài thực vật đang được khai th�c nhằm những mục đ�ch
kh�c nhau.
Về động vật sống trong rừng, nước ta c� khoảng 1.000 loài chim, 300 loài thú, hơn 300
loài bò sát, ếch nhái � phân bố rộng rãi; 28 loài động vật qu� mang t�nh đặc biệt của
vùng nhiệt đới như voi, tê giác, bò rừng, bò tót, bò xám, hổ, báo, hươu sao, hươu xạ, nai
cà tông, vược, vộc cá đầu x�m, vộc mũi hếch, sếu trụi cổ, cò quắm cánh xanh, rắn, trăn,
rùa biển �
Số loài được biết ở Việt Nam kh� phong ph� đa dạng, nhiều nhất là cá, kế là chim và
động vật c� v�.
Bảng 5. Số loài động vật và thực vật
Ph�n tổ
Số loài
Tỉ trọng so với
thế giới (%)
Việt Nam Thế giới
Động vật c�
v�
276 4000 6,8

Chim 800 9040 8,8
Bò sát 180 6300 2,9
Lưỡng cư 80 4184 2,0
Cá 2470 19000 13,0
Thực vật 7000 220000 3,2
Côn trùng 5000 950000 0,53
Đa dạng sinh học ở Việt Nam đang c� nguy cơ bị suy giảm. Hiện c� 500 loài thực vật
đang trong tình trạng có khả năng hiếm và 366 các loài động vật kh�c nhau c� nguy cơ
bị tuyệt chủng. Một số nơi thịt động vật hoang dã được b�n rộng rãi và công khai (ví dụ
như một nhà hàng tại Thị trấn Gia Luân, thịt động vật hoang dã được b�n cho kh�ch
du lịch với gi� như: Sơn dương 3$/kg, Thịt khỉ: 2$/kg; �c khỉ: 3$/kg .v.v�).
Bảng 6. Số loài động vật và thực vật có nguy cơ bị tuyệt chủng
Ph�n loại
Tổng số
lo�i
Trong đ�
Đặc
hữu
Bị tuyệt
chủng
Bị tuyệt
chủng
Đe
dọa
Động vật c�
v�
276 5 24 30 28
Chim 800 12 31 14 34
Cá 2.470 60 29 6 13
Thực vật 7.000 1260 357

2.6.Bảo vệ các loài hoang dã
Thành lập những hiệp ước và luật lệ
Tổ chức Liên hiệp quốc về bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên đã phát hành
quyển sách "Tài liệu đỏ�.
Một số hiệp ước thế giới và những hiệp định để bảo tồn c�c loài hoang dã đã được đặt
ra nhưng còn hạn chế ở một số nước.
Năm 1987, bảng danh s�ch thực vật và động vật c� nguy cơ, và đe dọa đã được bảo vệ
dưới một đạo luật bao gồm 928 loài, trong đ� c� 385 loài được tìm thấy trong nước
Mỹ và những nước khác.
Ở Việt Nam, nhiều văn bản quan trọng đã được ban hành như Luật Bảo vệ Môi trường,
văn bản bảo vệ động vật hoang dã (359/TTg ngày 29/5/1996 do Thủ tướng Võ Văn Kiệt
k�) về phương ph�p khẩn cấp để bảo vệ và phát triển động vật hoang dã.
Thành lập khu bảo tồn loài thú hoang dã
Năm 1903, Tổng thống Theodore Roosevelt đã thiết lập khu bảo tồn động vật hoang dã
Liên bang đầu tiên trong nước Mỹ-ở đảo Pelican trên bờ biển phía Đ�ng Florida để bảo
vệ chim bồ n�ng x�m.
Năm 1987, hệ thống khu bảo tồn động vật hoang dã bao gồm 437 khu, được cơ quan
động vật hoang dã và thủy sản quản lý, khoảng 88% diện tích là ở Alaska.
Ở Việt Nam, quy hoạch hơn 1 triệu ha để làm khu bảo tồn sự đa dạng sinh học với 120
khu rừng đặc dụng (c� tràm chim Tam Nông ở Đồng Th�p Mười, rừng C�c Phương,
Hoàng Liên Sơn, Bạch Mã�). Thực tế:
Ta vẫn chưa theo dõi được diễn biến của c�c loài quý hiếm.
Chưa kiểm soát các hoạt động săn bắn và đ�nh c�.
Hoạt động quản l� lưu vực chưa chặt chẽ.
Nhiều môi trường sinh sản và sinh sống của sinh vật vẫn tiếp tục bị tàn phá.
Tổ chức MAB của UNESCO đã công nhận Vườn Quốc gia Nam Cát tiên, Việt Nam là
khu dự trữ sinh quyển quốc tế, khu thứ 411 của thế giới, thứ 2 của Việt Nam (sau Cần
Giờ, TP.HCM). Khu sinh quyển Cát Tiên có tổng diện tích 73.878 ha nằm trên ba tỉnh
Đồng Nai, L�m Đồng, Bình Phước, cách TP.HCM 150 km; có khoảng 1.800 loài thực
vật thuộc 151 họ, 73 bộ. Đ�y là khu rừng đặc trưng cho hệ thực vật miền Đ�ng Nam

Bộ với nhiều loài cây gỗ họ sao, dầu, tử vi, đậu, đặc biệt c� nhiều loài có giá trị cao cả
về kinh tế và sinh học như gõ đỏ, cẩm lai, gi�ng hương .v.v� Nơi đ�y còn có 77 loài
thú, 326 loài chim, 133 loài cá nước ngọt, 40 loài bò sát, 14 loài lưỡng cư và 457 loài côn
trùng, trong đ� 51 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam như tê giác Java (7-8 cá thể), cá
sấu Xiêm, gà so cổ hung, bò rừng, voi, hổ .v.v�
Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) và chương trình phát triển của LHQ đồng tài trợ cho dự
án "Xây dựng các khu bảo tồn nhằm xây dựng nguồn TNTN Việt Nam trên cơ sở ứng
dụng quan điểm sinh th�i cảnh quan" với tổng số vốn đầu tư 8.504.102$, trong đ�
438.000$ vốn trong nước. Dự �n được triển khai tại vườn Quốc gia Ba Bể (Bắc Cạn) và
vườn Quốc gia Yóok Đ�n (Đắk lắk).
Ngân hàng gen, sở thú, vườn thực vật, ao ca
Sở thú, vườn thực vật (Botanic garden), ao cá � chính là những kho dự trữ tốt cho các
loài, nhất là ở những vùng nhiệt đới.
Yok Đôn nằm trên khối lục địa Kon Tum cổ xưa, nơi có khí hậu mùa khô và
mưa đối lập nhau. Đây đã từng là trung tâm phát sinh thứ hai của cây họ dầu
(Dipterocarpaceae). Sự đa dạng các sinh vật ở đây có nhiều nét đặc biệt, đó chính
là sự xuất hiện hệ sinh thái rừng thưa khô hạn. Để bảo vệ hệ sinh thái rừng này,
ngày 18/3/2002, Chính phủ quyết định mở rộng Vườn quốc gia Yok Đôn từ
58.200ha lên 115.545ha. Đây là một trong số những vườn quốc gia lớn nhất Việt
Nam. Công tác quản lý bảo vệ rừng của Vườn quốc gia Yok Đôn có một ý nghĩa
vô cùng quan trọng không những cho việc bảo tồn da dạng sinh học mà còn có ý
nghĩa bảo vệ rừng đầu nguồn cho hệ thống sông Mê Công, điều tiết lũ cho hệ thống
sông Cửu Long của Việt Nam và khu vực Đông Nam á.
1. Nguyên nhân trực tiếp.
Khai thác gỗ. Những năm qua, hoạt động khai thác trái phép quy mô nhỏ vẫn
thường xuyên xảy ra, tập trung ở buôn Đrăng Phôk (vùng lõi) và các buôn nằm
xung quanh vùng đệm. Các loài cây bị khai thác như giáng hương, gõ đỏ, gụ mật,
cẩm thị, cẩm lai, căm xe Người dân khai thác gỗ để bán lấy tiền là chủ yếu. Khai
thác gỗ mang lại nguồn thu nhập rất cao cho người dân (hiện 1 mét khối gỗ nhóm 1
tại rừng tương đương khoảng 4 tấn thóc). Ngoài ra, phần lớn các gia đình, nhất là

vùng đồng bào các dân tộc thiểu số dùng gỗ để dựng nhà, làm vật dụng, chuồng
trại chăn nuôi. Trên 90% các hộ gia đình trong vùng làm nhà gỗ. Đây là vấn đề
không thể giải quyết một cách dễ dàng. Một bộ phận dân chúng hiểu biết hạn chế
thì họ cho rằng việc khai thác bất hợp pháp là một nguồn thu nhập quan trọng cho
gia đình họ. Tình hình vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng, nhất là hành vi khai
thác gỗ ngày càng tăng, điều này đòi hỏi công tác bảo vệ rừng, ngăn chặn khai thác
gỗ cần phải chú trọng hơn.
Lấn chiếm đất mở rộng diện tích canh tác. Việc mở rộng diện tích đất nông
nghiệp sẽ làm co hẹp diện tích phân bố tự nhiên và đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại
của các loài thực vật bản địa và các loài quý hiếm khác. Bên cạnh đó, các hoạt
động của con người trong nông nghiệp còn ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên
thực vật như mang theo các mầm mống cỏ dại xâm chiếm sinh cảnh của các loài
bản địa.
Khai thác lâm sản ngoài gỗ. Đây là hoạt động xảy ra rất phổ biến trên địa bàn.
Kết quả phỏng vấn cho thấy, lâm sản ngoài gỗ chủ yếu là chai cục và dược liệu.
Ngoài ra có nhiều loài cây dược liệu được thu hái, đặc biệt là bài thuốc Ma coong
gồm loài hồng bì rừng và bán tràng đang được thu hái với số lượng lớn và có nguy
cơ khan hiếm. Việc khai thác các loài cây này rất dễ dàng đối với người dân, họ có
thể thu hái chúng trong phạm vi của Vườn quốc gia Yok Đôn. Loại thảo dược này
rất được ưa dùng bởi khách du lịch, hầu như ai cũng tìm mua khi đến thăm địa
phương.
Lửa rừng. Hàng năm vẫn xảy ra các vụ cháy rừng vào mùa khô, tuy nhiên mức
độ và diện tích cháy không đáng kể. Không có một vụ cháy tự nhiên nào xảy ra, tất
cả đều là do người dân sống trong khu vực gây nên. Họ đi vào rừng để thu hái lâm
sản, làm rẫy vô ý gây ra các vụ cháy ảnh hưởng trực tiếp đến các loài cây tái sinh
và các loài cây thân thảo, cây con, chồi non, đồng thời hủy diệt phần lớn các sinh
vật đất. Chính vì lửa rừng tác động nên việc tái sinh của cây họ dầu gia tăng rất
lớn. Đây là kiểu tái sinh đặc trưng, độc đáo của hệ sinh thái rừng thưa cây họ dầu.
Do một chồi có thể tái sinh nhiều lần nên dẫn đến tỷ lệ rỗng ruột của cây họ dầu
tăng cao so với các loài cây khác, đây là nguyên nhân làm giảm giá trị về chất

lượng gỗ.
Chăn thả gia súc và sự xâm lấn của các loài ngoại lai. Người dân trong vùng có
tập quán chăn nuôi gia súc theo phương thức thả rông. Hầu hết trâu bò được thả
vào rừng và chỉ mang về nhà khi có nhu cầu sử dụng. Hiện tượng này đã gây nên
sự tàn phá trên diện rộng các loài cây tái sinh. Các loài ngoại lai phổ biến là mai
dương và đơn buốt. Sự xâm nhập của các loài này mới chỉ dừng lại ở phạm vi vùng
đệm và dọc theo hai bên bờ sông Srêpôk. Sự nguy hại của chúng đối với thực vật
bản địa tuy chưa được thể hiện rõ ràng song đó là một vấn đề cần được quan tâm,
chú ý, cần có các biện pháp khống chế sự bùng phát, xâm nhập của chúng vào rừng
để bảo vệ sinh cảnh cho các loài bản địa và các loài quý hiếm khác.
2 Nguyên nhân gián tiếp.
Gia tăng dân số. Theo kết quả điều tra 2002, tổng số dân trong vùng tăng đến
32.232 người (tăng gấp 6 lần so với năm 1990). Hiện cộng đồng dân tộc tại chỗ chỉ
có 5.402 người, các dân tộc nơi khác tới 26.830 người gấp 5 lần dân tộc bản địa.
Điều này kéo theo nhu cầu về đất canh tác, nhà ở và gỗ làm nhà, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên thực vật và đa dạng sinh học. Đây là nguy cơ
quan trọng tác động đến tài nguyên thực vật Vườn quốc gia Yok Đôn.
Đói nghèo. Nguyên dẫn đến tình trạng nghèo đói trong khu vực không chỉ vì
diện tích đất sản xuất thấp 0,183ha mà còn do lập địa đất canh tác rất xấu, bạc màu,
khí hậu khắc nghiệt, đa số dân tộc thiểu số chưa có kinh nghiệm áp dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người ở Buôn Đôn
thấp hơn rất nhiều so với bình quân chung của tỉnh Đắk Lắk, đời sống của người
dân ở đây đang có chiều hướng khó khăn hơn, điều đó càng làm tăng áp lực đối với
rừng tự nhiên của Vườn quốc gia Yok Đôn. Tuy nguồn thu nhập từ hoạt động săn
bắt chiếm tỷ lệ thấp, nhưng nếu không ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả sẽ dẫn
đến suy thoái nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong vùng. Nguồn thu nhập từ
chăn nuôi chiếm tỷ trọng khoảng 1/3 tổng thu nhập. Đây là một trong những thế
mạnh để phát triển kinh tế hộ gia đình, tuy nhiên nếu xét ở góc độ bảo tồn thì hoạt
động này đã ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên rừng vì hình thức nuôi thả rông
trong rừng sẽ tàn phá cây tái sinh và tăng nguy cơ lan truyền mầm bệnh từ vật nuôi

sang động vật hoang dã.
Nhận thức. Kết quả điều tra nhận thức của cộng đồng về vai trò và tầm quan
trọng của Vườn quốc gia Yok Đôn tại 3 xã vùng đệm (Krông Na, Ea Huar, Ea
Wer) cho thấy 51% nhận biết được vai trò và tầm quan trọng, 21% biết nhưng
không rõ, 18% không rõ ranh giới, còn lại 10% không biết Vườn quốc gia Yok
Đôn ở đâu. Điều này là do công tác tuyên truyền chưa thực hiện tốt. Nguyên nhân
là do trình độ dân trí thấp. Số lượng học sinh các cấp trong toàn vùng là 6.967
chiếm 0,21% tổng dân cư. Nhiều người cho rằng tài nguyên rừng là vô tận nên
luôn luôn muốn tìm cách khai thác và khai thác một cách cạn kiệt khi có cơ hội.
Nhiều trẻ em không thích đến trường, thậm chí chúng cũng không được bố mẹ
khuyến khích đến trường mà lại thích vào rừng thu hái lâm sản và chăn thả gia súc.
Hiệu lực pháp luật và chính sách. Hiệu lực thi hành pháp luật trong cộng đồng
và cán bộ địa phương còn hạn chế, hành lang pháp lý chưa đủ mạnh. Các vụ vượt
quá thẩm quyền chuyển cấp trên thời gian xử còn kéo dài chưa có tác dụng giáo
dục cho cộng đồng. Chính sách đãi ngộ, quan tâm của Nhà nước đối với lực lượng
kiểm lâm chưa thỏa đáng. Kiểm lâm thường xuyên bị đe dọa bởi những đối tượng
có hành vi khai thác trộm lâm sản. Họ chưa yên tâm với công tác. Hiện biên chế
kiểm lâm còn thiếu nhiều (theo quy định với diện tích 115.545ha, biên chế cần là
231 người, nhưng tới năm 2008 mới chỉ có 72 người). Đây là một khó khăn trong
công tác quản lý bảo vệ rừng Vườn quốc gia Yok Đôn. Việc nâng cao năng lực kỹ
năng về bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi pháp luật cho kiểm lâm chưa ngang
tầm nhiệm vụ.

×