Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP-Đánh giá thực trạng Quản lý Thuế Giá trị gia tăng đối với Doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.14 KB, 22 trang )

VAT
2.3. Đánh giá thực trạng Quản lý Thuế Giá trị gia tăng đối với Doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay:
2.3.1. Kết quả đạt được:
Thuế gia trị gia tăng ngày càng khẳng định được đây là loại thuế tiên tiến nhằm tạo ra sự công bằng và
tiến bộ. Thuế GTGT đã góp phần làm tăng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Sự đóng
góp của Thuế GTGT tăng liên tục qua các năm. Năm 2010, Thuế GTGT đóng góp 158,661 tỷ đồng (chiếm 33%
tổng thu từ Thuế) vào ngân sách nhà nước.
Hệ thống Thuế GTGT cũng tạo ra môi trường kinh doanh hơn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận
lợi, ưu tiên cho hàng hóa được khuyến khích phát triển. Đặc biệt là hàng hóa xuất khẩu, không chỉ áp dụng mức
thuế suất ưu đại mà chính việc sử dụng thuế GTGT cũng giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng hội nhập với thị
trường thế giới do cùng được áp dụng bởi một sắc thuế chung.
Với bước đi đột phá trong ngành thuế thông qua việc ban hành những quy định mới về kê khai, nộp thuế
và quản lý thuế đã tạo ra môi trường mới thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hệ thống quản lý Thuế nói chung và Thuế GTGT nói riêng đang ngày càng hướng tới sự chủ động và tiết kiệm
hơn cho cả hai phía doanh nghiệp và Nhà nước. Hệ thống thuế GTGT đã bớt rườm rà trong các khâu thủ tục
hành chính với việc trao cho DN quyền tự chủ hơn trong việc kê khai, nộp thuế. Năm 2009, số giờ thủ tục hành
chính về thuế kỷ lục lên đến 1050h cho việc nộp thuế ở nước ta thì hiện nay với cơ chế mới DN đã chủ động
hơn về thời gian, thủ tục và hình thức nộp thuế. Đội ngũ cán bộ thuế ngày càng được nâng cao về nghiệp vụ và
trình độ đã giúp cho hệ thông thuế được vận hành trơn chu. Sự đánh giá về tính thân thiện của hệ thống quản lý
với đối tượng ngày càng được cải thiện.
Một điểm sáng nữa của hệ thống thuế là việc tiến hành áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế.
Công tác quản lý thuế ngày càng sâu sát hơn, tạo sự liên kết giữa các cơ quan có cung chức năng quản lý thuế
trên cơ sở dữ liệu chung, nâng cao chất lượng quản lý tránh tình trạng các doanh nghiệp cố tình trốn thuế.
Đồng thời về mặt xã hội thì Thuế GTGT tăng cũng cải thiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập
người dân.
Hạn chế trong quản lý thuế:
2.3.2.1 Hạn chế trong chính sách thuế:
Hệ thống pháp luật ban hành chưa được thống nhất giữa các cơ quan, ban ngành, còn nhiều bất cập,
thiếu tính cụ thể gây khó khăn, trở ngại trong quá trình triển khai áp dụng luật cho các doanh nghiệp, cũng như
không đảm bảo tính trung lập của thuế.
+ Về đối tượng không chịu thuế: Điều 5 luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc


diện không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách thuế GTGT là mở rộng
diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến
khích xuất khẩu gây gián đoạn trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp.
+ Về thuế suất thuế GTGT: Hiện nay có 2 mức thuế suất 5% và 10% (không kể thuế suất 0%), một số
hàng hóa, dịch vụ vẫn cần có sự ưu đãi từ phía nhà nước thông qua việc áp dụng mức thuế suất thấp hơn các
hàng hóa, dịch vụ khác. Tuy nhiên, việc qui định cùng 1 lúc nhiều mức thuế suất đã tạo ra sự không công bằng
giữa các hàng hóa, dịch vụ thuộc các mức thuế suất khác nhau. Hơn nữa, việc qui định này lại dựa trên công
dụng của hàng hóa hoặc nguyên vật liệu trong kết cấu nên rất khó xác định thuế suất đối với từng mặt hàng.
Trên thực tế, cơ quan thuế và doanh nghiệp nhiều khi cũng không xác định được hàng hóa chịu mức thuế suất là
bao nhiêu (5% hay 10%).
+ Về ngưỡng chịu thuế GTGT: hiện nay tất cả các cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu hàng hoá, dịch
vụ chịu thuế GTGT đều là người nộp thuế, trừ cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ có mức thu nhập bình quân
tháng thấp hơn mức lương tối thiểu của công chức nhà nước. Thực tế cho thấy, phương pháp trực tiếp được áp
dụng chủ yếu đối với các cơ sở kinh doanh nhỏ, có chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ chưa hoàn thiện. Doanh số
hoạt động của các cơ sở này thấp, việc quản lý thu thuế tốn kém, không hiệu quả.
+ Về phương pháp tính thuế: Hiện có hai phương pháp xác định số thuế giá trị gia tăng phải nộp là
phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Do vậy, đã tạo ra một sự không công bằng về nghĩa vụ thuế
giữa hai nhóm đối tượng, không tạo nên tính liên hoàn trong các khâu đánh thuế và cũng giảm tính trung lập
của sắc thuế này.
2.3.2.2. Hạn chế trong thực hiện quản lý thuế:
- Kê khai và nộp thuế GTGT:
+ Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa xuất hiện một cách
đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế.
+ Việc cho các doanh nghiệp tự in hóa đơn là một bước đi tiến bộ nhưng vẫn còn những thiếu xót.
Được ban hành trong thời gian ngắn, đã gây ra sự lúng túng cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện chủ
trương đường lối mới.
+ Tiền thuế đối với hoạt động vãng lai - một khoản tiền phải chia ra để nộp vào ngân sách qua nhiều
cửa. Theo quy định về thuế giá trị gia tăng (GTGT) hiện hành, khi DN phát sinh doanh thu tại địa phương khác
nơi đặt trụ sở chính thì phải nộp thuế tại địa phương đó, với một tỷ lệ nhất định, phần còn lại sẽ nộp tại nơi DN
đặt trụ sở chính, tạo thêm thủ tục phiền hà cho DN. Hơn nữa, cơ quan thuế nơi nộp thuế vãng lai không đủ

thông tin và căn cứ để thực hiện các biện pháp quản lý thuế (thu nợ, cưỡng chế…) đối với các hoạt động vãng
lai.
- Xử lý hoàn thuế:
+ Quá trình thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của các doanh nghiệp.
Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hoá đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ
nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối chiếu hoá đơn thực hiện băng phương pháp thủ công, kéo dài thời
gian kiểm tra làm chậm việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây thêm khó
khăn cho doanh nghiệp.
+ Việc các cơ sở xuất khẩu nhưng có số thuế đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng
chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì không được hoàn thuế theo tháng, điều này sẽ làm cho vốn của
các doanh nghiệp bị lưu lại khá lâu gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo của họ.
+ Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp, thì dù số thuế đầu
vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn theo tháng mà phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế
rất lớn của quy định về hoàn thuế.
+ Trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT đối với các nhà thầu chính của dự án ODA, cơ quan
thuế rất khó xác định chính xác số thuế GTGT đầu vào của nhà thầu chính, vì họ chỉ được hoàn thuế GTGT đầu
vào của hàng hóa, dịch vụ mua vào để thực hiện hợp đồng ký với chủ dự án, nhưng trên thực tế có nhiều hàng
hóa nhà thầu chính mua vào phục vụ cho nhiều dự án ngoài hợp đồng đã ký cho dự án ODA.
2.3.3.3 Hạn chế trong bộ máy quản lý thuế:
- Hệ thống cơ quan hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại
không đáng kể,… Các khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo.
- Bộ máy tổ chức ngành thuế chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta được tổ chức
theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối
tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do
đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình
quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một số
cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.
- Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ còn nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến
thức chuyên sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về kiến thức quản lý kinh tế,
quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước.

- Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn chưa nhiệt tình trong
việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc
thuế.
2.3.3. Nguyên nhân:
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan:
- Điều kiện, hoàn cảnh áp dụng thuế GTGT, khi mà chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa
lâu, các thành phần cũng như hoạt động kinh tế chưa phát triển một cách đồng đều,… Trong những năm gần
đây, khi nền kinh tế phát triển nhanh chóng thì sự xuất hiện của của các đối tượng kinh tế mới cũng chưa được
kịp thời đưa vào sự quản lý của luật thuế GTGT.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Tư tưởng, cơ chế chính sách đã hạn chế nhiều thành công của Luật thuế GTGT. Khi mới bắt đầu triển
khai sắc thuế này, quan điểm nóng vội muốn chuyển ngay từ thuế doanh thu sang thuế GTGT trên cơ sở vận
dụng kinh nghiệm của các nước đã áp dụng thành công mà không quan tâm đến giải pháp xử lý cần thiết mang
tính quá độ cho giai đoạn chuyển tiếp: như không quan tâm đến vấn đề hàng tồn kho, tài sản cố định lớn trước
ngày 31/12/1998. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp rất lo lắng và họ đã tìm mọi cách để trốn thuế.
- Hệ thống pháp luật về thuế chưa hoàn thiện và thiếu tính đồng bộ.
- Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu
của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán.
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong thời gian qua đã được nâng cao, song chưa đáp ứng
yêu cầu của công tác quản lý thuế mới.
- Kiến thức về thuế GTGT của các doanh nghiệp còn chưa cao.
TNDN
1. Chính sách thuế.
* Một số sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 18/2011/TT-BTC so với Thông tư 130/2008/TT-BTC
• Phương pháp tính thuế TNDN.
- Đơn vị sự nghiệp có phát sinh hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp mà các đơn vị này hạch toán được doanh thu nhưng không hạch toán và xác định được chi phí,
thu nhập của hoạt động kinh doanh thì kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tính theo tỷ lệ % trên doanh thu
bán hàng hoá, dịch vụ, cụ thể như sau:
+ Đối với dịch vụ: 5%;

+ Đối với kinh doanh hàng hoá: 1%;
+ Đối với hoạt động khác (bao gồm cả hoạt động giáo dục, y tế, biểu diễn nghệ thuật): 2%;
Ví dụ: Đơn vị sự nghiệp A có phát sinh hoạt động cho thuê nhà, doanh thu cho thuê nhà 1 năm là 100 triệu
đồng, đơn vị không hạch toán và xác định được chi phí, thu nhập của hoạt động cho thuê nhà nêu trên do vậy
đơn vị lựa chọn kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tính theo tỷ lệ % trên doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ
như sau:
Số thuế TNDN phải nộp = 100.000.000 đồng x 5% = 5.000.000 đồng.
• Các khoản chi phí được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
Hàng hoá bị hư hỏng do hết hạn sử dụng, bị hư hỏng do thay đổi quá trình sinh hoá tự nhiên không được bồi
thường và nằm trong định mức do doanh nghiệp xây dựng thì được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu
nhập chịu thuế. Trường hợp hàng hoá bị hư hỏng do hết hạn sử dụng, bị hư hỏng do thay đổi quá trình sinh hoá
tự nhiên vượt quá định mức do doanh nghiệp xây dựng thì phần vượt định mức sẽ không được tính vào chi phí
được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
Trường hợp TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đang dùng cho SXKD nhưng phải tạm thời dừng
do sản xuất theo mùa vụ với thời gian dưới 9 tháng; tạm thời dừng để sửa chữa, để di dời di chuyển địa điểm, để
bảo trì, bảo dưỡng theo định kỳ, với thời gian dưới 12 tháng, sau đó TSCĐ tiếp tục đưa vào phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh thì trong khoảng thời gian tạm dừng đó doanh nghiệp được trích khấu hao và khoản
chi phí khấu hao TSCĐ trong thời gian tạm dừng được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu
thuế.
Quyền sử dụng đất lâu dài không được trích khấu hao vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế;
quyền sử dụng đất có thời hạn nếu có đầy đủ hoá đơn chứng từ và thực hiện đúng các thủ tục theo quy định của
pháp luật, có tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì được phân bổ dần vào chi phí được trừ theo thời
hạn được phép sử dụng đất theo quy định
Không tính vào chi phí được trừ: Các khoản tiền thưởng cho người lao động không được ghi cụ thể điều
kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động; Thoả ước lao động tập
thể; Quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty, Tập đoàn; Quy chế thưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị,
Tổng giám đốc, Giám đốc quy định theo quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty.
Không tính vào chi phí được trừ: Phần chi trang phục bằng hiện vật cho người lao động không có hoá đơn,
chứng từ; phần chi trang phục bằng tiền, bằng hiện vật cho người lao động vượt quá 05 (năm) triệu
đồng/người/năm.

Trường hợp doanh nghiệp có chi trang phục cả bằng tiền và hiện vật cho người lao động thì mức chi tối đa
để tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế không vượt quá 05 (năm) triệu đồng/người/năm.
Đối với những ngành kinh doanh có tính chất đặc thù thì chi phí này được thực hiện theo quy định cụ thể
của Bộ Tài chính
Không tính vào chi phí được trừ: Chi phụ cấp tàu xe đi nghỉ phép không đúng theo quy định của Bộ Luật
Lao động; Phần chi phụ cấp cho người lao động đi công tác trong nước và nước ngoài vượt quá 2 lần mức quy
định theo hướng dẫn của Bộ Tài chính đối với cán bộ công chức, viên chức Nhà nước.
Chi phí đi lại và tiền thuê chỗ ở cho người lao động đi công tác nếu có đầy đủ hóa đơn chứng từ hợp pháp
theo quy định được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Trường hợp doanh nghiệp có
khoán tiền đi lại và tiền ở cho người lao động thì được tính vào chi phí được trừ khoản chi khoán tiền đi lại và
tiền ở theo quy định của Bộ Tài chính đối với cán bộ công chức, viên chức Nhà nước.
• Ưu đãi thuế TNDN
Trường hợp doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư mà dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư dưới
mười lăm (15) tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì hồ sơ để xác định
dự án đầu tư là giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư mà dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ
mười lăm (15) tỷ đồng Việt Nam đến dưới ba trăm (300) tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực
đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư theo mẫu tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp
tỉnh
Doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhưng có phát sinh thu nhập từ hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường (sau đây gọi chung là lĩnh vực xã hội hoá) nếu đủ
điều kiện thuộc Danh mục loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn về lĩnh vực xã hội hoá do Thủ tướng Chính phủ
quy định thì áp dụng thuế suất thuế TNDN 10% trong suốt thời gian hoạt động đối với phần thu nhập có được
từ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường kể từ ngày
01/01/2009.
Doanh nghiệp có hoạt động trong lĩnh vực xã hội hoá trước ngày 01/01/2009 và đủ điều kiện thuộc Danh mục
loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn về lĩnh vực xã hội do Thủ tướng Chính phủ quy định mà đang áp dụng
mức thuế suất cao hơn mức 10% đối với phần thu nhập từ hoạt động xã hội hoá thì được chuyển sang áp dụng
mức thuế suất 10% đối với phần thu nhập từ hoạt động xã hội hoá kể từ ngày 01/01/2009.
a.Vai trò:

- Thuế TNDN góp phần kích thích tăng trưởng, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, Ngoài ra còn khuyến
khích miễn, giảm thuế đối với các trường hợp đầu tư dây chuyền sản xuất mới mở rộng quy mô, đổi mới công
nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, di chuyển cơ sở kinh doanh, khuyến khích đối
với doanh nghiệp xuất khẩu.
(- Thuế TNDN góp phần tăng cường mở rộng quy mô vốn của doanh nghiêp)
- Thuế TNDN góp phần bình ổn thị trường giá cả: Với cơ chế điều chỉnh của mình thuế TNDN không điều
chỉnh qua giá mà điều chỉnh sau khi có thu nhập, vì vậy dù có nhiều quy định ưu đãi, miễn giảm thuế cũng
không gây ảnh hưởng đến cơ chế giá của thị trường, đảm bảo không có sự biến động hàng hóa thiết yếu trên thị
trường, gia tăng lưu thông hàng hóa, hỗ trợ cho những địa bàn kinh tế khó khăn .
- Thuế TNDN là nguồn thu quan trọng cho Ngân sách nhà nước.
- Thực hiện thuế TNDN với đảm bảo công bằng xã hội và hoàn thiện chế độ hóa đơn chứng từ: Để từng bước
thực hiện chính sách công bằng về thuế, việc kê khai và tính đúng thuế TNDN trên nguyên tắc phải có hóa đơn
chứng từ đầy đủ để xác định chi phí được khấu trừ. Từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp, đối tượng nộp thuế chú
trọng tốt hơn công tác mở sổ sách kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hóa đơn chứng từ.
Hạn chế
- Thuế tndn ở việt nam hiện nay đang ngang bằng với tq, nhưng cao hơn singapo, hàn quốc, đài loan…
nên chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn để tái đầu tư, mở rộng sxkd.
- Quy định hạch toán tiền lương tiền thưởng cũng có nhiều điểm chưa rõ ràng dẫn đến thiếu công bằng:
như tiền lương tiền công của chủ dn tư nhân, công ty TNHH 1 thành viên không được hạch toán vào chi
phí ( Trường hợp DN ký hợp đồng với lao động là người nước ngoài có ghi khoản chi về tiền học cho
con tại vn theo bậc học phổ thông thì được tính vào chi phí trong khi đó cũng là tiền học cho con, nếu là
dn trả tiền cho người lao động tự tìm nhà ở , tự trả tiền học phí lại không được tính vào chi phí ).
- Đại diện tập đoàn viettel: thuế suất 25% như hiện nay được cho là dễ dàng hơn với ngành thuế nhưng lại
gây khó khăn cho dn nhất là trong bối cảnh tác động từ khủng hoảng kttg, cũng như chính sách thắt chăt
tiền tệ, tai chính ở trong nước tác động đến các dn không giống nhau. Thuế suất cao sẽ dễ dàng tăng điều
tiết tập trung cho NSNN, tuy nhiên sẽ khiến nhiều dn gặp khó khăn, về lâu dài Nhà nước không đc lợi.
- Bên cạnh đó quy định chi phí khánh tiết, tiếp thị, quảng cáo,,, chỉ được giới hạn trong 10% doanh thu là
không hợp lý. Thực tế hầu hết các dn đều vấp phải quy định này và phải tìm cách che giấu lách luât.
Việc khống chế mức trả tối đa để ngăn ngừa hiện tượng tránh thuế đối với một số khoản chi là không
cần thiết. Ví dụ như chi phí quảng cáo, tiếp thị, ăn giữa ca, trang phục, trả lãi vay, hoa hồng môi giới và

chiết khấu thanh toán là các khoản chi cần thiết để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, chủ sở hữu
DN không phải là đối tượng trực tiếp thụ hưởng, hơn nữa khoản chi của DN này lại là nguồn thu của
DN, cá nhân khác, do đó nguồn thu cho ngân sách vẫn không hề giảm đi.
- Trong bối cảnh hội nhập KTQT, các nước luôn có xu hướng giảm thuế tndn nhằm nâng cao tính cạnh
tranh, tăng cường thu hút vốn đầu tư. ở vn mức thuế 25% không phải quá cao nhưng có nhiều khoản chi
phí phát sinh trong hoạt động sxkd không được coi là chi phí hợp lí khi tín thuế TNDN. Chính điều này
đã khiến mức thuế suất thực tế của các dn đóng góp vượt xa mức thuế suất quy định, ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của DN cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Nhiều chính sách như khuyến khích sd nhiều lao động, chuyển giao công nghệ được sử dụng nhiều với
mục đích xung đột nhau,
- Các quy định về khấu hao tài sản quá phức tạp khi có đến 7 nhóm TSCĐ gồm hơn 50 lại với thời gian sử
dụng khấu hao khac nhau. Dn có thể lựa chọn phương pháp và thời gian sử dụng khác nhau với mỗi loại
tài sản gây tốn kém về thời gian và chi phí quản lý. Trường hợp TSCĐ khấu hao chưa hết nhưng thay
đổi mục đích sử dụng hoặc chuyển nhượng thì việc xác định mức hao mòn để trừ vào chi phí ở mỗi đơn
vị là rất khó khăn
- Chính sách hoãn, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm cũng tạo ra nhiều mặt hạn chế:
Thứ nhất, chính sách thuế là chính sách kinh tế. Nếu áp đặt vào chính sách kinh tế quan trọng này quá
nhiều mục tiêu an sinh xã hội tất yếu sẽ làm mất ý nghĩa là một công cụ quản lý của một chính sách kinh tế.
Những mục tiêu xã hội cần giải quyết nhằm bảo đảm tính ưu việt của chế độ ta cần được giải quyết thông qua
những chính sách khác.
Thứ hai, miễn thuế, giảm thuế dù ở mức độ khác nhau đều làm ảnh hưởng đến sự công bằng trong cạnh
tranh trên thương trường. Đó là điều không nên để xảy ra từ một chính sách kinh tế của nhà nước trong kinh tế
thị trường;
Thứ ba, việc miễn thuế, giảm thuế, vô hình trung, tạo ra một tâm lý chạy, xin và làm lu mờ ý thức về
nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước của các cơ sở kinh doanh
Thứ tư, việc miễn thuế, giảm thuế tất yếu sẽ dẫn đến những khó khăn, phức tạp hơn cho công tác quản lý
thuế. Đó là “mảnh đất màu mỡ” có thể phát sinh các hành vi tiêu cực cả đối với các DN và cán bộ, công chức
thuế.
Cuối cùng, miễn, giảm hay gia hạn nộp thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến cân đối thu - chi NSNN và các
cán cân kinh tế vĩ mô khác, vì vậy, phải thực hiện từng bước có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở cân đối thu –

chi.
2. Quản lý thuế
a. Ưu điểm
• Thủ tục hành chính về thuế TNDN được đơn giản hóa
Các thủ tục hành chính được đơn giản hóa nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh
bạch, tạo sự thuận lợi, giảm chi phí, phiền hà cho các doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành
chính. Nó cũng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; góp phần
phòng chống tham nhũng và lãng phí.
Thủ tục đăng kí thuế cũng được triển khai theo cơ chế liên thông một cửa, thống nhất áp dụng chung mã số
thuế với đăng ký kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp, rút ngắn thời gian giải quyết đối với thủ tục đăng ký
kinh doanh và đăng ký thuế từ 15 ngày xuống còn 5 ngày làm việc. Cũng theo quyết định mới này thì sở kế
hoạch đầu tư tỉnh thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan đầu mối tiếp nhận hồ sơ và trả lời giải quyết các
thủ tục hành chính về đăng kí thuế cũng như đăng kí kinh doanh. Điều này rất thuận lợi cho các doanh nghiệp
mới thành lập, làm cho thủ tục thành lập doanh nghiệp nhanh chóng hơn, đỡ mất thời gian cho các doanh
nghiệp.
Các mẫu biểu hồ sơ khai thuế được thiết kế, ban hành đồng bộ với các quy định của Luật quản lý thuế. Các
văn bản pháp luật, mẫu biểu và quy trình thủ tục thực hiện đều được công khai và cung cấp cho người nộp thuế
qua bộ phận tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế tại cơ quan thuế địa phương và thông qua trang Web ngành thuế
,trang web Bộ Tài chính và các trang thông tin điện tử của chính quyền địa phương. Nhờ đó, việc tiếp cận thông
tin và thực hiện pháp luật về thuế của người dân và doanh nghiệp đã được thuận lợi, ý thức tuân thủ pháp luật
thuế ngày càng nâng cao.
Thủ tục thu nộp thuế, hoàn thuế được đơn giản hoá tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế.
• Đối mới phương pháp quản lý việc nộp thuế của doanh nghiệp
Doanh nghiệp tiến hành nộp thuế TNDN sẽ tiến hành tự tính- tự kê khai- tự nộp. Theo phương pháp mới này thì
ngành thuế đề cao nghĩa vụ của các doanh nghiệp khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ngành thuế cũng thực hiện chế độ một cửa cung cấp dịch vụ tập trung hoàn toàn phù hợp với xu hướng hiện
đại, chuyên nghiệp, chuyên sâu của cơ quan thuế, cụ thể đảm bảo sự chuyên nghiệp theo đúng các chức năng
quản lý thuế; giảm đầu mối tiếp xúc trực tiếp giữa người nộp thuế và công chức thuế. Đồng thời, thông qua cơ
chế “một cửa”, cơ quan thuế có được đầu mối theo dõi, đánh giá và đôn đốc việc giải quyết thủ tục hành chính
thuế ở các bộ phận chức năng, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ của cơ quan thuế.

• Ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện nhanh chóng các thủ tục hành
chính
Cơ quan thuế đã triển khai áp dụng việc đăng kí thuế, khai thuế và nộp thuế qua mạng : Thay vì phải đến cơ
quan thuế nộp hồ sơ và làm các thủ tục giấy tờ tại cơ quan thuế thì bây giờ doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ qua
mạng và cơ quan thuế sẽ trả lời doanh nghiệp qua mạng về việc bổ sung các giấy tờ hay các sai sót cho doanh
nghiệp. Điều này làm cho doanh nghiệp không phải đi lại nhiều trong việc đăng kí thuế. Bên cạnh đó ngành
Thuế đã triển khai hệ thống ứng dụng công nghệ mã vạch hai chiều trên tờ khai nộp thuế của người nộp thuế.
Việc triển khai phần mềm hỗ trợ kê khai vào thực tế đã hỗ trợ doanh nghiệp kê khai tờ khai theo đúng quy định
của cơ quan thuế, cập nhật kịp thời những thay đổi về chính sách, giảm các lỗi số học, tiết kiệm thời gian, cung
cấp số liệu đầy đủ kịp thời, chi tiết cho việc báo cáo… và mang lại nhiều lợi ích cụ thể cho doanh nghiệp cũng
như cán bộ thuế.
Việc kê khai thuế qua mạng đã tạo cho doanh nghiệp rất nhiều thuận lợi:
- Không giới hạn số lần gửi 1 tờ khai: Khi doanh nghiệp kê khai sai và vẫn còn hạn nộp tờ khai, doanh
nghiệp có thể gửi tờ khai thay thế với số lần gửi thay thế không hạn chế. Doanh nghiệp có thể gửi tờ
khai vào trước 24h ngày cuối cùng nộp tờ khai vẫn không bị tính nộp chậm.
- Không giới hạn về “Không gian”: Doanh nghiệp có thể khai thuế qua mạng khi ở cơ quan, đang đi du
lịch, đang về quê cùng gia đình, đang đi công tác đột xuất…
- Không giới hạn về thời gian: Doanh nghiệp có thể gửi tờ khai vào tất cả các ngày kể cả ngày lễ, tết, thứ
7, chủ nhật và có thể gửi vào bất kỳ thời gian nào trong ngày từ 0h00 đến 24h00.
- Tiết kiệm chi phí: Tiết kiệm chi phí in tờ khai; tiết kiệm chi phí đi lại; tiết kiệm thời gian: thời gian tắc
đường, thời gian xếp hàng …
- Trường hợp không có mặt ở trụ sở: Người đại diện doanh nghiệp vẫn có thể tự ký chữ ký số và khai thuế
thông qua mạng internet hoặc có thể uỷ quyền quản lý chữ ký số cho người được tin cậy để ký và nộp tờ
khai.
- Thông tin và số liệu khai thuế của doanh nghiệp: Đảm bảo được gửi đến cơ quan thuế một cách nhanh
chóng, chính xác, không sai sót, nhầm lẫn do phần mềm HTKK hỗ trợ tính toán, kiểm tra lỗi không cố ý
khi khai thuế.
Không chỉ có vậy, dịch vụ này còn tiết kiệm chi phí về thời gian, in tờ khai hay chi phí đi lại cho DN.
Trường hợp không có mặt ở trụ sở, người đại diện DN vẫn có thể tự ký chữ ký số và khai thuế thông qua mạng
internet hoặc có thể uỷ quyền quản lý chữ ký số cho người được tin cậy để ký và nộp tờ khai. Những thông tin

và số liệu khai thuế của DN gửi đến cơ quan thuế một cách nhanh chóng, chính xác và đảm bảo, không sai sót,
nhầm lẫn do phần mềm hỗ trợ kê khai thuế HTKK đã hỗ trợ tính toán, kiểm tra lỗi không cố ý khi khai thuế.
Cũng tạo nhiều thuận lợi cho cơ quan thuế khi giảm tình trạng quá tải, áp lực cho các cơ quan thuế mỗi khi
đến kỳ hạn nộp hồ sơ khai thuế. Giảm thời gian, nhân lực tiếp nhận tờ khai, đặc biệt là giảm rất nhiều chi phí
cho việc lưu trữ hồ sơ khai thuế cũng như tìm kiếm thông tin.
Ngành thuế đang có kế hoạch triển khai nộp thuế qua mạng. Hiện nay thì ngành thuế đang thực hiện Dự án
hiện đại hóa thu ngân sách Nhà nước giữa các cơ quan thuế – kho bạc – hải quan – tài chính; phối hợp KBNN
và một số ngân hàng thương mại thực hiện dự án ‘Nộp thuế qua ngân hàng’, giúp người nộp thuế giảm chi phí
về thời gian, giấy tờ, bảo đảm tính chính xác trong quá trình thu thuế vào ngân sách Nhà nước.
Tính đến hết năm 2011, cả nước đã có hơn 65000 doanh nghiệp đăng kí khai thuế qua mạng. Kế hoạch năm
2012 là tiếp tục mở rộng triển khai nộp thuế qua mạng; Triển khai thí điểm hệ thống cung cấp dịch vụ thuế điện
tử e-Tax service; Triển khai mở rộng hệ thống cung cấp thông tin thuế cho người nộp thuế qua điện thoại,
email…; Phối hợp với ngân hàng xây dựng một số ứng dụng hỗ trợ thực hiện nộp thuế điện tử; Duy trì hệ thống
ứng dụng phục vụ nộp thuế, nộp tờ khai qua mạng và trang web ngành Thuế.
Năm 2013, triển khai mở rộng hệ thống ứng dụng cung cấp dịch vụ thuế điện tử, bảo đảm 50% doanh
nghiệp kê khai qua mạng và 30% nộp thuế qua mạng; Triển khai mở rộng và duy trì các ứng dụng đã triển khai
trong năm trước; Tích hợp các dịch vụ thuế vào một Cổng điện tử ngành Thuế thống nhất toàn quốc.
• Nâng cao chất lượng công tác thanh tra và kiểm tra
Với nội bộ ngành thuế việc áp dụng quản lý thuế đã tạo điều kiện để cơ quan quản lý thuế quản lý lại theo
mô hình chức năng. Cán bộ công chúc được bố trí sắp xếp lại đc đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên sâu
trong lĩnh vực. thanh tra thuế đã dựa trên cơ sở thu nhập và phân tích thông tin, đánh giá mức độ tuân thủ và xác
định rủi ro phân loại doanh nghiệp để để quyết định thanh tra thuế với những trường hợp có vi phạm luật thuế
hay có rủi ro về thuế. Do đó đã tập trung được nguồn lực để thực hiện công tác thanh tra đúng theo đối tượng
nhằm chống thất thu có hiệu quả hơn, và đặc biệt là không làm phiền những doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa
vụ thuế.( số liệu về thanh tra thuế 2011)
• Kịp thời xử lý các khoản nợ thuế.
Đối với chức năng quản lý nợ , trên cơ sở những điều chỉnh của luật quản lý thuế, nghành thuế đã xây dựng
được bộ máy quản lý nợ và tình trạng nơ trong toàn ngành từ đó xử lý dứt điểm nợ cũ, giảm thiểu nợ mới phát
sinh. Bằng những biện pháp nghiệp vụ có hiệu quả, tỷ trọng nợ thuế nội địa trên tổng thu ngân sách nhà nước
(trừ dầu): có xu hướng giảm dần qua các năm: năm 2007 là 7%, năm 2010 là 5,5%. Tỷ trọng nợ thuế đối với

hàng hóa xuất nhập khẩu trên tổng thu ngân sách của năm 2008 là 2,81%, năm 2009 là : 2,92%, năm 2010 là
2,37%./.
• Luật thuế TNDN được sửa đổi tạo môi trường đầu tư thông thoáng,và hấp dẫn hơn:
Theo đó số doanh nghiệp, quy mô đầu tư tăng do môi trường đầu tư hấp dẫn. cùng với việc giảm thuế
suất( 1/1/2009 thuế suất chung cho tât các các doanh nghiệp là 25%) , các căn cứ tính thuế được quy đinh rõ
hơn, ( luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008) đã khuyến khích các doanh nghiệp tự giác hạch toán kê khai đầy
đủ. Việc giao quyền cho chủ doanh nghiệp tự xác định điều kiên để ưu đãi thuế TNDN mà không cần giấy phép
đầu tư giấy phép chứng nhận ưu đãi, cơ chế xin cho đã xóa bỏ.
b. Những bất cập còn tồn tại:
• Thời gian quyết toán thuế:
Luật Quản lý thuế quy định thời hạn quyết toán thuế TNDN chậm nhất là ngày 31/3 của năm tiếp theo
(90 ngày). Thời hạn 90 ngày là quy định chung cho tất cả các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, các doanh nghiệp lớn như các tập đoàn, tổng công ty. Trên thực tế, các doanh nghiệp này phải
tổng hợp dữ liệu từ các công ty con vào báo cáo tài chính hợp nhất. Đối với các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN, báo cáo tài chính nộp kèm theo báo cáo quyết toán thuế còn phải được kiểm toán bởi doanh nghiệp
kiểm toán độc lập (theo quy định của pháp luật về kế toán). Do đó, các tập đoàn, tổng công ty và các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN thường phát sinh việc chậm nộp hồ sơ quyết toán thuế năm, dẫn đến phải nộp phạt
chậm nộp hồ sơ khai quyết toán thuế > giải pháp: cần quy định thời gian hợp lý hơn với các loại hình dn
• Tính nợ thuế và truy thu thuế chưa phù hợp với tình hình kinh tế thực tế:
Nhiều trường hợp doanh nghiệp có số tiền nợ thuế lớn hoặc bị truy thu thuế với số tiền lớn (trường hợp
bị phạt từ 1 - 3 lần tiền thuế) vượt quá khả năng doanh nghiệp có thể thanh toán trong một lần khi có khó
khăn về tài chính trong ngắn hạn (giải pháp: Vì vậy, nếu doanh nghiệp được phép nộp dần số tiền nợ thuế
làm nhiều lần trong một khoảng thời gian nhất định thì vẫn đảm bảo được tiền thuế nộp vào ngân sách nhà
nước, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện
nghĩa vụ thuế và hạn chế tối đa các trường hợp bị cưỡng chế thuế.)
• Xóa nợ thuế, phạt thuế chưa phù hợp với thực tế:
Về xoá nợ tiền thuế, tiền phạt, Luật Quản lý thuế quy định các trường hợp được xoá nợ thuế là doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không
còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt và cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành
vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho thấy còn

có một số trường hợp khác phát sinh như có nhiều trường hợp nợ thuế, nợ phạt không phải do chủ quan của
doanh nghiệp mà do nguyên nhân khách quan (các thay đổi trong hệ thống chính sách thuế, hải quan, cải
cách doanh nghiệp từ 1990 đến nay, tác động của khủng hoảng kinh tế vào các năm 1998- 1999 và năm
2008- 2009), gây khó khăn cho việc xác định số tiền thuế phải nộp, tạo gánh nặng cho doanh nghiệp với các
khoản nợ phát sinh do lịch sử để lại chưa được xử lý. Do vậy, trên thực tế hiện còn tồn tại những khoản nợ
thuế đang thuộc diện khoanh nợ cần được xem xét để xử lý xoá nợ nhưng chưa có quy định để xử lý.
Tại điều 8 của Luật QLT quy định cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm " Giải thích, cung cấp thông tin liên
quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế". Luật cũng quy định các tổ chức , cá nhân có trách
nhiệm tự kê khai, tính thuế , nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Nhưng luật lại không quy định trường hợp cơ quan quản lý thuế giải thích, hướng dẫn sai, dẫn đến người nộp
thuế kê khai, tính thuế sai thì trách nhiệm của cơ quan thuế phải xác định và xử lý như thế nào. Thực tế đã cho
thấy, có một số trường hợp DN đã khởi kiện cơ quan thuế ra tòa vì hướng dẫn sai, rồi sau đó lại xử phạt DN.
• Chưa thu đúng và kịp thời số thuế TNDN vào NSNN:
Do các quy định chính sách thuế TNDN con chưa đồng bộ và chưa theo kịp thực tế phát triển kinh tế, vì
vậy nhiều trường hợp mặc dù chính sách thuế đã ban hành nhưng lại không được quy định rõ ràng dẫn đến còn
nhiều cách hiểu khác nhau nên trong thực tế quản lý thuế TNDN bộ tài chính, tổng cục thuế và một số cục thuế
địa phương đã ban hành văn bản không đúng quy định của pháp luật về thuế TNDN đz dẫn đến thất thu thuế
TNDN và trược tiếp ảnh hưởng tiêu cực đên môi trường đầu tư kinh doanh. Riêng trong năm 2011 ngành thuế
đã tiến hành thanh tra, kiểm tra tại 45 939 doanh nghiệp, đã xử lý truy thu 7683 tỷ đồng, giảm lô trên 8400 tỷ
đồng.
Thất thu thuế xuất phát trước hết là từ sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Trong năm 2010
và 2011, tổng cục thuế đã thanh tra, kiểm tra nhiều lần và phát hiện nhiều sai phạm từ những năm trước đó với
số thuế thất thu rất lớn. Như sai phạm từ hướng dẫn miễn giảm thuế TNDN, hạch toán các chi phí được trừ khi
xác định thu nhập chịu thuế TNDN …đã làm thất thu ước tính khoảng 233.4 tỷ đồng. Ngoài ra, việc xử lý kết
quả thanh tra của tổng cục thuế như đối với cục thuế Hà Tây, công ty TNHH Ford Việt Nam, công ty
Vinacomin…cũng chưa thỏa đáng dẫn tới không thu thuế kịp thời, không bình đẳng trong thực thi pháp luật về
thuế.
Cũng quan trọng không kém là ý thức tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế còn hạn chế, nhiều
trường hợp tìm mọi cách để chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước nên tình trạng thất thu thuế từ những vi phạm
pháp luật về hóa đơn như khai khống, khai không trung thực với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp hoặc sử dụng các hóa đơn khống, hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ trốn để kê khai, quyết toán
thuế TNDN diễn ra phổ biến, có chiều hướng nghiêm trọng.(cụ thể hơn nhường các bạn VAT ^^)
Một vấn đề nổi cộm hiện nay là hiện tượng chuyển giá không chỉ ở các doanh nghiệp FDI mà xuất hiện
ở cả một số doanh nghiệp trong nước. Chuyển giá có rất nhiều hình thức, cả chuyển giá lãi và chuyển giá lỗ.
Mục đích cuối cùng đều là tối thiểu hóa nghĩa vụ nộp thuế, tối đa hóa lợi nhuận, thậm chí có khi còn gây ra tình
trạng “lỗ giả, lãi thật”. Chỉ tính trên các con số tại quyết định xử lý của Tổng cục Thuế trong 9 tháng năm 2011,
đã có 3.754 tỷ đồng được loại khỏi số lỗ của các doanh nghiệp FDI. Cụ thể, nhóm sai phạm phổ biến nhất được
phát giác là hạch toán chi phí trước nhưng chưa chi; trích lập dự phòng chưa đúng quy định; chi phí không có
hóa đơn, chứng từ, vượt định mức; hạch toán chi phí không phục vụ sản xuất kinh doanh. Theo kết quả thanh
tra, 401 DN bị phát hiện có các sai phạm kể trên, chiếm 83% tổng số DN sai phạm bị Tổng cục Thuế chỉ ra.
Qua hạch toán lại, các DN này giảm lỗ 1.544 tỉ đồng, chiếm gần 54% tổng số giảm lỗ mà Tổng cục Thuế xác
định được. Nhóm sai phạm phổ biến thứ hai là hạch toán chi phí lãi vay không đúng quy định. Theo số liệu của
Tổng cục Thuế, có tới 104 DN vi phạm nội dung này, làm số lỗ phát sinh 258,8 tỉ đồng. Các doanh nghiệp trong
nước cũng đã kịp học hỏi phương pháp trốn thuế này. Giải pháp: thực hiện các phương pháp thỏa thuận giá
trước (APA), tăng cường kiểm tra thanh tra giám sát các doanh nghiệp FDI cũng như các doanh nghiệp trong
nước…
Một số cách tránh thuế trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp, có thể là (i) đăng ký trích khấu hao
nhanh tài sản cố định trong trường hợp dự kiến có lãi nhiều hay ngược lại đăng ký trích khấu hao chậm nếu
đang trong thời gian được ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; (ii) chọn đăng ký phương thức khấu
hao thích hợp tùy theo dự kiến doanh nghiệp sẽ có lãi hay bị lỗ (phương thức đường thẳng; theo số dư giảm dần
có điều chỉnh; hay theo số lượng, khối lượng sản phẩm); (iii) đăng ký chuyển lỗ trong vòng 5 năm vào những
năm tài chính mà doanh nghiệp dự kiến sẽ có lãi lớn để dùng số lỗ đó giảm thu nhập chịu thuế; (iv) doanh
nghiệp đi vay tiền chịu lãi để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và đưa tiền lãi đó vào chi phí để giảm thu
nhập chịu thuế thay vì yêu cầu cổ đông, thành viên góp vốn tự đi vay tiền để góp vốn điều lệ (tiền lãi từ tiền vay
phục vụ cho việc góp vốn vào doanh nghiệp không được xem là chi phí hợp lý).
Bên cạnh đó, tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế TNDN còn khá phổ biến và diễn ra ở khắp các địa
phương trong cả nước. Tình trạng trốn thuế, chây ì nộp thuế không những làm thất thu cho NSNN mà còn tạo ra
sự khong bình đẳng, công bằng xã hội và bình đẳng cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Theo công bố từ hội
nghị chống thất thu và nợ đọng thuế 1/3/2012, do tình hình kinh tế khó khăn cộng với việc ngân hàng thắt chặt
cho vay đã khiến nhiều doanh nghiệp (DN) phải chấp nhận nợ thuế để chiếm dụng số tiền này làm vốn kinh

doanh. Không chỉ khó khăn về tiêu thụ hàng hóa, việc thiếu vốn khiến DN không chỉ chậm nộp thuế mà còn
“chây ì” thanh toán tiền hàng trong giao dịch mua bán nhằm chiếm dụng vốn lẫn nhau, dẫn đến tình trạng nợ
đọng thuế trầm trọng thêm. Số tiền thuế nợ của nhóm này (không kể nhóm DN phá sản, bỏ trốn… - NV) đã
chiếm tới 72% tổng số nợ thuế, trong đó, nợ trên 90 ngày đã chiếm 63%. Đặc biệt, một số DN đã nợ từ hàng
chục đến hàng trăm tỉ đồng tiền thuế và nợ kéo dài. Trong số này có nhiều DN tên tuổi như Hoàng Anh Gia Lai,
Vinashin, Công ty Cổ phần Tập đoàn Thành Công, Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội, Công ty Cổ phần Cavico
Xây dựng cầu hầm, Công ty Cổ phần Bia rượu và nước giải khát Phú Yên. Riêng Hoàng Anh Gia Lai nợ thuế
lên đến hàng trăm tỉ đồng do tình trạng “đóng băng” ở thị trường bất động sản.
• Số lượng doanh nghiệp khai thuế qua mạng còn khá khiêm tốn do các doanh nghiệp chưa mấy mặn mà
Tính đến hết năm 2011 số doanh nghiệp đã đăng kí khai thuế điện tử là 65000 doanh nghiệp nhưng theo đánh
giá của Tổng cục Thuế, con số này vẫn còn quá khiêm tốn nếu so với khoảng 500.000 DN vừa và nhỏ và
280.000 DN siêu nhỏ trên phạm vi cả nước. Bởi vẫn còn trên 20% DN “trung thành” với phương thức kê khai
thuế thủ công truyền thống. Do vậy, tính đến thời điểm này, có thể khẳng định phương thức kê khai thuế bằng
hồ sơ giấy truyền thống vẫn đang chiếm “ưu thế” so với khai thuế qua mạng.
 Nguyên nhân của những vấn đề tồn tại trong việc kê khai thuế qua mạng là do:
- Ngành thuế chưa nhận được sự đồng tâm, hiệp lực từ phía DN. Nhiều DN vẫn còn e dè chưa muốn thay đổi thói
quen kê khai bằng giấy; trình độ và hạ tầng về CNTT (thiết bị máy tính, đường truyền, ) tại một số DN còn
thấp nên việc thực hiện khai thuế qua mạng còn nhiều lúng túng. Nhiều DN còn e ngại thay đổi phương thức kê
khai theo cách thức hiện tại và có ý nghĩ là khi nào bắt buộc thì mới thực hiện.
- Tổng cục Thuế cũng thừa nhận còn một số lỗi từ phía cơ quan Thuế như: Hệ thống khai thuế qua mạng cho nội
bộ cơ quan Thuế và cho DN hoạt động chưa ổn định, hay bị quá tải, nghẽn mạng vào thời điểm đến hạn nộp tờ
khai thuế cuối tháng.
- Nhiều khi dữ liệu khai thuế không chuyển được vào ứng dụng quản lý thuế dẫn tới việc cán bộ thuế vẫn phải in
ra để nhập số liệu bằng tay. Về mặt cơ chế, chính sách, hiện vẫn chưa có văn bản pháp lý quy định rõ trách
nhiệm sử dụng, bảo quản chứng thư số, hoặc lưu trữ hồ sơ khai thuế điện tử khi khai thuế qua mạng. Cơ quan
Thuế chưa chủ động trong triển khai do còn phải phụ thuộc vào các đơn vị cung cấp chứng thư số.
Bộ tài chính đang lên kế hoạch để đến năm 2015 cải cách hệ thống thuế cũng như thủ tục hành chính,
phấn đấu tối thiểu có 60% doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ thuế điện tử; 50% doanh nghiệp đăng ký thuế,
khai thuế qua mạng Internet; tỷ lệ khai thuế đã nộp trên tổng số tờ khai thuế phải nộp tối thiểu là 90%; tỷ lệ tờ
khai thuế đúng hạn đạt tối thiểu là 85%; tỷ lệ tờ khai thuế được kiểm tra tự động qua phần mềm ứng dụng của

cơ quan thuế đạt tối thiểu là 95%. Đồng thời công khai các thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ quản lý tại
trụ sở cơ quan thuế các cấp, trên các phương tiện thông tin đại chúng để người nộp thuế biết và giám sát. Mặt
khác để đảm bảo việc thuận tiện, ngành thuế sẽ triển khai đa dạng các dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế thực hiện
thủ tục hành chính; hình thức tra cứu, trao đổi thông tin có thể được thực hiện qua cổng thông tin điện tử hoặc
mạng điện thoại di động để hình thành kênh giao tiếp chủ động với người nộp thuế. Ngành thuế đặt mục tiêu
giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính thuế nói chung cũng như thuế TNDN nói riêng để phấn đấu đến
năm 2015 là một trong năm nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á được xếp hạng có mức độ thuận lợi về thuế.
• Công tác thanh tra, kiểm tra thuế còn kém hiệu quả
- Công tác xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế chủ yếu vẫn dựa trên kinh nghiệm và đánh giá chủ quan
của cán bộ đảm nhiệm công tác xây dựng kế hoạch chưa đi sâu phân tích và căn cứ vào kết quả phân tích thông
tin doanh nghiệp để lập kế hoạch sát đúng với yêu cầu.
- Thanh tra, kiểm tra thuế vẫn xảy ra tình trạng chưa phát hiện ra nhiều khoản gian lận về thuế ở nhiều khoản thu,
sắc thuế gây thất thu cho NSNN. Tình trạng gian lận thuế qua chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài khá trầm trọng, song thanh tra thuế vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để đấu tranh, ngăn ngừa, phát
hiện và xử lý có hiệu quả.
• Đội ngũ cán bộ công chức thuế còn hạn chế về số lượng và chất lượng
Mặc dù ngành thuế đã chú trọng vào công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức thuế nhưng vẫn
chưa đáp ứng được so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
− Hạn chế về số lượng:
Lực lượng thanh tra, kiểm tra thuế vẫn còn quá mỏng (chiếm 14,38 % trong tổng số cán bộ thuế), đặc biệt là
lực lượng thanh tra chuyên trách mới chiểm khoảng 3% tổng số cán bộ công chức ngành. (Ở các nước trong khu
vực và thế giới thường từ 25% đến 30%). Trong những năm vừa qua, đối tượng quản lý thuế TNDN tăng lên rất
nhanh (Số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng do sự phát triển của nền kinh tế; quy mô kinh doanh ngày càng
lớn, ngành nghề kinh doanh ngày càng đa dạng, phức tạp. Do yêu cầu phát triển thị trường bất động sản và thị
trường chứng khoán một số ngành nghề mới được hình thành như: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển
nhà; các sàn giao dịch bất động sản; các công ty đại chúng; công ty niêm yết cổ phiếu; công ty chứng khoán; công
ty quản lý quỹ ).
− Chất lượng đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của hiện tại:
Nhìn chung trình độ chuyên môn của cán bộ thanh tra, kiểm tra các cấp còn thấp. Ở tất cả các cấp, cán
bộ thuế còn rất yếu về kỹ năng và nghiệp vụ thanh tra và về khả năng sử dụng các thiết bị tin học, trình độ ngoại

ngữ kém nên không chú ý nhiều đến mảng có vốn đầu tư nước ngoài. Số lượng cán bộ trẻ thiếu kinh nghiệm
thanh tra, kiểm tra lớn (do chiến lược cải cách ngành thuế, những năm vừa qua ngành đã tuyển dụng hơn 1.000
cán bộ trẻ).
Thậm chí một số cán bộ thanh tra, kiểm tra còn chưa nắm vững chính sách thuế, chưa thành thạo về kế
toán doanh nghiệp và phân tích tài chính doanh nghiệp để phát hiện các gian lận về thuế.
Ngoài ra, phong cách ứng xử của một số cán bộ thanh tra, kiểm tra chưa văn minh, lịch sự, cách thức
làm việc thiếu tính khoa học và chuyên nghiệp.
Ví dụ: thanh tra DN chuyển giá, cán bộ thuế phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi, ngoại ngữ giỏi, nắm
chắc quy trình kiểm tra, giá bán, hoạt động DN. Hiện nay, ở Việt Nam, kinh nghiệm đó chưa nhiều, cần thời gian
để cán bộ học tập, trau dồi.
• Tình trạng tiêu cực, tham nhũng quan liêu của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế
Những tiêu cực như đưa và nhận hối lộ, cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế thông đồng với doanh nghiệp để gian
lận thuế vẫn còn xảy ra. Những tiêu cực này đã dẫn đến những quyết định trái pháp luật, xâm hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của những chủ thể khác nên thường gây ra tình trạng khiếu kiện, tố cáo và thất thoát cho ngân
sách nhà nước. Mặc dù trong thời gian vừa qua, công tác phòng và chống tham nhũng được đẩy mạnh, nhưng
nhiều vụ việc trốn lậu thuế bị phát hiện thường có liên quan đến công chức quản lý thuế. Từ những phản ánh
trên các phương tiện thông tin đại chúng và các vụ việc đã được cơ quan chức năng phát hiện và xử lý, thì có
thể khẳng định rằng, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động quản lý thuể còn khá phổ biến như
đưa và nhận tiền hối lộ, hoặc đòi được hối lộ bằng nhiều hình thức tinh vi khác.
• Điều kiện hỗ trợ cho công tác quản lý thuế TNDN chưa thỏa đáng
Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu còn hạn chế: mặc dù thời gian qua, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác quản lý thuế được triển khai với quy mô toàn quốc nhưng vẫn còn cần nhiều thời gian để hệ thống thuế
thực sự có được công nghệ quản lý phù hợp có thể tổng hợp và đưa ra những số liệu thống kê một cách chi tiết
và đáng tin cậy về đối tượng nộp thuế, về quản lý hóa đơn chứng từ và các thông tin tại doanh nghiệp…việc
thiếu các số liệu chi tiết tin cậy và không kịp thời làm cho những người ra quyết định chính sách thuế TNDN
gặp phải nhiều khó khăn trong việc đánh giá anh hưởng tiềm năng cả những thay đổi cơ bản đến hệ thống thuế
hiện hành.
Đối với đối tượng nộp thuế do kiến thức hạn chế, lại phân tán rộng trên địa bàn khác nhau nên việc tiếp cận
theo phương thức quản lý thuế mới còn nhiều khó khăn. Mặt khác, việc xử lý vi phạm páp luật về thuế có nơi,
có luc còn gặp khó khăn như người nộp thuế vi phạm nhưng không để số dư tiền gửi ngân hàng không thực hiện

được, tình trạng mua bán sử dụng hóa đơn bất hợp pháp còn tồn tại, thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến, gian
lận thuế TNDN…
Sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan liên quan chưa tốt: các cơ quan chức năng, các tổ chức, cá
nhân có liên quan (như cơ quan địa chính, xây dựng, giao thông, công an, kiểm sát,ngân hang,…) ở từng nơi,
từng lúc thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả với cơ quan thuế trong việc cung cấp thông tin và
áp dụng các biện pháp hỗ trợ để thu đầy đủ, kịp thời tiền thuế vào NSNN. Bên cạnh đó, có sự chênh lệch rõ
ràng giữa các địa phương về năng lực điều hành kinh tế. Cùng một hệ thống cơ chế chính sách thuế TNDN quy
định như nhau song chỉ có một số ít tỉnh, thành phố thực hiện tốt, tạo được môi trường thông thoáng cho hoạt
đọng của các doạnh nghiệp.
III, Giải pháp
1. Chính sách thuế
Kiến nghị giải pháp:
- Hạ thuế suất xuongs 23% từ 2012-2015 và 20% ừ 2016 – 2020 thậm chí nếu có thể giẩm xuống 20% từ
2012
- Đối với việc xác định chi phí hợp lí cần quy định rõ ràng minh bạch các khoản được trừ và không được
trừ để dn có thể tự tính từ nộp
- Chi phí tiền công tiefn lương và các khoản khác cho người lao động, nn chỉ nên khống chế mức tối
thiểu, khong nên khống chế mức tối đa, như vậy sẽ giúp nglđ gắn bó với dn âu dàivà nâng cao hiệu quả
kinh doanh thong qua chế dộ phân phối thu nhập. dối với các khoản chi tiền học cho con của người nước
ngoài tại vn và khoản chi tiền nhà người lao dộng không nên ràng buộc dn trả hay ngwoif lđ tự trả mà
nên căn cứ vào hđ lad và chứng từ thanh toán theo quy định để àm căn cứ xác dịnh
(Thứ nhất, điều chỉnh giảm mức thuế suất TNDN theo lộ trình phù hợp để thu hút đầu tư tạo điều kiện để doanh
nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh;
Thứ hai, đơn giản hóa chính sách ưu đãi thuế theo hướng hẹp về lĩnh vực, tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các
ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công
nghệ sinh học, dịch vụ chất lượng cao, lĩnh vực xã hội hóa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc
biệt khó khăn;
Thứ ba, bổ sung quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu
thuế; bổ sung các quy định để bao quát được các hoạt động kinh tế mới phát sinh trong kinh tế thị trường
hội nhập và phù hợp với thông lệ quốc tế như: hoạt động bán hàng đa cấp, thương mại điện tử, sự phát

triển của các tập đoàn kinh tế, hiện tượng "vốn mỏng" khi xác định chi phí, đặc biệt là chi phí lãi vay,
điều chuyển hoặc đánh giá lại tài sản khi tái cơ cấu doanh nghiệp, thỏa thuận trước về giá của các doanh
nghiệp liên kết).
2 . Giải pháp quản lý thuế.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế:
Đẩy nhanh, đẩy mạnh thanh tra đến các đơn vị lớn ,có rủi ro về thuế. Tập trung đào tạo cán bộ ngành thuế, và
cần phân loại đối tượng nộp thuế trong thanh tra,kiểm tra của mình theo mức độ rủi ro về thất thu thuế và độ tín
nhiệm của các ĐTNT, theo đó những đối tượng chấp hành tốt thì cần hạn chế thanh tra, ngược lại những đối
tượng có biểu hiện vi phạm thì lập kế hoạch thạnh tra kiểm tra, áp dụng chế tài nghiêm khắc để răn đe.
Mặt khác để khắc phục tình trạng thanh tra kiểm tra chồng chéo như hiện nay, nhà nước nên quy định rõ trách
nhiệm thanh tra, kiểm tra, để tránh tình trạng làm phiền hà, khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Quản lý chặt chẽ chế độ sử dụng hóa đơn, chứng từ tại doanh nghiệp.
Việc thực hiện các quy định về hóa đơn không chỉ là nhiệm vụ của doanh nghiệp mà đòi hỏi các nghành, các
cấp phải đặc biệt quan tâm. Trong những năm qua đại đa số các tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh đều chấp
hành chế độ in , quản lý,sử dụng hóa đơn, và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho NSNN. Tuy nhiên, đã
có một bộ phận doanh nghiệp kinh doanh đã có hành vi vi phạm quy định về in, phát hành, sử dụng và in hóa
đơn. Nghiêm trọng là các hành vi mua bán hóa đơn bất hợp pháp, lập hóa đơn khống. đặc biệt có một số tổ chức
cá nhân việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh thủ tục đơn giản lý lịch nhân thân của chủ doanh nghiệp chưa
xác định rõ ràng, có hàng nghìn doanh nghiệp đã thành lập nhưng không kinh doanh mà chỉ mua hóa đơn để
bán kiếm lời rồi bỏ trốn không rõ địa chỉ kinh doanh.
XNK
I.1. Chính sách thuế XNK của Việt Nam hiện nay
Các văn bản pháp luật chính liên quan đến thuế XNK hiện hành bao gồm:
- Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005;
- Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29 tháng 06 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Hải quan số 42/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005;
- Nghị định số 87/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập
khẩu 2005;
- Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006.

Với mốc son lịch sử là Đại hội Đảng VI của Đảng năm 1986. Nền kinh tế Việt Nam bước sang một thời kỳ phát
triển mới. Với phương châm “Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” Việt Nam ngày càng có nhiều
bạn hàng buôn bán làm ăn, nền kinh tế ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết. Một trong những vấn đề đó là những
tồn tại trong chính sách thuế xuất nhập khẩu. Trong thời kỳ sau khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, Chính sách thuế xuất
nhập khẩu mang nặng tính bảo hộ hàng hoá trong nước, điều này là dễ hiểu vì nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ
còn nhỏ yếu, lạc hậu, thiếu sức cạnh tranh. Việc đưa ra các chính sách thiên về bảo hộ hàng hoá trong nước vào
giai đoạn đó là tất yếu.
Chính vì vậy trong giai đoạn này kim ngạch xuất nhập khẩu còn thấp, chủ yếu tập trung xuất khẩu và nhập khẩu
với các nước bạn hàng cũ như Liên Xô sau này là Nga hay các nước Đông Âu
Kim ngạch nhập khẩu trong giai đoạn này là thấp, do các nước bạn hàng phải đương đầu với cả chính sách bảo
hộ hàng hoá trong nước.
Trong những năm sau đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam đã từng bước được đổi mới để phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế-xã hội và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Nhờ
đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện chủ trương tăng
nguồn thu cho ngân sách, dần trở thành công cụ quản lý vĩ mô, khuyến khích đẩy mạnh hoạt động xuất nhập
khẩu phù hợp với chính sách mở cửa, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong tình hình mới.
Năm 1995, Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức ASEAN (hiệp hội các nước Đông Nam Á). Đây là
một cột mốc quan trọng đánh dấu quá trình hội nhập của Việt Nam. Sau đó Việt Nam cũng tham gia và các hiệp
đượng thương mại tự do với các nước ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Khi tham gia vào các hiệp
định trên, Việt Nam đồng thời bắt buộc phải cắt giảm hàng loạt các loại thuế xuất nhập khẩu. Như việc thực
hiện cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (viết tắt là CEPT/AFTA), đến năm 2015, Việt Nam sẽ cơ bản xóa
bỏ thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ ASEAN (một số dòng thuế linh hoạt vào năm 2018). Riêng năm 2010,
Việt Nam áp dụng mức thuế suất 0-5% cho khoảng 99% số dòng thuế, trong đó 57% số dòng thuế có mức thuế
suất CEPT là 0%. (Biểu thuế CEPT/AFTA được ban hành kèm theo Quyết định số 36/QĐ-BTC ngày 12/6/2008
của Bộ Tài chính). Việt Nam bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế từ năm 1996, đến năm 2006 giảm xuống mức 0-
5%. Năm 2008, Việt Nam cũng đã đưa mặt hàng ôtô, xe máy vào thực hiện giảm thuế (thuế suất hiện hành ở
mức 83%/90%). Tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước trong khối ASEAN, nếu đáp ứng đủ các
điều kiện quy định tại Điều 2 Quyết định số 36/QĐ-BTC ngày 12/6/2008 của Bộ Tài chính ban hành Biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho Khu vực mậu dịch

tự do ASEAN (CEPT/AFTA) đều được hưởng mức thuế suất CEPT/AFTA.
Sau nhiều vòng đàm phán căng thẳng, cuối cùng ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của WTO. WTO là một sân chơi lớn, đề cao sự tự do thương mại giữa các quốc gia vì vậy trở
thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam phải thay đổi rất nhiều các quy
định về luật thuế, trong đó thuế xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng mạnh nhất.
Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10600 dòng
thuế.Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế
suất MFN) của biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%) thời gian thực hiện sau 5-7 năm.
Trong toàn bộ biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của
Biểu thuế ); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3700 dòng thuế (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế );
ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế hiện hành 3170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế
), chủ yếu là đối với nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất và một số phương tiện vận tải.
Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những
nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác,
máy móc thiết bị điện - điện tử.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và 21,0% sẽ là mức cắt
giảm cuối cùng. Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16.1%, và
mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12.6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là
16.6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23.9%.
I.2. Nhận xét về chính sách thuế của Việt Nam hiện nay
 Ưu điểm:
Thứ nhất, biểu thuế XNK hiện hành được xây dựng trên cơ sở danh mục điều hòa của hội đồng hợp tác hải
quan thế giới (HS 1996) đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại hàng hóa dựa trên cấu tạo, đặc
điểm của hàng hóa… góp phần làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế.
Biểu thuế xuất nhập khẩu thường xuyên được thay đổi phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội.
Năm 2010, Việt Nam phải tiếp tục thực hiện các mức cắt giảm thuế theo cam kết WTO. Bộ Tài chính ban hành
biểu thuế mới theo Thông tư 216/2009/TT-BTC ngày 12/11/2009 của Bộ Tài chính là thực hiện cắt giảm thuế
theo lộ trình đã cam kết, trong đó mặt hàng ôtô thuộc lộ trình cắt giảm hàng năm này. Biểu thuế mới còn cập
nhật các thông tư đã điều chỉnh trong năm 2008, 2009 do lạm phát kinh tế. Để thực hiện cam kết với Tổ chức
Hải Quan Thế giới năm 2012 (gọi tắt là HS 2012), cam kết với các nước ASEAN về việc thực hiện Danh mục

biểu thuế quan hài hòa ASEAN năm 2012 (gọi tắt AHTN 2012), thực hiện cam kết cắt giảm thuế xuất nhập
khẩu ưu đãi theo lộ trình cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ ngày 1-1-2012, Bộ Tài chính đã
ban hàng thông tư 157/2011/TT-BTC quy định mức thuế của biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
theo danh mục mặt hàng chịu thuế. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012 theo đúng cam kết quốc tế.
Biểu thuế năm 2012 có nhiều thay đổi so với biểu thuế 2011 cả về danh mục hàng hóa (tên hàng hóa, mã số
hàng hóa) và mức thuế suất.
Thứ hai, Thuế suất thuế XNK được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất
0% trừ một số mặt hàng như dầu thô, một số loại quặng và song mây. Thuế nhập khẩu được quy định có 3 mức
là thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng trong những trường hợp khác
nhau tùy thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về
thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện.
Thứ ba, mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm. Hiện nay mức tối đa hạ xuống còn 60%. Số lượng mức
thuế được giảm từ 25 xuống còn 18 mức, mức độ phân tán giữa các mức thuế giảm dần. Ngoài việc giảm số
lượng các mặt hàng chịu sự quản lý giá tối thiếu của Nhà nước xuống còn 15 mặt hàng, Nhà nước còn quy định
bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn. Quy trình thu thuế xuất
nhập khẩu mới được ban hành có hiệu lực từ 1/1/1999. Theo quy trình này, các thủ tục hải quan được thực hiện
nhanh chóng, công khai đảm bảo thông thoáng nhanh chóng và thuận tiện tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất
nhập khẩu.
Thứ năm, hệ thống chính sách, cơ chế quản lý trong lĩnh vực XNK được cải tiến theo hướng ngày càng đơn
giản, thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất xuất khẩu tăng nhanh và hướng nhập khẩu
phục vụ cho sản xuất và đời sống. Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, thị trường ngày càng mở rộng.
Có thể nói rằng chính sách thuế XNK đã có tác động tích cực trong việc quản lý hoạt động XNK mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả hoạt động XNK góp phần phát triển, bảo vệ sản xuất trong nước hướng
dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
 Nhược điểm
Thứ nhất, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện hướng mạnh vào xuất khẩu.
Thứ hai, chưa phù hợp với chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thanh phần.
Thứ ba, chưa phù hợp với thông lệ và các nguyên tắc của cá tổ chức quốc tế mà nước ta đã và sẽ gia nhập.
Thứ tư, trong quá trình thực hiện thuế xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập.

Cụ thể là:
a. Biểu thuế bất hợp lý
Việc ban hành biểu thuế XNK hiện hành là chưa phù hợp: thuế suất dàn trải quá rộng, thuế XNK do gánh chịu
nhiều mục tiêu bao gồm cả kinh tế, văn hóa và xã hội, chính sách thuế XNK nằm trong hệ thống thuế với tính
chất là công cụ điều tiết trong tay nhà nước. Do vậy, cơ cấu thuế trở nên phức tạp, trùng lặp và nhiều mức thuế
quy định quá chi tiết. Một vài mức thuế rất sát nhau, đặc biệt là thuế nhập khẩu: 0,5%; 1%; 2%; 3%; 4% Có
thể hiểu có nhiều mức thuế chi tiết như thế là do phải thực hiện nhiều nhiệm vụ mục tiêu kinh tế- xã hội, nhiều
trường hợp bảo hộ đến từng doanh nghiệp sản xuất trong từng nhóm doanh nghiệp trong nước. Điều này làm
cho biểu thuế mất tính tập trung, quá nhiều mức thuế làm cho cơ cấu thuế phức tạp một cách không cần thiết.
Thuế dàn trải là có hại- thậm chí tai hại hơn mức thuế suất cao nhưng không thống nhất vì chúng làm nguồn
vốn đưa vào hoạt động không có hiệu quả.
Việc ban hàng biểu thuế NK hiện nay có quá nhiều mức thuế suất dưới 5% làm cho kết qua thu vào ngân sách bị
hạn chế, đông thời gánh nặng về yêu cầu động viên ngân sách nhà nước cho các mặt hàng. Biểu thuế nhập khẩu
mặc dù quy định theo khung thuế suất tạo điều kiện cho việc quy định mức thuế suất được linh hoạt nhưng lại
dẫn đến thiếu ổn định, làm cho doanh nghiệp thiếu yên tâm trong việc đầu tư phát triển sản xuất và nhập khẩu.
Việc thực hiện cam kết WTO trên lĩnh vực thuế nhập khẩu được Việt Nam chấp hành một cách nghiêm túc. Tuy
nhiên, điều nổi cộm rất đáng chú ý là: i) mức thuế cắt giảm thấp hơn khá nhiều so với cam kết, có khá nhiều mặt
hàng cắt giảm thấp hơn cả cam kết; ii) mặc dù chưa đến thời điểm thực hiện, nhưng chúng ta đã cắt
giảm thuế suất của khá nhiều mặt hàng (thực hiện trước lộ trình cam kết). Trong khi đó, Việt Nam đã mất
khá nhiều thời gian để đàm phán được mức thuế cao khi gia nhập.
b. Thuế nhập khẩu bao gồm nhiều thứ thuế cả thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị
gia tăng nên thuế suất rất cao (như rượu, bia từ 100-150%, ôtô từ 50%-200% ). Tuy có thuận tiện là tập trung
nhưng không phù hợp với thông lệ quốc tế, dễ bị hiểu lầm là hạn chế hàng nước ngoại nhập khẩu vào Việt Nam.
c. Thuế suất cao và quá cao đánh vào một số mặt hàng tiêu dùng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất
chưa đủ đáp ứng khuyến khích tình trạng buôn lậu và trốn thuế của các doanh nghiệp. Nhiều phương thức trốn
thuế được sử dụng kể cả hối lộ cán bộ hải quan và kết hợp với nhiều hiện tượng tiêu cực khác. Biểu thuế suất
càng nhiều tầng, nhiều sự phân biệt theo mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế hay hạn chế tiêu thụ đều là chỗ dựa
cho hiện tượng tiêu cực. Việc giảm xuất nhập khẩu tiểu ngạch đã phần nào hạn chế hiện tượng tiêu cực theo các
cửa khẩu biên giới rất khó kiểm soát.
d. Việc ban hành biểu thuế với nhiều thứ thuế suất cao, thấp còn căn cứ vào mục đích sử dụng chứ không

theo tính chất hàng hóa. Vì vậy nhiều mặt hàng có cùng tính chất nhưng mục đích sử dụng khác nhau có thuế
suất nhập khẩu chênh lệch khá lớn như: Xe đạp đua (thuế suất 5%), xe đạp thường (70%), ôtô 4 chỗ (200%) xe
cứu thương (0%)…cho nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng điều này để thực hiện hành vi gian lận thương mại,
trốn thuế. Thủ thuật quan trọng nhất để trốn thuế là hạ thấp giá trị hàng nhập khẩu để hạ thấp giá trị tính thuế
hay hạ quy cách kê khai để hưởng mức thuế suất thấp hơn đã trở nên phổ biến với hàng hóa có đơn giá lớn và
thuế suất cao như: xe hơi, rượu mạnh….Điển hình là doanh nghiệp ngụy trang dưới hình thức xe đông lạnh
chuyên dụng để trốn thuế từ 60% xuống còn 10% hay xe ôtô du lịch thì được lắp thêm đèn, còi thành xe cứu
thương để hoàn thuế.
e. Quy định trong việc nộp thuế nhập khẩu nguyên liệu phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu và hoàn trả thuế
xuất khẩu cũng còn hạn chế, bất hợp lý. Với biểu thuế từ 30- 40% cho những lo hàng nguyên liệu, phụ liệu để
sản xuất hàng xuất khẩu, trong thời gian nộp thuế 30 ngày thì cơ sở sản xuất sẽ không đủ vốn để tạm ứng nộp
thuế, vì khi nguyên liệu về, cơ sở phải lo triển khai sản xuất trong thời gian vài tháng thậm chí có lô kéo dài tới
nửa năm.
f. Việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới còn bất hợp lý. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Thông thường thì các mặt hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc là những mặt hàng khuyến khích xuất khẩu
như than, chuối xanh, tiêu, điều…với số lượng ít, kém chất lượng, những mặt hàng khó xuất sang theo con
đường chính ngạch. Nhưng xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch phải chịu mức thuế suất là 5% cao hơn xuất
khẩu chính ngạch…Chính thuế nhập khẩu đánh vào hàng nguyên liệu đầu vào đã làm tăng giá cả hàng sản xuất
và xuất khẩu trong nước, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng hóa của ta trên trường quốc tế. Như vậy thuế xuất
khẩu là một lực cản kìm hãm xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
g. Quy định về thuế suất ưu đãi của Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành chưa cụ thể, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế về ưu đãi tối huệ quốc (MFN). Hiện nay, Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại với nhiều
nước, trong đó có điều khoản dành cho nhau ưu đãi tối huệ quốc về thuế nhập khẩu (MFN) nhưng không ghi rõ
từng mặt hàng với số lượng cụ thể. Do đó, trên thực tế, biếu thuế hiện hành của Việt Nam chỉ có duy nhất một
loại thuế nhập khẩu áp dụng phổ biến cho tất cả các loại hàng hóa không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hoặc tình
huống áp dụng. Hơn nữa Việt Nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn kinh tế
Châu Á Thái Bình Dương (APEC), là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên trong quan hệ
thương mại với các nước thành viên của các tổ chức này và một số nước Việt Nam có chung biên giới. Việt
Nam đã và đang có những thỏa thuận ưu đãi riêng.
I.3. Bất cập còn tồn tại trong việc thực hiện chính sách thuế XNK ở Việt Nam

a. Tiêu cực từ phía người nộp thuế
 Khai sai giá là chiêu thức được nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng dể gian lận thuế và nếu “thoát”, số
thuế trốn được rất lớn.
• Gian lận giá nhập khẩu:
Tháng 3/2009, một doanh nghiệp ở TPHCM làm thủ tục nhập khẩu lô hàng qua Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn
khu vực 1 (SGKV1). Lô hàng gồm 520 chiếc ghế ngồi dùng để sửa xe ô tô, khung nhôm có đệm và 70 chiếc
ghế nằm dùng để sửa xe ô tô khung nhôm có đệm, mới 100%, xuất xứ từ Trung Quốc. Đây là mặt hàng mới.
Theo giá khai báo nhập khẩu, giá mỗi chiếc ghế nêu trên chỉ có 2 USD, theo đó số thuế phải nộp chỉ khoảng 9,2
tỷ đồng. Nghi ngờ về giá khai báo quá rẻ của doanh nghiệp, hải quan tiến hành tham vấn xác định trị giá tính
thuế. Kết quả giá tính thuế ghế ngồi dùng để sửa xe ô tô được xác định là 138 USD/chiếc (tăng 69 lần so với giá
khai báo) và ghế nằm dùng để sửa xe ô tô giá 124 USD/chiếc (tăng 62 lần so với giá khai báo của doanh
nghiệp).
Như vậy, với mức thuế suất thuế nhập khẩu 33% và thuế giá trị gia tăng 10%, với lô hàng gần 600 chiếc ghế
chuyên dùng nêu trên, số thuế doanh nghiệp phải thực nộp tăng thêm hơn 623 tỷ đồng so với mức 9,2 tỷ đồng
theo khai báo ban đầu.
Hành vi gian lận qua giá đang xuất hiện ngày một nhiều, ngày một phức tạp, đặc biệt đối với những mặt hàng
có thuế suất cao, giá trị lớn như điện thoại, ô tô, linh kiện điện tử, vi tính, rượu…
• Gian lận giá xuất khẩu:
Tháng 3/2009, Đội Kiểm soát Hải quan (Cục Hải quan TPHCM) phối hợp với Chi cục Hải quan Cảng Sài Gòn
khu vực 1 kiểm tra 2 lô hàng phế liệu xuất khẩu của Công ty QPH (quận 8 -TPHCM) và Chi nhánh Công ty Y
(quận 4 TPHCM), phát hiện 2 doanh nghiệp này khai giá hàng xuất khẩu bất hợp lý, chỉ bằng 1/120 lần so với
giá thị trường. Theo tờ khai số 12006/XK/KD/KV1 ngày 2 - 3 - 2009 của Công ty QPH, giá đồng phế liệu xuất
khẩu chỉ 22 USD/tấn (tính ra 1 kg đồng phế liệu chỉ có giá 374 đồng).
Tương tự, doanh nghiệp khai giá xuất khẩu nhôm 20 USD/tấn (khoảng 234 đồng/kg). Như vậy, trị giá lô hàng
gồm 20,3 tấn đồng phế liệu và 33 tấn nhôm phế liệu chỉ vỏn vẹn 660 USD. Cũng chiêu thức tương tự, lô hàng
phế liệu xuất khẩu của Chi nhánh Công ty Y được khai mức 25 USD/tấn đồng và 10 USD/tấn nhôm (170
đồng/kg).
Trị giá 26 tấn hàng chỉ 400 USD. Trên thực tế giá hai mặt hàng này trên thị trường (qua khảo sát tại các đại lý
thu mua phế liệu) là đồng dao động từ 50.000 - 60.000 đồng/kg; giá nhôm phế liệu từ 17.000 - 20.000 đồng/kg.
Còn giá phế liệu nhôm và đồng nhập khẩu thì cao gấp hàng trăm lần khoảng 4,4 USD/kg đồng; 1,59 USD/kg

nhôm (giá thời điểm của năm 2008).
Với mức thuế suất thuế xuất khẩu là 37% (thời điểm lô hàng xuất khẩu), nếu tính theo giá khai báo của các
doanh nghiệp, nhà nước thất thu một khoản lớn tiền thuế. Điều đáng nói là hành vi gian lận giá xuất khẩu mặt
hàng này chỉ mới được phát hiện.
Lợi dụng một thực tế là giá hàng nhập khẩu đang có xu thế giảm do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, nhiều
doanh nghiệp đã kê khai giá hàng hóa nhập khẩu rất thấp. Cái khó trong công tác tham vấn giá của hải quan
hiện nay là nguồn thông tin về giá cả.
Để tham vấn, bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp, nhất là đối với các mặt hàng mới phải có nhiều nguồn
thông tin từ các chi cục, từ dữ liệu giá… nhưng bản thân các đơn vị hải quan địa phương lại không thường
xuyên bổ sung, cập nhật giá vào kho dữ liệu chung. Khi tham vấn giá, nhiều đơn vị hải quan địa phương lại
không chịu khó rà soát tham khảo mức giá đơn vị khác đã tính được tổng hợp trên kho dữ liệu giá.
Hệ quả là một mặt hàng nhưng mỗi địa phương, thậm chí mỗi chi cục (cùng một đơn vị) chấp nhận những mức
giá khác nhau. Không chỉ bất cập về thông tin, trình độ của nhân viên hải quan trong lĩnh vực này còn nhiều hạn
chế. Đó là chưa kể - tuy không được đề cập đến trong báo cáo của ngành hải quan - đó là việc không chấp hành
nghiêm các quy định về tham vấn giá cũng như chỉ đạo của Tổng cục về quy trình tham vấn giá một mặt hàng,
lô hàng cụ thể.
 Trên đường biển, các tàu biển nước ngoài vận chuyển hàng nội địa nhưng đưa lẫn nhiều hàng ngoại nhập lậu
hoặc hàng khác chủng loại cho phép vào Việt Nam. Đối với đường hàng không, đường bưu điện, các đối tượng
nhập lậu các mặt hàng có thuế suất cao dưới dạng quà biếu hoặc hàng “xách tay” để trốn thuế xuất nhập khẩu.
Các đối tượng thay đổi bao bì, nhãn mác hàng hóa, thay đổi cấu kiện máy móc để hưởng thuế suất thấp hoặc
gian lận khi ghi số khung, số máy, năm sản xuất xe ôtô để đưa ôtô cấm nhập khẩu vào Việt Nam. Ngoài ra, là
hành vi lập bộ hồ sơ khai báo Hải quan giả hoặc cố ý thiếu, sai lệch một số yếu tố, ghi chung chung, không rõ
ràng.
Ví dụ: Hợp đồng ngoại thương trình bản sao không có bản gốc, tên hàng, mã hàng, khai không khớp với thực tế,
bộ chứng từ thiếu một số yếu tố để xác định giá tính thuế nhằm có lợi cho doanh nghiệp hoặc thông đồng với
đối tác nước ngoài khai thấp giá trị hàng nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu. Các đối tượng cũng thông đồng với
cán bộ giám định hàng hóa XNK để kê khai hàng hóa nhập khẩu không đúng với thực tế như xe mới thành xe
cũ, xe không hỏng thành xe hỏng, phụ tùng mới thành đã qua sử dụng
 Lợi dụng các chính sách pháp luật và ưu đãi về thuế của Nhà nước ta, nhiều đối tượng và doanh nghiệp đã tìm
cách trốn thuế. Như lợi dụng ưu đãi về thời hạn nộp thuế, các cá nhân và tổ chức đã cố tình nợ đọng kéo dài,

chây ì, chiếm dụng thuế rồi bỏ trốn hoặc chỉ thực hiện một vài hợp đồng nhập khẩu rồi giải thể doanh nghiệp
hoặc chuyển sang lĩnh vực khác; Trốn thuế qua việc khai sai xuất xứ hàng hóa, xuất trình giấy xuất xứ giả,
không đúng xuất xứ hàng hóa để được áp mã số thuế thấp hơn để trốn thuế XNK; Trốn thuế qua chính sách
hàng đổi hàng hoặc việc kinh doanh hàng tạm nhập tái xuất, kinh doanh hàng miễn thuế, kho ngoại quan
 Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi dụng việc góp vốn liên doanh bằng vật tư, thiết bị máy móc để
tạo tài sản cố định đã đưa thêm vật tư thiết bị, máy móc vào Việt Nam rồi bán ra thị trường nội địa để trốn thuế
nhập khẩu. Các doanh nghiệp cũng thường kê khai nguyên phụ liệu nhập khẩu để gia công hàng cho nước ngoài
và sản xuất hàng xuất khẩu cao hơn thực tế tiêu hao đều tạo ra dư thừa nguyên liệu bán ở thị trường trong nước
nhằm trốn thuế.
b. Những hạn chế về chính sách và đội ngũ cán bộ thuế
 Không thống nhất trong văn bản dẫn đến thất thu thuế.
Trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, Hải quan một số địa phương phát hiện giữa Tổng cục Hải quan và Bộ Tài
chính có sự vênh nhau trong quy định áp thuế nhập khẩu đối với mặt hàng hạt lúa mì. Văn bản số 836/TCHQ-
GSQL ngày 7/3/2005 hướng dẫn phân loại, áp mã số hàng hóa nhập khẩu đối với lùa mì, nhóm 1104, thuế suất
nhập khẩu là 20%. Nhưng ngày 11/5/2006, ông Nguyễn Ngọc Túc, Phó Tổng cục trưởng (nay là Tổng cục
trưởng) Tổng cục Hải quan lại ban hành văn bản hướng dẫn áp thuế suất nhập khẩu mặt hàng này là 5%
Sau khi trao đổi với Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính, Tổng cục hướng dẫn: Mặt hàng lúa mì dạng hạt, đã tách
phần vỏ ngoài còn vỏ lụa bên trong, chưa xát vỏ hoặc sơ chế thuộc chương 10, nhóm 1001". Như vậy, thuế nhập
khẩu với mặt hàng lúa mì theo văn bản hướng dẫn này là 5%.
Tại sao cùng hướng dẫn phân loại mặt hàng hạt lúa mì, hai lãnh đạo Tổng cục Hải quan lại có hai câu trả lời
khác nhau? Đáng chú ý là cả hai văn bản trả lời đều dẫn những căn cứ đã quy định trong cùng một quyết định,
thông tư, biểu thuế của Bộ Tài chính. Phải chăng là do cách hiểu, cách áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của
những người ra văn bản này là khác nhau? Vậy thì ai đúng, ai sai? Và sự khác nhau này dẫn đến chênh lệch
15% thuế suất nhập khẩu đối với mặt hàng hạt lúa mì. Từ việc này sẽ kéo theo số tiền thuế chênh lệch cũng rất
lớn. Nếu việc áp thuế nhập khẩu mặt hàng này sai đương nhiên dẫn đến việc Nhà nước thất thu số tiền thuế rất
lớn.
 Cán bộ hải quan làm việc thiếu liêm khiết, tạo cơ hội cho doanh nghiệp trốn thuế.
Ngày 6/7/2007, lô hàng của Công ty Hàn Việt, địa chỉ tại Khu công nghiệp Thuỵ Vân, Việt Trì, Phú Thọ đã bị
Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng - khu vực II kiểm tra thực tế.
Kết quả cho thấy, Hàn Việt đã nhập lậu 5 tấn giấy cacton krap dạng cuộn, khổ 1,2 m; gần 1 tấn giấy bao gói

dạng cuộn khổ 40 cm và 12 loại vật tư, linh kiện của máy se chỉ sợi. Các mặt hàng nói trên đều có thuế suất cao.
Trước đó, theo khai báo tại tờ khai hải quan số 313 ngày 3/7/2007 do Chi cục Hải quan Phú Thọ làm thủ tục
nhập khẩu lô hàng, Hàn Việt chỉ nhập 5 tấn hạt màu và 13 tấn hạt nhựa LDPE có xuất xứ từ Hàn Quốc. Tổng
giá trị lô hàng này là 18.250 USD. Chi cục Hải quan Phú Thọ quyết định miễn kiểm tra thực tế cho thông quan
hàng hoá theo tờ khai nhập khẩu hàng hoá của Hàn Việt. Được biết, khi Hàn Việt đăng ký mở tờ khai hải quan
tại Chi cục Hải quan Phú Thọ, theo quy trình quản lý rủi ro của hải quan thì máy tính đã phân luồng lô hàng này
ở mức độ 3 (mức đỏ). Điều này có nghĩa là lô hàng trên phải được kiểm hoá.
Nhưng không hiểu vì lý do gì mà cán bộ chi cục này đã tự ý chuyển từ mức 3 (đỏ) xuống mức 2 (vàng) để lô
hàng nói trên được miễn kiểm hoá. Tại sao Chi cục hải quan Phú Thọ đã bẻ “ngược luồng”, để từ đó doanh
nghiệp có điều kiện trốn thuế
Được biết, khi Hàn Việt đăng ký mở tờ khai hải quan tại Chi cục Hải quan Phú Thọ, theo quy trình quản lý rủi
ro của hải quan thì máy tính đã phân luồng lô hàng này ở mức độ 3 (mức đỏ). Điều này có nghĩa là lô hàng trên
phải được kiểm hoá.
Nhưng không hiểu vì lý do gì mà cán bộ chi cục này đã tự ý chuyển từ mức 3 (đỏ) xuống mức 2 (vàng) để lô
hàng nói trên được miễn kiểm hoá. Tại sao Chi cục hải quan Phú Thọ đã bẻ “ngược luồng”, để từ đó doanh
nghiệp có điều kiện trốn thuế?
 Chính sách còn có kẽ hở.
• Ân hạn thuế nhập khẩu
Theo điều 15 Luật thuế xuất nhập khẩu: Thời hạn nộp thuế Đối với hàng hóa xuất khẩu là ba mươi ngày, kể từ
ngày đối tượng nộp thuế đăng ký tờ khai hải quan; với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất
hàng hóa xuất khẩu thì thời hạn nộp thuế lên đến hai trăm bảy mươi lăm ngày. Rõ ràng với quy định này các
nhà làm luật muốn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu , tuy nhiên nhiều doanh nghiệp đã lợi
dụng để trốn thuế, chiếm dụng vốn nhà nước.
Một số đối tượng doanh nghiệp còn có hẳn “quy trình”, thủ đoạn để qua mặt cơ quan quản lý. Đó là thành lập
doanh nghiệp “ma” để nhập khẩu hàng hóa; đến hạn nộp thuế, doanh nghiệp cố tình trây ì không thanh toán,
thậm chí bỏ trốn khỏi địa bàn kinh doanh để né khoản thuế lẽ ra phải nộp vào ngân sách. Hoặc các doanh
nghiệp có chiêu là thường xuyên thay đổi địa chỉ doanh nghiệp nhưng không báo cho cơ quan hữu quan.
• Xin giấy phép nhập khẩu tự động
Theo quy định tại Thông tư 194/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính thì hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không
nhằm mục đích thương mại là “quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài gửi cho tổ chức, cá nhân Việt

Nam; của tổ chức, cá nhân ở Việt Nam gửi cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài” và “hàng hóa phi mậu dịch
khác” không bị giới hạn về số lượng, trị giá của hàng hóa. Mặt khác theo quy định tại Thông tư 24/2010/TT-
BCT quy định về việc áp dụng chế độ cấp giấy phép nhập khẩu tự động đối với một số mặt hàng thì hàng nhập
khẩu phi mậu dịch không thuộc đối tượng điều chỉnh của Thông tư này.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đã biết về kẽ hở khi thực hiện 02 văn bản pháp luật trên nên đã
chuyển loại hình nhập khẩu hàng hóa theo các loại hình khác sang loại hình phi mậu dịch với số lượng và trị giá
cao mà không cần giấy phép nhập khẩu tự động. Tuy nhiên, cơ quan Hải quan không có cơ sở để xác định
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sai phạm vì pháp luật chưa quy định
• Trốn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu theo hình thức phi mậu dịch
Hàng phi mậu dịch không phải là hàng để kinh doanh, chỉ là để tặng, biếu nên có khá nhiều ưu đãi. Và đây
chính là kẽ hở lách thuế cho nhiều doanh nghiệp lợi dụng. Đây là mánh khoé mới của doanh nghiệp nhập khẩu
lượng hàng có giá trị cao mà không cần giấy phép nhập khẩu tự động.
Theo quy định tại Thông tư 194/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính thì hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không
nhằm mục đích thương mại là “quà biếu,tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài gửi cho tổ chức, cá nhân
ViệtNam; của tổ chức, cá nhân ở Việt Nam gửi cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài” và “hàng hóa phi mậu dịch
khác” không bị giới hạn về số lượng, trị giá của hàng hóa. Mặt khác theo quy định tại Thông tư 24/2010/TT-
BCT quy định về việc áp dụng chế độ cấp giấy phép nhập khẩu tự động đối với một số mặt hàng thì hàng nhập
khẩu phi mậu dịch không thuộc đối tượng điều chỉnh của Thông tư này.
• Chính sách tạm nhập tái xuất còn nhiều bất cập
Quy định cho phép hàng tạm nhập tái xuất được lưu lại tới 180 ngày kèm theo những kẽ hở về pháp lý đã khiến
nhiều sai phạm có cơ hội nảy sinh: với hàng kinh doanh thông thường, doanh nghiệp có thể mang về bảo quản
sẽ dễ dẫn đến rủi ro cho cơ quan hải quan trong việc giám sát, quản lý tính nguyên trạng của lô hàng, cho phép
doanh nghiệp kinh doanh tạm nhập tái xuất đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập
khẩu và không cho phép hàng tạm nhập tái xuất được tiêu thụ nội địa.
Hàng loạt vụ vi phạm liên quan đến hàng tạm nhập tái xuất mà cơ quan hải quan phát hiện trong thời gian gần
đây cho thấy loại hình kinh doanh này đang bị lợi dụng để thẩm lậu hàng cấm nhập khẩu, hàng không bảo đảm
chất lượng vào thị trường Việt Nam.
II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT NHẬP
KHẨU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong điều kiện hiện nay, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nên thực hiện theo những mục tiêu,

phương hướng sau:
- Chính sách thuế xuất nhập khẩu phải là công cụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, hướng về
xuất khẩu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trở thành công cụ định hướng và hỗ trợ
phát triển các ngành kinh tế của Việt Nam được xác định là có lợi thế cạnh tranh trong thương mại khu vực và
thế giới. Điều này đòi hỏi bảo hộ có chọn lọc, hợp lý chứ không tràn lan, chung chung như trước đây. Chức
năng hướng dẫn tiêu dùng, tăng thu cho ngân sách của thuế này được chuyển cho thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế
VAT để phù hợp với thuế giá trị gia tăng mới ban hành và thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ được bổ xung trong thời gian
tới.
- Chính sách thuế xuất nhập khẩu cần bảo hộ có điều kiện sản xuất trong nước, nhưng không cản trở hoạt động
mở rộng buôn bán, đầu tư giữa nước ta với các nước ASEAN, và sự tham gia của ta vào WTO. Chính sách thuế
xuất nhập khẩu phải tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
- Chính sách thuế xuất nhập khẩu phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong điều kiện
mới, đồng thời bảo đảm quản lý tốt hoạt động xuất nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu ngân sách từ hoạt động
xuất nhập khẩu phù hợp với cải cách toàn diện hệ thống thuế nước ta hiện nay. Để phù hợp với nội dung này
cần bổ xung những quy định về giá tính thuế, kê khai, nộp thuế, thời hạn nộp thuế một cách rõ ràng, chặt chẽ
tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng xác định được nghĩa vụ thuế của mình và thực hiện nộp thuế đầy đủ
nghiêm túc theo đúng luật định. Đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện việc tổ chức, quản lý thực hiện chính sách
thuế, giảm thiểu những phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động
xuất nhập khẩu, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia.
- Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới đòi hỏi chính sách
thuế phải phù hợp với yêu cầu của hội nhập kinh tế, thông lệ quốc tế chống lại thủ đoạn cạnh tranh không lành
mạnh của nước ngoài. Tham gia vào các khối liên kết kinh tế, chúng ta đã ký các cam kết về ưu đãi thuế nhập
khẩu, ưu đãi tối huệ quốc trong hiệp định thương mại giữa Việt Nam với các nước, ưu đãi đặc biệt với các nước
ASEAN, APEC, EU trong thời gian qua và cam kết trong thời gian tới với các nước thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO và mới đây là hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Các cam kết này là cơ sở pháp lý, cũng
như thể hiện rõ ràng chính sách thuế xuất nhập khẩu được phân biệt theo mức độ quan hệ thương mại giữa Việt
Nam với các nước, tạo thuận lợi cho đàm phán về thuế với các nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy chính
sách thuế xuất nhập khẩu cũng cần phải quy định các mức thuế suất khác nhau.
- Đồng thời, để tăng cường các công cụ pháp lý bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế trong
điều kiện tự do hoá thương mại hiện nay, thuế xuất nhập khẩu cần được bổ xung những quy định về các mức

thuế suất tạm thời áp dụng trong các trường hợp nước nào đó sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành
mạnh, hoặc có những phân biệt đối xử trong buôn bán với Việt Nam.
Từ những mục tiêu, phương hướng cơ bản nêu trên, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu cần phải tập
trung vào cả nội dung, tổ chức thực hiện và áp dụng đồng bộ các loại thuế khác nhau:
 Đối với thuế xuất khẩu
Trong việc hoàn thiện, sửa đổi biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành thì chính phủ nên bỏ việc thu thuế xuất khẩu.
Bỏ thuế xuất khẩu sẽ hỗ trợ cho hàng hoá Việt Nam khả năng cạnh tranh tại thị trường nước ngoài. Mặc dù bỏ
thuế sẽ giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước , nhưng bù lại chính phủ sẽ thu được các khoản thuế khác do
phát triển sản xuất và mở rộng xuất khẩu. Hoặc ít ra cũng nên thu hẹp diện các mặt hàng chịu thuế. Nếu có đánh
thuế xuất khẩu thì chỉ nên đánh thuế đối với các sản phẩm thật cần thiết, thuế có khả năng hạn chế hoặc có khả
năng thu được như: những mặt hàng là nguyên liệu sản xuất trong nước, những tài nguyên khoáng sản không
khuyến khích xuất khẩu, những sản phẩm có thị trường ổn định. Trước mắt xin bỏ thuế xuất khẩu đối với nhóm
mặt hàng thuỷ hải sản để hỗ trợ thêm trong xuất khẩu và phát triển nghành nghề khai thác, đánh bắt, nuôi trồng
thuỷ hải sản, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Trong tương lai, cùng với việc đẩy mạnh quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt Nam thì số mặt
hàng bị đánh thuế xuất khẩu còn tiếp tục giảm.
 Đối với thuế nhập khẩu
Việc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu cần hướng vào những vấn đề sau:
Một là, xây dựng các mức bảo hộ khác nhau cho các nghành sản xuất trong nước, nhằm bảo vệ, hỗ trợ tối đa
cho các nghành có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu, khắc phục tình trạng bảo hộ tràn lan làm cho nền kinh tế
hoạt động kém hiệu quả.
Hai là, giảm mức thuế nhập khẩu hiện nay xuống còn bốn hoặc năm mức. Sự chênh lệch giữa các mức là do
yêu cầu bảo hộ đối với từng nghành sản xuất. Nếu bảo hộ ở mức 1 là dưới 10% thì mức 2 là 20%, mức 3,4,5
tương ứng là 30%, 40%, 50%. Thuế suất cao tối đa chỉ nên chiếm khoảng trên dưới 10% tổng danh mục hàng
nhập khẩu chịu thuế. Và để phù hợp với yêu cầu hội nhập ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng
mức thuế. Về lâu dài mức thuế phù hợp với yêu cầu của AFTA là từ 0-5%, nhưng trước mắt ta phải giảm dần.
Đối với các mặt hàng mà chúng ta không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những năm
sắp tới, những mặt hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu cho sản xuất của các ngành có thể nhấn
mạnh cạnh tranh và xuất khẩu hoặc là thiết bị đặc biệt chuyên dùng cho các ngành quốc phòng, an ninh, ytế,
giao thông, nông nghiệp, cần xây dựng các mức thuế nhập khẩu từ 0%-5%. Cùng với việc thu hẹp đến mức tối

cần thiết diện mặt hàng có mức thuế suất 0%, cần giảm bớt diện mặt hàng miễn thuế nhập khẩu, theo hướng chỉ
miễn thuế suất thuế nhập khẩu cho một số trường hợp theo thông lệ quốc tế.
Với việc giảm số lượng mức thuế nhập khẩu, có những mặt hàng thì tăng thuế nhập khẩu, có những mặt hàng
nhập khẩu thì giảm thuế. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh cạnh tranh và xuất khẩu được thì
tăng thuế sát thuế nhập khẩu, còn đối với những mặt hàng sẽ tăng thuế tiêu thụ, thuế giá trị gia tăng hoặc
chuyển sang thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, hoặc những mặt hàng mà mức thuế nhập khẩu cao quá
mức cần thiết thì giảm mức thuế suất nhập khẩu. Điều này sẽ tạo điều kiện để Việt Nam hoà nhập vào hệ thống
thuế quan của các nước ASEAN trong thời gian tới và thực hiện đảm bảo nguồn thu cho ngân sách.
Ba là, có thể áp dụng một phương pháp khác trong việc sửa đổi biểu thuế nhập khẩu để cho nó phù hợp với các
quy định quốc tế mà nước ta đã cam kết và sẽ thực hiện, để áp dụng trong các trường hợp khác nhau tuỳ thuộc
vào quan hệ của Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, chính sách thuế xuất nhập khẩu
nên quy định ba loại thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu đó là: thuế suất phổ thông, thuế suất ưu đãi, thuế suất
tạm thời. Trong đó:
Thuế suất phổ thông (thuế suất tiêu chuẩn) là mức thuế suất để áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu của các
nước không có quan hệ, thoả thuận song phương và đa phương về thuế quan với Việt Nam.
Thuế suất tạm thời là loại thuế suất do chính phủ quy định để áp dụng trong thời gian nhất định, nhằm bảo hộ
sản xuất trong nước trong những trường hợp sản xuất trong nước bị thiệt hại do những tác động của hàng nhập
khẩu. Đó là trường hợp: hàng nước ngoài áp dụng chính sách trợ giá nhập khẩu vào thị trường Việt Nam do một
nước đang có chính sách cạnh tranh với hàng hoá trong nước và hàng các nước khác nhập khẩu vào Việt Nam;
hàng của nước ngoài cố tình bán phá giá vào thị trường Việt Nam; hoặc, hàng của nước ngoài hạn chế xuất khẩu
nhưng Việt Nam lại rất muốn nhập khẩu.
Thuế suất này có thể cao hơn hoặc thấp hơn thuế suất phổ thông.
Thuế suất ưu đãi là loại thuế áp dụng cho các nước có ký các điều khoản ưu đãi trong quan hệ thương mại quốc
tế với Việt Nam, với điều kiện phải ghi rõ từng mặt hàng, thuế suất, mức ưu đãi cụ thể.
Bốn là, tăng hiệu quả thu thuế. Nhà nước cần có các chế tài xử lý nghiêm khắc các tình trạng trốn thuế, khai
man thuế để có thể từng bước tăng thu cho ngân sách.
 Về miễn giảm thuế
Trong điều kiện mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Nhà nước ta đã có những quy định xét
miễn, giảm thuế cho một số trường hợp. Điều đó là cần thiết, song các quy định chưa thật cụ thể, chặt chẽ. Vì
vậy, trong việc quy định miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần phải ghi rõ hơn đối với những hàng hoá liên

quan tới khuyến đầu tư nước ngoài, phục vụ liên doanh liên kết.
 Thực hiện đồng bộ thuế xuất nhập khẩu với thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại thuế khác
Cho đến nay, do trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta ở mức độ thấp, các ngành kinh tế chưa đạt được
trình độ phát triển đồng đều thể hiện ở những mức độ khác nhau về hiệu quả sản xuất và tỷ lệ lợi nhuận, đòi hỏi
những mức độ khác nhau về sự trợ giúp của Nhà nước, về bảo hộ, về điều tiết. Trong điều kiện như vậy, chính
sách thuế bị chi phối và chưa thể tính toán về các mức thuế suất dựa trên mức lợi nhuận bình quân trong các
ngành. Việc tham gia vào quá trình hội nhập đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một hệ thống thuế trung lập thể
hiện rõ nhất ở việc đơn giản các mức thuế để tạo điều kiện phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, khuyến
khích các nhà sản xuất đầu tư vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh, có thể đạt được hiệu quả sản xuất cao, có khả
năng cạnh tranh được với hàng hoá các nước. Một hệ thống thuế trung lập và rõ ràng sẽ tạo điều kiện thu ngoài,
khơi trong. Việc đơn giản các mức thuế suất này cần được thực hiện cụ thể với từng sắc thuế.
Cùng với việc giảm số lượng các mức thuế suất và giảm dần thuế suất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như
đã trình bày ở trên đây, cần nhanh chóng mở rộng thuế tiêu thụ đặc biệt, áp dụng thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp và tiến tới áp dụng thuế thu nhập dân cư Với các biện pháp như vậy, thì nguồn thu của
ngân sách Nhà nước bị giảm sút do giảm thuế suất nhập khẩu sẽ phần nào được bù bằng các loại thuế khác.
 Đổi mới công tác tổ chức, quản lý thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu
Những nội dung về chính sách thuế xuất nhập khẩu nêu trên không thể thực hiện tốt nếu công tác tổ chức, kiểm
tra việc thi hành các chính sách, luật pháp về thuế xuất nhập khẩu không được đổi mới hoàn thiện. Vì vậy, trong
việc xây dựng luật thuế xuất nhập khẩu, cần giảm tối đa việc giao cho các bộ chức năng đưa ra những quy định
hướng dẫn việc thực hiện luật. Việc sửa đổi, bổ xung hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu một cách
thường xuyên kịp thời là cần thiết, để phù hợp với tình hình thay đổi của thị trường trong và ngoài nước. Tuy
nhiên cần có thời gian cho các doanh nghiệp thích ứng kịp thời, tránh gây ra cho doanh nghiệp, sự thiếu hiểu
biết về những chính sách mới. Nhà nước cần làm một cách kiên quyết hơn nữa việc cải cách hành chính để đảm
bảo những chính sách đúng đã có trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói chung, chính thuế xuất nhập khẩu nói riêng
được thực hiện một cách nghiêm minh.
Tóm lại, thuế xuất nhập khẩu là một phạm trù kinh tế lịch sử. Sự ra đời và phát triển của sắc thuế này gắn liền
với quá trình phát triển của hoạt động ngoại thương và Nhà nước. Quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển sẽ thúc
đẩy sự hoàn thiện của các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ này. Do đó, cùng với sự tiến bộ của hoạt động
ngoại thương Việt Nam, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu là xu hướng tất yếu khách quan của
thời đại.

×