Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

BAI BÁO CÁO THỰC TẬP-KINH TẾ MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.65 KB, 56 trang )

KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
(Environmental Economics)
Chương 1: Hệ thống môi trường và phát triển bền vững
1. Hệ thống môi trường
1.1. Môi trường (Environment)
* Khái niệm:
- Môi trường là một khái niệm rất rộng được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt sau hôị
nghị Stockhom về môi trường năm 1972.
- UNEP (1980): Môi trường là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá học, sinh học, kinh tế, xã hội bao
quanh, có ảnh hưởng tới đời sống và sự phát triển của một cá nhân, một quần thể hoặc những cộng đồng
người.
- Luật bảo vệ môi trường thông qua ngày 27-02-1993 của Việt nam: Môi trường bao gồm các yếu tố
tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ánh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên.
- Môi trường trong phạm vi nghiên cứu của kinh tế môi trường chính là môi trường địa lý hoặc môi
trường sống của con người theo định nghĩa của UNEP. Đó chính là hệ thống các hoàn cảnh chứa đựng và thể
hiện các quan hệ phức tạp giữa những thành phần tự nhiên, kinh tế và con người, tồn tại trong một không
gian và thời gian nhất định.
* Phân loại môi trường
- Theo chức năng:
+ MT tự nhiên:
+ MT xã hội:
+ MT nhân tạo:
- Theo quy mô: Môi trường toàn cầu, khu vực, quốc gia…
- Theo thành phần:
* Bản chất hệ thống của môi trường
- Tính cấu trúc:
- Tính cụ thể:
- Tính mở:
- Tính mục tiêu và tự điều chỉnh:
1.2.Tài nguyên


* Các khái niệm:
- Tài nguyên (resource) là tất cả các dạng vật chất, phi vật chất và tri thức được sử dụng để tạo ra của
cải vật chất hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới cho con người.
- Các nguồn lực được khai thác từ môi trường thiên nhiên được gọi là tài nguyên thiên nhiên (hay vốn
tự nhiên), từ môi trường KT-XH được gọi là tài nguyên nhân tạo hay vốn nhân tạo.
* Phân loại tài nguyên thiên nhiên:
Hiện nay quan điểm của các nhà kinh tế môi trường đều thống nhất phân loại tài nguyên thiên nhiên
theo khả năng tái sinh, trong đó TNTN được chia làm 2 loại:
1 1
Tài nguyên TN
Có khả năng tái sinh
Không có KN tái sinh
Tạo tiền đề tái sinh
Không thể tái sinh
Động vật
Thực vật
Vi sinh vật
Nước
Đất
Không khí
Năng lượng MT
Tái tạo
Cạn kiệt
Hình 1.1. Sơ đồ thể hiện phân loại nguồn TNTN
1.3. Vai trò của MT đối với con người
Đối với một cá thể con người cũng như đối với một cộng đồng con người và cả xã hội loài người, MT
sống có 3 chức năng:
- Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên:
- Môi trường là nơi chứa chất thải:
- Môi trường là không gian sống và cung cấp các dịch vụ cảnh quan: 2. Phát triển bền vững

2.1. Khái niệm về phát triển bền vững
- Theo nhà kinh tế học Herman Daly (làm việc ở WB) thì một thế giới bền vững là một thế giới không
sử dụng các nguồn tài nguyên tái sinh và tạo tiền đề tái sinh nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế
chúng và không thải ra môi trường các chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp thụ và vô hiệu hoá
chúng.
2 2
- Năm 1987 Uỷ ban thế giới về MT &PT đã công bố báo cáo “Tương lai của chúng ta”. Thuật ngữ
phát triển bền vững cũng đã lần đầu tiên được đưa ra trong báo cáo này. Theo đó PTBV (Sustainable
Development) là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của thế hệ tương lai.
2.2. Nội dung phát triển bền vững
Phát triển bền vững thực chất là sự phát triển có tính tổng hợp cao và có hệ thống. Tiếp cận quan điểm
hệ thống và tổng hợp cho phép hai nhà môi trường học Canada là Jacobs và Sadler trình bày mối quan hệ
biện chứng giữa phát triển và môi trường theo hình dưới đây:
Hình 1.2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế-xã hội và môi trườngKinh tế
Xã hội
Môi trường
PTBV
Mô hình trên đã được Mohan Munasingle, chuyên gia của WB phát triển vào năm 1993 như sau:
Hình 1.3. Tiếp cận phát triển bền vững
- Tăng trưởng
- Hiệu quả
- Ổn định
KINH TẾ
- Công bằng giữa các thế hệ - Đánh giá tác động môi trường
- Mục tiêu trợ giúp việc làm - Tiền tệ hoá tác động môi trường
- Giảm đói nghèo XÃ MÔI - ĐDSH và thích nghi
- Xây dựng thể chế HỘI TRƯỜNG - Bảo tồn TNTN
- Bảo tồn di sản VH - Công bằng giữa các thế hệ - Ngăn chặn ô nhiễm
- Sự tham gia của quần chúng

- Cực môi trường:
- Cực kinh tế:
- Cực xã hội:
2.3. Các chỉ tiêu đo lường phát triển bền vững
2.3.1. Chỉ số về sinh thái
Chỉ số này rất khó lượng hoá vì tuỳ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh tự nhiên trên từng lãnh thổ.
2.3.2. Chỉ số phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index- HDI) là thước đo tổng hợp về về sự phát
triển của con người trên phương diện sức khoẻ, tri thức và thu nhập, trong đó bao gồm 3 chỉ tiêu trình độ giáo
dục, tuổi thọ và thu nhập đầu người.
- Chỉ số phát triển giáo dục: là tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục.
- Chỉ số tuổi thọ bình quân:
3 3
- Chỉ số thu nhập đầu người:
2.4. Những nguyên tắc của một xã hội bền vững
- Nguyên tắc 1: Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống của cộng đồng
- Nguyên tắc 2: Cải thiện chất lượng cuộc sống
- Nguyên tắc 3: Bảo vệ sự sống và tính đa dạng của trái đất
- Nguyên tắc 4: Bảo đảm chắc chắn việc sử dụng các nguồn tài nguyên
- Nguyên tắc 5: Giữ vững trong khả năng chịu đựng của trái đất
- Nguyên tắc 6: Thay đổi thái độ và thói quen sống của mọi người
- Nguyên tắc 7: Cho phép các cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình
- Nguyên tắc 8: Tạo ra một cơ cấu quốc gia thống nhất cho việc phát triển và bảo vệ
- Nguyên tắc 9: Kiến tạo một cơ cấu liên minh toàn cầu.
3. Liên kết giữa kinh tế và môi trường (3 tiết)
3.1. Kinh tế môi trường và kinh tế tài nguyên thiên nhiên
Mô hình dưới đây mô tả mối liên kết giữa kinh tế và môi trường.
Hình 1.5: Liên kết kinh tế và môi trường
- Mối liên kết (a) mô tả các nguyên liệu thô chuyển vào quá trình sản xuất và tiêu dùng. Lĩnh vực
nghiên cứu vai trò cung cấp nguyên liệu thô của thiên nhiên được gọi là Kinh tế tài nguyên thiên nhiên.

- Mối liên kết (b) thể hiện sự tác động của hoạt động kinh tế đến chất lượng môi trường tự nhiên.
Lĩnh vực nghiên cứu về sự vận chuyển của các chất thải từ hoạt động kinh tế và các tác động tổng hợp của nó
đối với thế giới tự nhiên gọi là Kinh tế môi trường.
3.2. Cân bằng vật chất và chất lượng môi trường
Hình 1.6. là một phiên bản phức tạp hơn của những mối liên hệ đã được thể hiện ở hình 1.5. Các yếu
tố trong vòng tròn là những thành phần của hệ thống kinh tế và toàn bộ chúng được bao bọc trong môi trường
tự nhiên.
4
KINH TẾ
(b)(a)
Thiên nhiên
4
Hình 1.6. Cân bằng vật chất và quan hệ giữa kinh tế và môi trường

(Nguồn: Phiên bản từ Barry Field và Nancy Olewiler, Environmental Economics. 2005)
Trong hình 1.6. nguyên vật liệu và năng lượng (M) được lấy ra từ môi trường tự nhiên và các chất
thải từ sản xuất và tiêu dùng (Rp
d
và Rc
d
) được thải trở lại vào môi trường. Theo quy luật nhiệt động học thứ
nhất (một quy luật nổi tiếng về bảo toàn vật chất) khẳng định rằng trong dài hạn hai dòng vật chất này phải
bằng nhau: M= Rp
d
+ Rc
d
Điều này chứng tỏ rằng: Nếu chúng ta muốn giảm khối lượng chất thải vào môi trường tự nhiên
thì chúng ta phải giảm lượng nguyên liệu thô đưa vào hệ thống.
Rp
d

+ Rc
d
= M = G + Rp – Rp
r
– Rc
r
Nghĩa là lượng nguyên liệu thô (M) bằng với sản phẩm đầu ra (G) cộng với các chất thải từ sản xuất
(Rp) trừ đi lượng được tái chế của các nhà sản xuất (Rp
r
) và của người tiêu dùng (Rc
r
).
Có 3 cách để giảm M và do đó giảm các chất thải vào môi trường tự nhiên:
- Giảm G: Nghĩa là giảm chất thải bằng cách giảm số lượng hàng hoá và dịch vụ sản xuất. Có nhiều
quan niệm khác nhau:
(1) Giảm lượng sản phẩm sản xuất ra hay ít nhất ngưng tốc độ tăng trưởng của nó lại sẽ thực hiện
được sự thay đổi tương ứng về lượng chất thải.
(2) Một số người đã tìm kiếm giải pháp để đạt được điều này thông qua chủ trương “dân số không
tăng trưởng” (ZPG- Zero Polulation Growth).
- Giảm Rp: Nghĩa là giảm chất thải trên mỗi đơn vị thành phẩm được sản xuất. Có 2 cách cơ bản để
thực hiện điều này:
(1) Giảm cường độ chất thải của sản xuất.
5
Đã tái tuần hoàn (Rp
r
)
Thải bỏ (Rp
d
)
Chất thải (Rp)

Nguyên
liệu thô (M)
HH(G)
Người SX
Thải bỏ (Rc
d
)
Chất thải (Rc
Người tiêu thụ
Đã tái tuần hoàn (Rc
r
)
Môi trường thiên nhiên
5
(2) Thay đổi kết cấu sản phẩm từ những vật liệu có tỷ lệ chất thải cao sang loại vật liệu có tỷ lệ chất
thải thấp hơn trong khi không làm thay đổi tổng thể.
- Tăng (Rp
r
+ Rc
r
): Tăng tái chế nhằm thay thế một phần dòng nguyên liệu đầu vào trong khi vẫn
duy trì được đầu ra của các loại hàng hoá và dịch vụ.
4.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế môi trường
Kinh tế môi trường là môn khoa học nghiên cứu các vấn đề môi trường với cách nhìn và phương pháp
phân tích của kinh tế học.
Các nhà kinh tế môi trường đang phải rất vất vả chỉ ra cho mọi người thấy rằng đối với họ cũng như
đối với phần lớn các nhà kinh tế, thì “kinh tế” không phải chỉ có nghĩa là những gì xảy ra cho sự lưu thông
tiền tệ trên thị trường. Những thay đổi về mặt phúc lợi của con người là hậu quả kinh tế.
Nghiên cứu kinh tế môi trường cũng giống như các chuyên ngành khác của kinh tế học quan tâm đến
vấn đề cơ bản là phân phối các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng có tính cạnh tranh.

4.2. Vai trò của khuyến khích trong việc giải thích các vấn đề môi trường
- Tại sao con người lại hành xử theo các cách thức gây huỷ hoại môi trường? Có nhiều cách trả lời
câu hỏi này. Một cách trả lời đó là hành vi vô đạo đức của con người. Nếu điều này là đúng thì cách để con
người ngừng gây ô nhiễm là phải nâng cao nhận thức về đạo đức môi trường trong xã hội. Không phải sự
kém ý thức đạo đức sẽ dẫn đến phá hoại môi trường mà chính là cách thức chúng ta tạo nên hệ thống kinh tế
để trong đó mọi người cần phải tìm công việc để sinh sống.
- Vì vậy cách thức thứ hai để nghiên cứu vấn đề tại sao con người gây ô nhiễm là quan sát cách thức
xây dựng nền kinh tế và thể chế và bằng cách nào chúng hướng mọi người đưa ra các quyết định gây hậu quả
phá hoại môi trường. Các nhà kinh tế học tin rằng: “Con người gây ô nhiễm bởi vì đó là phương cách rẻ
nhất để giải quyết một vấn đề rất thực tế là làm thế nào để thải bỏ các chất thải sau quá trình sản xuất và
tiêu dung hàng hóa”.
- Con người đã tạo ra những quyết định như thế trong một khung cảnh thể chế kinh tế và xã hội nhất
định. Những thể chế này tạo ra các khuyến khích (incentives) để hướng mọi người đưa ra các quyết định chỉ
theo cách này mà không theo cách khác. Khuyến khích là điều làm cho ta bị cuốn hút hay từ chối điều chỉnh
hành vi của mình bằng cách nào đó. Thông thường chúng ta nghĩ “khuyến khích kinh tế ” là những phần
thưởng về của cải vật chất, nhưng cũng có những khuyến khích phi vật chất hướng mọi người điều chỉnh
hành vi kinh tế của họ như lòng tự trọng, mong muốn bảo tồn một môi trường sạch đẹp…
4.3. Vai trò của quyền tài sản (Property rights)
“Thiếu quyền sở hữu đối với các nguồn tài nguyên môi trường có nghĩa là có rất ít khuyến khích
để con người tính đến hậu quả môi trường do hành động của họ gây ra”.
4.4. Sự bền vững của môi trường và của nền kinh tế.
Một ngành khoa học được gọi là Kinh tế sinh thái (Ecological Economics) đã xác định các tương tác
này một cách đầy đủ hơn. Mục tiêu quan trọng của chuyên ngành này là nghiên cứu các lộ trình bền vững
trong phát triển kinh tế-nghĩa là các hoạt động này không phá huỷ các hệ sinh thái nhưng cho phép gia tăng
thu nhập thực.
- Ý tưởng cơ bản của nền kinh tế bền vững phải là nền kinh tế có khả năng cho phép phúc lợi của con
người tăng lên hoặc chí ít cũng phải được giữ nguyên.
- Để có thể đạt được những mục tiêu phát triển bền vững thì mỗi quốc gia và trên toàn cầu phải thiết
lập được 2 nền tảng công bằng sau đây:
6 6

+ Công bằng giữa cùng một thế hệ:
+ Công bằng liên thế hệ
- Bền vững cũng phụ thuộc vào khả năng thay thế vốn tự nhiên (các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
môi trường) và vốn xã hội sản xuất và lao động. Công nghệ và sự thay đổi công nghệ là yếu tố sống còn
trong lộ trình bền vững.
4.5. Đánh đổi và sự bền vững
- Các nhà kinh tế minh họa sự đánh đổi (trade-off) giữa hàng hoá dịch vụ với chất lượng môi trường
bằng cách sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất (production possibility frontier-PPF).
- PPF được xác định bởi năng lực kỹ thuật trong nền kinh tế và các nhân tố sinh thái của hệ thống tự
nhiên tại một quốc gia. Sự lựa chọn tuỳ vào cách mà con người trong xã hội ấy đánh giá chọn lựa giữa kết
quả kinh tế và chất lượng môi trường. Các nhà kinh tế học minh họa sự lựa chọn của xã hội bằng mối liên hệ
được gọi là đường bàng quan cộng đồng (Community Indifference Curve- CIC).
Hình 1.8. Đường PPF giữa sản lượng và chất lượng môi trường
Chất lượng môi trường
Hàng hoá
C
2
C
1
E
1
E
2
E
A
CIC
2
A
CIC
1

A
CIC
B
E
max
PPF
Các nước PT
5. Tổng quan về các vấn đề môi trường ở Việt nam và thế giới
5.1. Ô nhiễm nước và không khí
5.2. Thoái hóa đất
5.3. Cạn kiệt tài nguyên: Rừng, Thủy sản, và Khoáng sản
5.4. Những quan tâm toàn cầu: Thay đổi khí hậu và đa dạng sinh học
5.5. Phát triển bền vững.
Chương 2: Kinh tế học chất lượng môi trường
1. Mô hình thị trường và hiệu quả kinh tế.
1.1. Cung, cầu và cân bằng thị trường
- Thị trường là bất kỳ khung cảnh nào trong đó tập hợp những người mua và người bán, họ tác động
qua lại lẫn nhau dẫn đến khả năng trao đổi, mua bán các loại hàng hoá và dịch vụ. Giá cả là tín hiệu cơ bản
phối hợp các hoạt động của người tiêu dùng, người sản xuất
7 7
- Cầu (Demand-D) là lượng hàng hoá/dịch vụ mà người mua có khả năng mua và sẵn sàng mua tại
mức giá đã cho trong một thời gian nhất định.
+ Chúng ta có thể biểu thị mối quan hệ này bằng đồ thị, đó là đường cầu (dốc xuống dưới từ trái sang
phải). Tại mức giá P
1
thì lượng cầu là Q
1,
tại mức giá P
2
thì lượng cầu là Q

2
Hình 2.1. Đường cầu thị trường
P
D
P
2
P
1
Q
2
Q
1
Q
+ Cầu thị trường là tổng cộng theo chiều ngang của các đường cầu cá nhân.
+ Các yếu tố cơ bản xác định cầu về hàng hoá/dịch vụ bao gồm : giá của bản thân hàng hoá/dịch vụ,
thu nhập của người tiêu dùng, giá cả của loại hàng hoá có liên quan, số lượng người tiêu dùng, thị hiếu của
người tiêu dùng…
- Cung (Supply- S) lượng hàng hoá và dịch vụ mà người bán sẵn lòng và có khả năng cung tại mức
giá xác định trong một thời gian xác định.
Hình 2.2. Đường cung thị trường
P
S
P
2
P
1

Q
1
Q

2
Q
Trong những điều kiện như nhau, giá càng cao thì lượng cung càng lớn và ngược lại. Chúng ta có thể
biểu thị mối quan hệ này dưới dạng đồ thị, đó là đường cung (dốc đi lên từ trái sang phải)
8 8
+ Cung thị trường là tổng các mức cung của từng cá nhân lại với nhau
+ Các yếu tố cơ bản xác định cung về hàng hoá/dịch vụ bao gồm : giá của bản thân hàng hoá/dịch vụ,
công nghệ, giá của các yếu tố đầu vào, chính sách thuế…
- Cân bằng thị trường: Khi cầu đối với một hàng hoá/dịch vụ nào đó xuất hiện trên thị trường, người
sản xuất sẽ tìm cách đáp ứng mức cầu đó. Thị trường ở trạng thái cân bằng khi việc cung cấp hàng hoá/dịch
vụ đủ thoả mãn cầu đối với hàng hoá/dịch vụ đó trong một thời kỳ nhất định. Tại trạng thái cân bằng này
chúng ta có mức giá cân bằng (P
*
) và sản lượng cân bằng (Q
*
).
Hình 2.3. Cân bằng cung cầu thị trường
P
Q
Q
*
P
*
O
E
S
D
1.2. Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất
1.2.1. Lợi ích và thặng dư tiêu dùng
* Lợi ích :

- Thuật ngữ lợi ích được hiểu như là sự vừa ý, sự hài lòng, sự thoả mãn do việc tiêu dùng hàng
hoá/dịch vụ đem lại.
Lợi ích toàn bộ (Total Benefit- TB) là tổng thể sự hài lòng do toàn bộ sự tiêu dùng hàng hoá/dịch vụ
đem lại. (Hay chính là toàn bộ diện tích nằm dưới đường cầu)
Lợi ích cận biên (Marginal Benefit- MB) phản ánh mức độ hài lòng do tiêu dùng một đơn vị sản
phẩm đem lại.
Lợi ích cận biên =
→ MB = lim
= TB’
(Q)
- Lợi ích cận biên của một hàng hoá/dịch vụ có xu hướng giảm đi khi lượng mặt hàng đó được tiêu
dùng nhiều hơn ở một thời kỳ nhất định. Như vậy, khi ta tiêu dùng nhiều hơn một loại hàng hoá/dịch vụ nào
đó mà lợi ích cận biên vẫn còn lớn hơn 0, tổng lợi ích sẽ tăng lên nhưng với tốc độ chậm dần đi.
- Lợi ích là một khái niệm trừu tượng, tuy nhiên chúng ta có thể dùng giá để đo lợi ích cận biên của
việc tiêu dùng : Lợi ích cận biên của việc tiêu dùng hàng hoá/dịch vụ càng lớn thì người tiêu dùng sẵn sàng
trả giá cao hơn cho nó, khi lợi ích cận biên giảm thì sự sẵn lòng chi trả cũng giảm đi. Nếu vây, đường cầu
cũng chính là đường thể hiện lợi ích cận biên của việc tiêu dùng.
* Thặng dư tiêu dùng (CS - comsumer surplus)
- Thặng dư tiêu dùng là khái niệm phản ánh sự chênh lệch giữa lợi ích của người tiêu dùng khi tiêu
dùng một lượng hàng hoá/dịch vụ so với chi phí thực tế để thu được lợi ích đó.
Hình 2.4. Thặng dư tiêu dùng
9
Sự thay đổi tổng lợi ích
Sự thay đổi lượng tiêu dùng
ΔTB
ΔQ→ 0
ΔQ
P
9
1.2.2. Chi phí và thặng dư sản xuất

* Chi phí
- Chi phí đối với một doanh nghiệp được hiểu là các khoản chi trả mà doanh nghiệp phải thực hiện để
duy trì việc sản xuất một lượng hàng hoá/dịch vụ.
- Tổng chi phí (Total Cost- TC) của việc sản xuất một lượng hàng hoá bao gồm giá thị trường của
toàn bộ các nguồn lực được sử dụng để sản xuất ra lượng hàng hoá đó. Có thể phân biệt 2 loại chi phí :
+ Chi phí cố định (Fixed Cost- FC)
+ Chi phí biến đổi (Variabe Cost- VC)
- Tổng chi phí là tổng của chi phí cố định và chi phí biến đổi. Vì chi phí cố định không thay đổi nên
sự tăng giảm của tổng chi phí phụ thuộc vào các chi phí biến đổi.
- Chi phí cận biên (Marginal Cost- MC) là chi phí phải chi bổ sung để sản xuất thêm một một đơn vị
sản lượng hàng hoá/dịch vụ.
Chi phí cận biên =
MC =
Q
TC


hay MC = (TC)
´
Q
Đường chi phí cận biên đi lên là kết quả trực tiếp của quy luật năng suất cận biên giảm dần. Chi phí
cận biên càng cao, người sản xuất càng đòi hỏi mức giá bán sản phẩm cao tương ứng. Người sản xuất tối đa
hoá lợi nhuận sẽ sẵn lòng cung cấp hàng hoá/dịch vụ cho thị trường đến chừng nào giá bán đơn vị sản phẩm
cuối cùng bằng đúng với chi phí cận biên để sản xuất ra đơn vị sản phẩm ấy (P= MC). Vì thế đường chi phí
cận biên cũng chính là đường cung của doanh nghiệp.
* Thặng dư sản xuất
- Thặng dư sản xuất là khái niệm phản ánh mức chênh lệch giữa số tiền mà người sản xuất thực sự
nhận được từ việc cung cấp hàng hoá/dịch vụ so với số tiền tối thiểu mà anh ta sẵn sàng chấp nhận chi trả.
Hình 2.5. Thặng dư sản xuất
S

10
B
CS
E
P
**
D
Q
O
Q
D
Sự thay đổi tổng chi phí
Sự thay đổi tổng sản lượng
10
Q
Q
S
O
A
P
*
P
E
PS
1.2.3. Lợi ích ròng xã hội
- Tổng lợi ích xã hội (Total Social Benefit- TSB) của việc tiêu dùng một loại hàng hoá/dịch vụ với
một lượng nào đó được xác định là tổng lợi ích của tất cả các cá nhân trong xã hội được hưởng liên quan đến
việc tiêu dùng hàng hoá/dịch vụ đó. Tổng lợi ích xã hội cũng được xác định bằng tổng cộng sự sẵn lòng chi
trả của các cá nhân trong xã hội cho việc tiêu dùng hàng hoá/dịch vụ.
Hình 2.6. Lợi ích ròng xã hội

P
B
P
*
A
O
Q
*
Q
CS
PS
E
S ≡ MC
D ≡ MB
- Tổng chi phí xã hội (Total Social Cost- TSC) của việc sản xuất một hàng hoá/dịch vụ được xác định
là tổng chi phí của tất cả các nguồn lực cần thiết (kể cả chi phí cơ hội) để sản xuất ra hàng hoá/dịch vụ đó.
- Chúng ta có thể xác định lợi ích ròng xã hội (Net Social Benefit- NSB) của việc sản xuất và tiêu
dùng một hàng hoá/dịch vụ nào đó bằng hiệu số giữa tổng lợi ích xã hội và tổng chi phí xã hội.
NSB = TSB – TSC (1)
- Như vậy rõ ràng, lợi ích ròng xã hội là tổng số của thặng dư tiêu dùng (CS) và thặng dư sản xuất
(PS).
NSB = CS + PS (2)
NSB chính bằng diện tích hình ABE trên đồ thị
- Dưới những điều kiện chặt chẽ, điểm cân bằng của thị trường cạnh tranh là điểm có tính hiệu quả
Pareto.
1.3. Hiệu quả Pareto
- Một sự phân bổ nguồn lực là có hiệu quả Pareto (hoặc đạt tối đa Pareto) nếu không có khả năng dịch
chuyển tới một sự phân bố khác có thể làm cho bất cứ người nào khá lên mà cũng không làm cho ít nhất là
bất cứ một người nào khác kém đi. Nói cách khác, Pareto là một phúc lợi tối đa được xác định như một vị trí
11 11

mà từ đó không thể cải thiện được phúc lợi của bất cứ ai bằng cách thay đổi sản xuất hoặc trao đổi mà lại
không gây hại đến phúc lợi của một người nào khác.
2. Những biểu hiện và nguyên nhân của các vấn đề môi trường từ giác độ kinh tế
2.1. Các biểu hiện kinh tế của suy thoái môi trường
Bước đầu tiên để hiểu được những nguyên nhân gốc rễ của sự suy thoái môi trường là tìm kiếm các
biểu hiện về kinh tế. Nghiên cứu các biểu hiện kinh tế của sự suy thoái môi trường giúp chúng ta xác định
được mặt thật của vấn đề và đề ra những phương pháp tốt nhất để can thiệp có hiệu quả về mặt chi phí.
(1) Việc sử dụng tài nguyên quá mức, lãng phí và không hiệu quả cùng tồn tại với sự khan hiếm và
thiếu hụt ngày càng gia tăng.
(2) Một nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm bị đưa vào sử dụng một cách không bền vững, hiệu
quả thấp trong khi vẫn có những cách sử dụng bền vững và hiệu quả cao mà không được sử dụng.
(3) Một nguồn tài nguyên có thể được tái sinh và có thể được quản lý một cách bền vững lại bị khai
thác như một tài nguyên để vơ vét.
(4) Một tài nguyên bị sử dụng cho một mục đích chuyên biệt trong khi sự sử dụng đa dạng có thể tạo
ra lợi ích lớn hơn.
(5) Các cộng đồng địa phương, các bộ tộc và những nhóm người nghèo như phụ nữ bị tước đoạt
quyền sử dụng tài nguyên theo tập tục của họ cho dù sự có mặt của họ, những kiến thức bản địa và lợi ích
riêng của họ khiến họ là những người quản lý có hiệu quả nhất các tài nguyên này.
(6) Các dự án công cộng được thực hiện không tạo ra hay cung cấp đủ lợi ích để bồi thường đầy đủ
cho những phần tử bị ảnh hưởng (bao gồm cả môi trường).
(7) Tài nguyên và sản phẩm phụ không được tái chế kể cả khi việc tái chế tạo ra các lợi ích cả về kinh
tế và môi trường.
(8) Các khu vực và môi trường cư trú độc đáo bị mất, nhiều loài động vật và thực vật đang bị diệt
chủng mà không có lý do kinh tế cưỡng chế nào để đáp lại giá trị của tính độc đáo, sự đa dạng và tổn thất của
những mất mát không thể phục hổi được. 2.2. Thất bại thị trường và suy thoái môi trường
2.2.1. Thất bại thị trường là gì ?
Thông thường thị trường hoạt động tốt là cơ chế hữu hiệu để phân bố tài nguyên giữa các nhu cầu sử
dụng và giữa các thời kỳ. Để hoạt động tốt thị trường đòi hỏi phải có một số điều kiện cơ bản nhất định.
Phân bổ có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm là một yêu cầu quan trọng của bất kỳ một nền kinh tế
nào. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường không hoàn toàn tối ưu mà luôn có những trục trặc, những thất bại mà

bản thân con người không mong muốn. Thất bại của thị trường là thuật ngữ để chỉ các tình huống trong đó
điểm cân bằng của thị trường tự do cạnh tranh không đạt được sự phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
2.2.2. Các nguyên nhân dẫn đến thất bại thị trường :
2.2.2.1. Quyền sở hứu tài sản (Quyền tài sản) (property right) không được xác định rõ hoặc không hiện
hữu (Thất bại về quyền tài sản).
- KN: Quyền tài sản là: đề cập một nhóm các điều khoản xác định quyền hạn, đặc quyền và giới hạn
của người sử dụng đối với việc sử dụng tài nguyên.
- Quyền tài sản gồm: quyền sở hữu (ownership rights) và quyền sử dụng (use rights)
Phân loại quyền tài sản:
Bảng : Phân loại quyền tài sản
Quyền Đặc điểm
12 12
tài sản
Nhà nước Các cá nhân có nghĩa vụ tuân thủ về sử dụng do cơ quan hữu quan ban
hành. Cơ quan này có quyền ban hành các quy định kể trên
Tư nhân Các cá nhân có quyền tiến hành các phương thức sử dụng được xã hội chấp
thuận và có nghĩa vụ chấm dứt các phương thức không được chấp thuận.
Các đối tượng khác có nghĩa vụ tôn trọng các quyền cá nhân này.
Cộng
đồng
Nhóm quản lý có quyền quy định các biện pháp đảm bảo các quyền của
thành viên cộng đồng loại trừ những ai không phải là thành viên cộng
đồng. Những thành viên ngoài cộng đồng có nghĩa vụ tuân thủ quy định
loại trừ trên. Các đối tượng đồng sỡ hữu bao gồm cả nhóm quản lý và có
các quyền và nghĩa vụ liên quan tới việc sử dụng tài nguyên.
Vô chủ Không có chủ sở hữu nào được xác định. Các cá nhân có quyền lợi mà
không phải là quyền sử dụng tài nguyên
2.2.2.2. Tài nguyên không được định giá và thị trường rất yếu ớt hoặc vắng bóng
Không có thị trường và do đó không có giá cho các loại tài nguyên tự do khai thác sử dụng
Không có người mua lẫn kẻ bán, thị trường cho các loại tài nguyên tự do khai thác không phát triển

được và giá của chúng vẫn được duy trì ở số không ngay cả khi chúng càng trở nên khan hiếm.
Thực ra, có thị trường cho các loại hàng hoá tài nguyên thiên nhiên như cá, nước tưới, củi…nhưng cái
giá mà những hàng hoá này có chỉ là sự phản ánh chi phí cơ hội của lao động và tư bản dùng trong sản xuất
chứ không phải là chi phí cơ hội của nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm được sử dụng trong sản xuất.
2.2.2.3. Ngoại ứng (externality)
Yếu tố ngoại ứng xuất hiện khi một quyết định hoặc tiêu dùng của một hay một số cá nhân tác động
trực tiếp đến việc sản xuất hay tiêu dùng của những người khác mà không thông qua giá cả thị trường và
không được tính đến trong các quyết định sản xuất hay tiêu dùng. Vấn đề chính yếu của ngoại ứng là nó tạo
ra các lợi ích và chi phí không được bồi hoàn và không có sự tham gia của bất cứ luồng tài chính nào.
Có hai loại ngoại ứng:
- Ngoại ứng tiêu cực: nảy sinh khi các doanh nghiệp/cá nhân gây ra tổn thất hay thiệt hại cho người
khác mà không phải thanh toán hay bồi hoàn cho những tổn thất và thiệt hại đó. Nói cách khác, ngoại ứng là
tiêu cực khi hoạt động của một bên áp đặt/tạo ra những chi phí cho các bên khác.
- Ngoại ứng tích cực nảy sinh khi các DN/cá nhân tạo ra lợi ích cho những người khác mà không
được nhận những khoản thù lao thoả đáng cho việc đó.
2.2.2.4. Chi phí giao dịch (transaction cost)
Chi phí giao dịch- là các chi phí thông tin, đàm phán, giám sát và cưỡng chế thực hiện hợp đồng-gắn
với thị trường.
Khi những chi phí này qúa cao sẽ ngăn cản những trao đổi mà lẽ ra có ích cho việc bảo tồn tài nguyên
và cải thiện phúc lợi xã hội.
2.2.2.5. Hàng hoá công cộng (public good)
- Hàng hoá công cộng là những hàng hoá mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng
hoá đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng thụ nó. Điều này giúp phân biệt với
hàng hoá tư nhân là những loại hàng hoá khi một người đã tiêu dùng rồi thì người khác không thể tiêu dùng
được nữa.
13 13
- HHCC có hai đặc tính cơ bản:
+ HHCC không có tính cạnh tranh (non-revalness) trong tiêu dung
+ HHCC không có tính loại trừ hay tính không độc chiếm (non-exclusion)
- Môi trường bao gồm nhiều loại HHCC, từ chất lượng môi trường và bảo vệ dòng chảy tới cân bằng

sinh thái và đa dạng sinh học. Ngoài ra các hoạt động nội hoá ngoại ứng cũng có thể được xem là HHCC. Do
rất tốn kém và thường có hại cho phúc lợi xã hội nếu loại trừ bất kỳ ai không chịu trả tiền ra khỏi việc tiêu
thụ hàng hoá công cộng, các hàng hoá ấy không thể do thị trường cung cấp.
2.2.2.6. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Market)
- Ngay cả khi thị trường tồn tại và tích cực thì sự thất bại vẫn có thể xảy ra dưới dạng cạnh không đầy
đủ.
- Một thị trường là cạnh tranh không hoàn hảo nếu hoạt động của một hay một số ít người bán hoặc
người mua có ảnh hưởng rõ trên giá. Lý do của một số tổ chức thiểu số độc quyền ở một số ngành liên hệ đến
tài nguyên như cung cấp nước và năng lượng là đặc tính chi phí giảm dần, nghĩa là do đầu tư cơ bản là chi
phí chung nên chi phí trung bình của dịch vụ liên tục giảm khi ngày càng nhiều khách hàng được phục vụ
cho đến khi toàn bộ thị trường bị thống trị bởi một nhà cung cấp (độc quyền tự nhiên).
2.2.2.7. Những kế hoạch thiển cận và suất chiết khấu cao
- Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững đòi hỏi phải hy sinh sự tiêu thụ hiện tại cho
một hứa hẹn về lợi ích trong tương lai. Do người ta có xu hướng ưa thích lợi ích trước mắt hơn là tương lai,
sự hoán chuyển này tỏ ra không hấp dẫn trừ khi một đồng đô la hy sinh ngày hôm nay tạo ra nhiều hơn một
đô la trong ngày mai. Lợi ích trong tương lai do đó được chiết khấu và càng bị chiết khấu chúng càng trở nên
kém hấp dẫn.
Một suất chiết khấu cao có thể cản trở toàn bộ sự bảo tồn. Colin Clark đã chứng minh rằng lãi suất thị
trường cao kết hợp với tốc độ tăng trưởng tự nhiên thấp của một loài sẽ dẫn đến sự diệt chủng của loài ấy.
- Sự không chắc chắn về môi trường và thị trường cộng với thời gian sống ngắn ngủi của đời người
dẫn người ta đến việc chấp nhận suất chiết khấu cao và khung thời gian ngắn, kết quả là người ta đưa ra
những quyết định thiển cận để theo đuổi mục đích sống còn của mình hoặc để tìm kiếm lợi ích trước mắt và
để lại thiệt hại cho sự bền vững dài hạn.
2.2.2.8. Bất định (uncertainty) và rủi ro (risk)
Bất định (tính không chắc chắn): một tình huống được coi là bất định khi người ta không biết được
xác suất khách quan cho sự xuất hiện của mỗi một kết quả;
Rủi ro: là một tình huống mà mức độ chung của xác suất để một kết quả xuất hiện có thể suy ra được,
dù xác suất đó không thực chính xác.
- Có thể phân biệt hai loại bất định (không chắc chắn): (1) Bất định về môi trường; (2) Bất định về thị
trường

- Dù sự bất định chi phối mọi ngành kinh tế nhưng tài nguyên thiên nhiên bị ảnh hưởng nặng nề hơn
vì nhiều lý do. (1) Có nhiều sự không chắc chắn về quyền sở hữu và khả năng tiếp cận với các nguồn tài
nguyên thiên nhiên; (2) Các ngoại ứng do các ngành khác gây ra nhiều hơn; (3) Chu kỳ sản xuất trong lâm
nghiệp (trồng rừng) dài; (4) giá của hàng hoá tài nguyên thiên nhiên khó tiên đoán; (5) Phần lớn các hàng hoá
tài nguyên thiên nhiên thường xuyên chịu sự đe doạ sẽ bị thay thế bởi những sản phẩm rẻ tiền hơn do những
tiến bộ kỹ thuật cũng rất khó đoán trước.
2.2.3. Thất bại chính sách
14 14
Khái niệm:
Điều kiện cần để chính phủ can thiệp là thất bại thị trường.
Điều kiện đủ là: Để sự can thiệp của chính phủ thực sự có hiệu quả, phải đảm bảo 2 điều kiện nữa:
(1) việc can thiệp phải có tác dụng tốt hơn thị trường hoặc cải tiến được vai trò của thị trường; (2) các lợi ích
từ sự can thiệp đó phải lớn hơn chi phí hoạch định, thực hiện và cưỡng chế thực hiện cũng như toàn bộ các
chi phí gián tiếp và ngẫu sinh do sự biến dạng trong các khu vực kinh tế khác mà sự can thiệp này gây ra.
- Một cách lý tưởng, sự can thiệp của chính phủ là nhằm mục đích sửa chữa hoặc ít ra là giảm bớt
những thất bại của thị trường thông qua thuế, quy định, luật lệ, khuyến khích lợi ích tư nhân, các dự án công
cộng, quản lý vĩ mô và cải cách định chế.
- Tuy nhiên trong thực tế, các chính sách của chính phủ lại có khuynh hướng tạo thêm các biến dạng
trong thị trường tài nguyên thiên nhiên hơn là sửa chữa chúng. Do:
(1) Việc sửa chữa các thất bại của thị trường hiếm khi là mục tiêu duy nhất hoặc thậm chí không là
mục tiêu chủ yếu của sự can thiệp của chính phủ vì còn có các mục tiêu khác như an ninh quốc gia, công
bằng xã hội, quản lý vĩ mô…;
(2) Sự can thiệp của chính phủ cũng thường có những hậu quả ngẫu sinh, không lường được hoặc
đánh giá không đầy đủ về những tác động phụ;
(3) Các chính sách như trợ giá và bảo hộ nhằm chống lại nhập khẩu hoặc cạnh tranh thường vượt qua
sự hữu dụng và việc dẹp bỏ chúng rất khó khăn;
(4) Sự can thiệp về mặt chính sách có xu hướng tích luỹ và tương tác lẫn nhau làm biến dạng những
khuyến khích tư nhân và tách chúng ra khỏi những hoạt động có lợi cho xã hội;
(5) Một số chính sách dường như không liên quan gì đến môi trường và tài nguyên nhưng lại có nhiều
tác động vào môi trường hơn là những chính sách về môi trường và tài nguyên.

Như vậy suy thoái môi trường không những do sự lệ thuộc vào một thị trường tự do không hoạt động
một cách có hiệu quả (thất bại thị trường) mà còn do các chính sách của chính phủ cố ý hoặc vô tình làm biến
dạng các khuyến khích lợi ích nghiêng về việc khai thác quá mức và chống lại việc bảo vệ các tài nguyên
khan hiếm (thất bại chính sách)
Phân loại:
+ Loại thứ nhất: can thiệp khi không cần thiết. Đây là trường hợp chính sách của chính phủ đi sửa
chữa những gì không đổ vỡ.
+ Loại thứ hai: Chính sách thất bại trong việc khắc phục ảnh hưởng mong muốn
+ Loại thất bại chính sách thứ ba: Can thiệp không đúng: là sự can thiệp của chính phủ nhằm sửa
chữa hoặc giảm bớt một thất bại của thị trường nhưng kết cục lại gây ra một kết quả tồi tệ hơn là những gì
mà một thị trường tự do tạo ra.
+ Loại thất bại chính sách thứ tư là thiếu sự can thiệp ở các thị trường đang thất bại khi mà sự can
thiệp như vậy rõ ràng là cần thiết để cải thiện hoạt động của thị trường.
2.2.3.1. Những thất bại chính sách liên quan đến các dự án
- Dự án công cộng là một công cụ can thiệp có hiệu quả của chính quyền nhằm giảm bớt những thất
bại của thị trường bằng cách cung cấp những hàng hoá công cộng như đường xá, tiện ích và công viên. Tuy
nhiên nếu sử dụng không hợp lý, chúng có thể trở thành nguyên nhân chính của sự biến dạng thị trường.
- Các dự án công cộng thường được biện minh về mặt kinh tế bằng cách phân tích lợi ích-chi phí, mà
về mặt nguyên tắc phải được xem xét đầy đủ mọi lợi ích và chi phí xã hội: (1) Dự án được lựa chọn căn cứ
15 15
vào bản đánh giá tài chính hoặc phân tích kinh tế hạn hẹp; (2) Lợi ích và chi phí xã hội được xác định quá
hẹp theo thời gian và không gian (loại trừ yếu tố ngoại ứng và ảnh hưởng dài hạn); (3) Ảnh hưởng đến môi
trường không được tiên liệu vào giai đoạn thiết kế dự án; (4) Chi phí môi trường dù có được tiên liệu và coi
trọng nhưng khó đo lường và định giá chúng; (5) Sử dụng suất chiết khấu xã hội qúa cao; (6) Tình trạng bồi
hoàn những thay đổi do dự án đối với môi trường không được xử lý thích đáng hoặc bị bỏ qua.
2.2.3.2. Các thất bại chính sách ngành
* Các chính sách về rừng: Chính sách về rừng là một ví dụ tuyệt vời về một chính sách tài nguyên
cụ thể cần phải được xem xét lại toàn bộ nếu mối quan hệ giữa sự khan hiếm và giá cả muốn được tái xác
lập. Hiện nay không những đa số các dịch vụ và sản phẩm rừng không có giá mà ngay cả gỗ tròn, một loại
hàng hoá được mua bán trên thị trường cũng được định giá dưới mức giá trị khan hiếm thực sự của nó do

được tài trợ công khai hoặc ngấm ngầm và những thất bại về định chế.
* Chính sách về đất đai: Sự thiếu đảm bảo về quyền sở hữu đất đai là một thất bại về chính sách
nghiêm trọng nhất ở các nước đang phát triển, nó ngăn cản việc sử dụng đất có hiệu quả và thường dẫn đến
tình trạng suy thoái đất, nước và các nguồn tài nguyên.
* Chính sách về nước: Gần như tất cả các quốc gia bất kể mức khan hiếm về nước, đều trợ giá nước
cho công tác thuỷ lợi và các sử dụng khác. Trong nhiều trường hợp nước còn được cung cấp miễn phí. Kết
quả là công tác thủy lợi thực hiện quá mức với hậu quả là mặn hoá và ngập úng ở vài khu vực và tình trạng
thiếu nước ở những khu vực khác. Sự lãng phí lớn này về nước, làm hạn chế hiệu suất của hệ thống thuỷ lợi
còn khoảng 15% so với mức tiềm năng là 60% đến 70%, trong khi đó việc không thu hồi được chi phí đã làm
cho hệ thống mất đi một nguồn kinh phí để hoạt động và bảo trì.
* Đô thị hoá và công nghiệp hóa: Sự phát triển công nghiệp và đô thị hoá tương quan với nhau rất
mật thiết. Công nghiệp ở nhiều quốc gia đang phát triển và một số quốc gia phát triển, thường nằm ở gần
trung tâm thành thị bởi vì sự phân bố lệch lạc cơ sở hạ tầng công cộng
* Chính sách công nghiệp và thương mại: Các chính sách công nghiệp và thương mại có vẻ như chỉ
dính líu rất ít đến việc quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhưng thực ra chúng rất quan trọng. Các
chính sách này có ảnh hưởng đến các tỷ giá mậu dịch giữa nông nghiệp và công nghiệp, do đó ảnh hưởng
đến khả năng sinh lợi tương đối của nông nghiệp và các khu vực tài nguyên khác.
* Những thất bại của chính sách kinh tế vĩ mô: Các chính sách về tài chính, tiền tệ và ngoại hối
cũng có tác dụng mạnh mẽ vào cách phân bố và sử dụng tài nguyên hơn là các chính sách kinh tế vi mô và
khu vực.
2.2.4. Những hàm ý về kiểm soát suy thoái môi trường thông qua cải cách chính sách
Cải cách chính sách chỉ là việc cơ cấu lại những can thiệp của chính phủ và chuyển chúng từ thất bại
về chính sách sang thành công về chính sách.
Thành công một sự cải cách chính sách toàn diện cần phải có 5 yếu tố:
(1) Phải loại bỏ hoặc ít nhất cũng giảm đi những biến dạng chính sách
(2) Phải sửa chữa hoặc ít nhất cũng làm giảm những thất bại của thị trường như ngoại ứng, thiếu sự
đảm bảo về quyền sở hữu, thị trường không hoàn hảo hoặc vắng bóng thị trường…
(3) Phải đầu tư vào phát triển nhân lực và công nghiệp nông thôn để cung cấp đủ các loại công ăn
việc làm cho những nhóm người thiệt thòi…
(4) Phải áp dụng phương pháp phân tích chi phí-lợi ích đối với các dự án công cộng

16 16
(5) Phải xây dựng khả năng phân tích và khả năng của các định chế để thiết lập và thực hiện các chính
sách và dự án môi trường.
* Cải cách chính sách về rừng (Bài tập về nhà)
3. Kinh tế học ô nhiễm
3.1. Ô nhiễm môi trường là ngoại ứng
* Khái niệm về ô nhiễm môi trường:
- Theo quan điểm của các nhà khoa học môi trường: Ô nhiễm môi trường là hiện tượng làm thay đổi
tính chất môi trường vượt quá giới hạn cho phép, ta gọi giới hạn cho phép là tiêu chuẩn môi trường.
- Khái niệm ô nhiễm môi trường theo quan điểm kinh tế học phụ thuộc vào hai yếu tố: Tác động vật lý
của chất thải và phản ứng của con người đối với tác động ấy.
* Ô nhiễm môi trường là một dạng ngoại ứng: mà ở đó tác động được tạo ra bên trong một hoạt
động hoặc quá trình sản xuất hay tiêu dùng nào đó nhưng lại gây ra những chi phí không được tính đến cho
những hoạt động hoặc quá trình khác bên ngoài.
3.2. Mức ô nhiễm tối ưu
3.2.1. Ô nhiếm tối ưu tại mức cân bằng xã hội
- Giả định giảm sản lượng là cách thức duy nhất để giảm mức ô nhiễm:
Hình 2.7. Ô nhiễm tối ưu, trường hợp một ngành công nghiệp (độc quyền) P
O
O
Q
*
Q
M
W
*
W
M
Sản lượng Q
Ô nhiễm W

MB(D)
MEC
MC
MSC= MC + MEC
P
*
P
M
Tổn thất xã hội khi :
- Q
M
> Q
*

- P
M
< P
*
Ghi chú: MC: Marginal Cost; MEC: Marginal Externality Cost; MSC: Marginal Social Cost; MB: Marginal
Benefit
- Các nhà máy thuộc ngành công nghiệp sản xuất giấy xả chất thải làm ô nhiễm dòng sông, ảnh
hưởng đến thu nhập của ngư dân. Khi mức sản xuất tăng lên thì ô nhiễm cũng tăng lên theo. Tại mức sản
lượng Q
M
, doanh nghiệp đạt tối đa lợi nhuận, khi đó mức ô nhiễm tương ứng là W
M
.
- Các nhà kinh tế thì lại cho rằng, ô nhiễm tạo ra một loại chi phí sinh thái cũng giống như bất cứ chi
phí kinh tế nào khác. Vì thế khi tính chi phí xã hội của sản xuất như là tổng của chi phí cá nhân và chi phí
ngoại ứng, chúng ta đạt được mức hoạt động kinh tế tối ưu đối với xã hội tại điểm cân bằng của chi phí cận

biên xã hội với lợi ích cận biên xã hội. Mức hoạt động hiệu quả này sẽ tạo ra mức ô nhiễm tối ưu W
*
.
17 17
Với cách tiếp cận này chúng ta đã xem xét sự đánh đổi giữa hàng hoá kinh tế và hàng hoá chất lượng
môi trường, theo đó chúng ta cần giảm việc sản xuất và tiêu dùng hàng hoá kinh tế để có một chất lượng môi
trường tốt hơn.
Hình 2.8. Ô nhiễm tối ưu, trường hợp một doanh nghiệp
P
A
O
B
MEC
MNPB=P- MC
Sản lượng Q
Lượng thải
Q
*
W
*
Q
P
- Đối với bản thân các doanh nghiệp, điều kiện tối ưu cho việc gây ô nhiễm của doanh nghiệp khi tính
đến các chi phí của ô nhiễm chỉ ra rằng: Các doanh nghiệp chỉ nên thải ra một lượng ô nhiễm mà tại đó lợi
ích cận biên từ hoạt động gây ô nhiễm (tức là phần lợi ích tăng thêm cho doanh nghiệp nhờ việc sản xuất
thêm một lượng sản phẩm tương ứng với mức tăng một đơn vị ô nhiễm) phải bằng đúng với chi phí ngoại
ứng do đơn vị ô nhiễm đó gây ra, tức là tại mức sản lượng Q
*
và mức ô nhiễm tối ưu W
*

.
- Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì MNPB = MR – MC = P – MC = MEC hay P =
MC + MEC = MSC. Điều kiện P = MSC cho thấy giá cả đã phản ánh đầy đủ chi phí xã hội của sản xuất bao
gồm cả chi phí cá nhân và chi phí ngoại ứng. Điều kiện MNPB = MEC nói lên rằng tại mức hoạt động và ô
nhiễm tối ưu, lợi nhuận do hoạt động sản xuất đem lại là tối đa theo quan điểm xã hội.
Ghi chú: MR: Marginal Return (Doanh thu cận biên);
MNPB: Marginal Net Personal Benefit (Lợi ích cá nhân ròng cận biên): Là lợi ích tăng thêm
mà một doanh nghiệp đang gây ô nhiễm nhận được từ việc thay đổi mức độ hoạt động của nó bằng 1
đơn vị.
MEC là giá trị của một thiệt hại kinh tế tăng thêm gây ra bởi ô nhiễm do một đơn vị hoạt động
tăng thêm.
- Khi chưa tính đến chi phí môi trường, người sản xuất tối đa hoá lợi nhuận sẽ sản xuất tối đa tại Q
P

ở đó MNPB = 0 (MR = MC), tổng lợi nhuận là toàn bộ diện tích nằm dưới đường MNPB (Diện tích hình
OAQ
P
). Nếu tính đủ cả chi phí môi trường, rõ ràng tổng lợi nhuận sẽ giảm xuống còn bằng diện tích OAB
3.2.2. Ô nhiễm tối ưu tại mức cực tiểu hoá chi phí ô nhiễm
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế, hiệu quả kinh tế sẽ đạt được tại một mức ô nhiễm mà tại
đó :Tổng các chi phí môi trường = chi phí kiểm soát ô nhiễm + giá trị thịêt hại môi trường là thấp nhất.
Điều này có nghĩa là chúng ta cần xem xét sự đánh đổi tối ưu giữa chi phí và lợi ích của việc giảm ô nhiễm.
Một số khái niệm cần đi sâu tìm hiểu:
* Chi phí thiệt hại môi trường:
- Thiệt hại môi trường là những tác động bất lợi mà con người phải gánh chịu do môi trường bị ô
nhiễm và suy thoái.
18 18
- Thông thường người ta sử dụng hàm thiệt hại để thể hiện mối quan hệ giữa mức ô nhiễm và mức
thiệt hại. Các dạng hàm thiệt hại có thể biểu diễn theo nhiều cách:
+ Hàm thiệt hại theo lượng phát thải(Emission damage functions)

+ Hàm thiệt hại theo mức độ tích tụ (Ambient damage functions)
+ Hàm thiệt hại biên (Marginal damage functions)
+ Tổng thiệt hại (Total damage) là tổng thiệt hại tại mỗi mức phát thải.
- Trong phân tích này chúng ta sử dụng hàm chi phí thiệt hại cận biên (Marginal Damage Cost-MDC):
Đường chi phí thiệt hại cận biện biên có độ dốc đi lên từ trái sang phải thể hiện sự gia tăng nhanh của thiệt
hại khi lượng chất thải ngày càng nhiều.
Hình 2.9. Một số dạng đường thiệt hại cận biên tiêu biểuThiệt hại
Thiệt hại
O
W
o
W
1
A
MDC
Lượng phát thải
MDC
O
Lượng phát thải
(a)
(b)
Thiệt hại
Thiệt hại
(c)
(d)
* Chi phí kiểm soát môi trường hay chi phí giảm ô nhiễm:
- Chi phí giảm ô nhiễm là những chi phí để làm giảm lượng chất gây ô nhiễm được thải vào môi
trường hoặc làm giảm nồng độ các chất gây ô nhiễm môi trường xung quanh
19
Mức độ tích tụMức độ tích tụ

19
- Người ta cũng sử dụng hàm chi phí giảm ô nhiễm cận biên để phân tích. MAC (Marginal Abatement
Cost) thể hiện sự gia tăng trong tổng chi phí giảm thải để làm giảm một đơn vị chất thải gây ô nhiễm.Nhìn
chung đường MAC có hướng tăng lên từ phải qua trái, cho thấy chi phí giảm thải cận biên tăng dần.
- Tổng chi phí giảm ô nhiễm có thể được tính bằng diện tích nằm dưới đường MAC trong những
khoảng xác định khác nhau. Giả sử trong hình 2.10.a., nếu mức thải cuối cùng là W
1
thì tổng chi phí giảm
thải sẽ là diện tích W
1
AW
m.
Hình 2.10. Một số đường chi phí giảm ô nhiễm cận biên
Chi phí
Chi phí
Chi phí
MAC
MAC
W
1
W
m
Lượng thải
Lượng thải
Lượng thải
(a)
(b)
(c)
MAC
* Mô hình về sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí của việc làm giảm ô nhiễm bằng cách thể hiện cả hai

đường MAC và MDC trên cùng một đồ thị (Hình 2.11.)
Hình 2.11. Ô nhiễm tối ưu
W
1
W
*
W
2
W
m
Chi phí
Lượng thải
MAC
MDC
E
A
B
C
D
O
M
- Tại mức thải lớn nhất W
m
, chi phí giảm ô nhiễm (MAC) bằng 0 và tổng chi phí thiệt hại (MDC) là
lớn nhất (Diện tích OMW
m
). Nếu chúng ta bắt đầu thực hiện giảm thải, tổng chi phí giảm thải tăng, nhờ đó
lượng chất thải giảm và vì thể tổng chi phí thịêt hại cũng giảm. Nếu chúng ta tiếp tục giảm lượng chất thải về
0, khi đó lợi ích của việc giảm ô nhiễm là rất lớn, đồng thời chi phí giảm thải cũng rất lớn. Các nhà kinh tế
20 20

cho rằng tại mức này chúng ta phải bỏ ra một chi phí quá lớn để nhận được lợi ích nhỏ hơn rất nhiều so với
chi phí đó.
- Qua đồ thị ta có thể thấy: tại mức thải W
*
(khi đó MAC=MDC) thì tổng chi phí môi trường là nhỏ
nhất, bao gồm tổng chi phí giảm thải là diện tích tam giác W
m
EW
*
và tổng chi phí thiệt hại là diện tích tam
giác OEW
*
.
- Chúng ta có thể chứng minh hiệu quả này về mặt toán học. Tại mọi mức thải ta luôn có:
TEC = TAC + TDC
3.3. Định lý Coase và quyền tài sản
3.3.1. Phân định quyền tài sản và mặc cả
- Từ năm 1960, có một trường phái tư tưởng kinh tế gắn với Coase, trường phái này nhấn mạnh vào
sự quan trọng của quyền sở hữu tài sản và mặc cả giữa những người gây ô nhiễm và những người bị thiệt hại.
Trường phái này bác bỏ sự can thiệp của chính quyền thông qua thuế, trợ cấp hoặc tiêu chuẩn môi trường (sẽ
được nghiên cứu ở phần sau) và cổ vũ cho các biện pháp mặc cả trên thị trường được hỗ trợ bằng các quyền
sở hữu tài sản để đạt đến mức ô nhiễm tối ưu xã hội.
- Quyền tài sản hay quyền sở hữu là quyền được quy định bởi pháp luật (luật định) cho một cá nhân
hay một doanh nghiệp sử dụng, kiểm soát hoặc thu phí đối với một nguồn lực nào đó, họ được pháp luật bảo
vệ khi có sự cản trở họ thực hiện các quyền đó.
* Quyền tài sản thuộc chủ thể bị ảnh hưởng ô nhiễm
- Giả thiết bao gồm :
+ Quyền tài sản được phân định rõ ràng
+ Thông tin hoàn hảo nghĩa là tất cả các thông tin liên quan đến các bên đều rõ ràng.
+ Chi phí giao dịch bằng 0

Hình 2.12.Mô hình thoả thuận ô nhiễm
O
Q
*
Q
P
A
B
C
D
E
F
G
H
MEC
MNPB
- Khi chủ thể bị ảnh hưởng ô nhiễm có quyền tài sản thì chủ thể gây ô nhiễm (người sản xuất) sẽ là
người khởi xướng mặc cả.
- Trong trường hợp này MNPB trở thành đường lợi ích cận biên trong mặc cả và đường MEC trở
thành chi phí cận biên tối thiểu trong mặc cả của người sản xuất (hay người gây ô nhiễm). Lợi ích trong mặc
cả thuộc về người sản xuất (người gây ô nhiễm nhưng không có quyền tài sản). Chừng nào MNPB còn lớn
hơn MEC thì người sản xuất (người gây ô nhiễm) vẫn tiếp tục mặc cả để tăng sản lượng sản xuất. Mặc cả sẽ
21 21
kết thúc tại MNPB = MEC : Đây là điểm đạt mức ô nhiễm tối ưu (thoả mãn nguyên tắc cân bằng cận biên).
Tại các điểm sản lượng > Q
*
: mức đền bù của người sản xuất gây ô nhiễm sẽ cao hơn lợi ích cận biên của họ.
* Quyền tài sản thuộc chủ thể gây ô nhiễm :
- Khi quyền tài sản thuộc chủ thể gây ô nhiễm (người sản xuất) thì người sản xuất cứ sản xuất mà
không cần quan tâm đến tình trạng ô nhiễm, khi đó mức sản lượng sẽ ở mức tối đa là Q

P
.
- Trong trường hợp này người khởi xướng mặc cả chính là người bị ảnh hưởng (người không có
quyền tài sản). Quá trình mặc cả sẽ bắt đầu từ mức Q
P
. Đường MNPB là đường chi phí cận biên tối thiểu
trong mặc cả và MEC là đường lợi ích cận biên trong mặc cả của người bị ảnh hưởng ô nhiễm (nhưng không
có quyền tài sản). Lợi ích mặc cả thuộc về người bị ảnh hưởng ô nhiễm.
- Quá trình mặc cả sẽ kết thúc tại điểm MNPB = MEC. Đây cũng là mức ô nhiễm tối ưu.
→ Như vậy kết quả mặc cả không phụ thuộc vào quyền tài sản thuộc về ai vì dù có thuộc ai thì cuối
cùng quá trình mặc cả cũng kết thúc ở điểm cân bằng.
3.3.2. Định lý Coase
- Định lý : « Nếu quyền tài sản là hoàn hảo và chi phí giao dịch bằng không thì luôn có xu hướng đạt
được mức ô nhiễm tối ưu thông qua quá trình mặc cả bất kể ai (người gây ô nhiễm hay người bị ảnh hưởng ô
nhiễm) là người sở hữu tài sản môi trường ».
- Tuy nhiên hạn chế của định lý này là : (1) không có mặc cả khi quyền tài sản không được phân định
rõ ràng ; (2) chi phí giao dịch trên thực tế thường rất lớn ; (3) khó khăn trong việc xác định người gây ô
nhiễm và người bị ảnh hưởng (đối tượng can dự nhiều và có thể qua nhiều thế hệ, xác định quan hệ nhân quả
giữa người gây ô nhiễm và người bị ảnh hưởng) ; (4) khó khăn trong việc xác định MNPB/MAC và
MEC/MDC
3.3.3. Ngụ ý áp dụng quyền tài sản đối với vấn đề môi trường
- Những hạn chế của định lý Coase biện minh cho sự cần thiết phải có can thiệp của chính phủ và vai
trò của quyền tài sản đối với việc giải quyết ô nhiễm.
- Trong thực tế phương pháp quyền tài sản có thể dẫn đến mức ô nhiễm hiệu quả khi :
+ Quyền tài sản được phân định rõ ràng, có hiệu lực và có thể chuyển nhượng
+ Số người can dự tương đối ít
+ Quan hệ nhân quả rõ ràng
+ Thiệt hại dễ đo lường
+ Chi phí giao dịch thấp.
- Khi quyền tài sản mang tính chất công cộng nhiều thì phương pháp quyền tài sản ít có cơ may phát

huy hiệu lực.
3.4. Cơ sở kinh tế của các giải pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường (Các công cụ chính sách môi
trường)
- Các công cụ mà nhà nước sử dụng để giải quyết vấn đề môi trường có thể được chia làm 4 nhóm
theo sơ đồ:
Mệnh lệnh và kiểm soát (Command and Control- CAC)
Các công cụ kinh tế
Tăng cường quyền tài sản
(Property Reform)
22 22
Các công cụ khác
1. Giáo dục MT
2. Hoàn thiện luật pháp
3. Truyền thông môi trường.
1. Giao đất giao rừng
2. Tăng cường quản lý cộng đồng
1. Thuế
2. Phí xả thải
3. Trợ cấp
4. Giấy phép thải có thể chuyển nhượng
5. Hệ thống đặt cọc hoàn trả
6. Ký quỹ MT
7. Quỹ bảo vệ MT
8. Nhãn sinh thái
1. Tiêu chuẩn MT
2. Giấy phép ô nhiễm không thể chuyển nhượng
3.4.1. Tiêu chuẩn môi trường
* Tiêu chuẩn môi trường.
- Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn cho phép, được quy định dùng làm căn cứ để
quản lý môi trường (Luật Bảo vệ môi trường Việt nam)

* Các loại tiêu chuẩn môi trường :
- Tiêu chuẩn môi trường xung quanh :
- Tiêu chuẩn thải :
- Tiêu chuẩn công nghệ
* Kinh tế tiêu chuẩn môi trường :
- Quy định tiêu chuẩn thải :
+ Lý thuyết : Muốn tiêu chuẩn đạt hiệu quả phải thoả mãn nguyên tắc MAD = MDC.
Hình 2.13. Tiêu chuẩn phát thải cho hàm thiệt hại biên phi tuyến tính
MAC
MDC
E
T
E
L
E
*
E
M
$
Phát thải
E
0
+ Trên thực tế khó xác định MDC nên rất khó xác định điểm E
*
:
* Tiêu chuẩn không rủi ro: E
L

* Tiêu chuẩn rủi ro thấp: E
M


- Tiêu chuẩn đồng bộ và tiêu chuẩn cá nhân :
23 23
Một vấn đề trong thực tế là liệu tiêu chuẩn có nên áp dụng đồng bộ cho tất cả các trường hợp hay
thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh ?
+ Tiêu chuẩn đồng bộ không đạt hiệu quả xã hội vì :
→ MDC là khác nhau giữa các vùng : Lợi ích mất đi do tiêu chuẩn đưa ra không phù hợp (Ví dụ hình
2.14)
→ MAC là khác nhau giữa các nguồn.
Hình 2.14. Tiêu chuẩn đồng bộ không hiệu quả khi MDC khác nhau giữa các vùng
MDC
U
MDC
R
MAC
$
Mức thải cacbon monoxit (kg/tháng)
600
400
200
0
40
600
50
E
U
E
R
Tiêu chuẩn
+ Tiêu chuẩn cá nhân đạt hiệu quả xã hội nhưng cần rất nhiều thông tin để xác định và không thể thực

thi nếu có quá nhiều nguồn ô nhiễm.
* Tác dụng khuyến khích của tiêu chuẩn:
• Trong ngắn hạn: là hạn chế
• Trong dài hạn:
- Tiêu chuẩn công nghệ không khuyến khích tìm kiếm giải pháp rẻ hơn
- Tiêu chuẩn thải có khuyến khích hạn chế
3.4.2. Thuế
* Thuế Pigou:
- Theo cách tiếp cận ô nhiễm tối ưu thứ nhất là người gây ô nhiễm phải giảm sản lượng về mức tối ưu
xã hội. Để tạo động cơ kinh tế cho người gây ô nhiễm thay đổi mức sản lượng của mình cần phải buộc họ
chịu đầy đủ chi phí xã hội của việc sản xuất bao gồm cả chi phí cá nhân và chi phí ngoại ứng môi trường.
- Pigou (1877-1959 là GS kinh tế chính trị tại trường ĐH Cambridge từ 1908 đến 1944, ý tưởng về
thuế ô nhiễm được đề cập lần đầu tiên vào năm 1920 trong tác phẩm Kinh tế học phúc lợi) đã đưa ra ý tưởng
về việc đánh thuế đối với những người gây ô nhiễm.
- Đánh thuế thế nào để người sản xuất thực hiện mức sản lượng Q
*
:
+ Mục đích của người sản xuất là tối đa hoá lợi nhuận : MC = MR hoặc MC = P. Nói cách khác người
sản xuất sẽ sản xuất ở mức sản lượng mà tại đó MNPB = MR – MC = 0.
+ Nếu đánh thuế t cho mỗi đơn vị sản phẩm, người sản xuất sẽ tối đa hoá lợi nhuận khi MNPBt = MR
– MC – t = 0 hay MNPB – t = 0.
+ Để MNPB – t = 0 tại Q
*
cần đánh thuế t = MEC tại Q
*

Hình 2.15. Thuế Pigou đối với ngoại ứng môi trường
P
24 24
P

*
Q
*
Q
M
P
M
D= MPB = MSB
Sản lượng Q
MEC
S= MC
S
t
= MC + t
*
E
MSC= MC + MEC
t*
- Như vậy thuế Pigou là thuế tối ưu đánh trên mỗi đơn vị sản phẩm/ô nhiễm bằng thiệt hại ngoại ứng
cận biên ở mức ô nhiễm hiệu qủa xã hội/mức ô nhiễm tối ưu.
* Thuế thải/phí thải :
- Thuế/phí thải là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế của người sản xuất.
Hình 2.16. Xác định mức phí thải tối ưu
$
0
W
*
W
M
Mức thải W

MAC
MDC
F
*
- Như vậy, theo cách tiếp cận ô nhiễm thứ hai, mức phí tối ưu (hay mức phí có hiệu quả) sẽ được xác
định tại mức thải W
*
, tại đó F = MAC = MDC. Tuy nhiên do không có đủ thông tin về MAC và MDC nên
mức quy định có thể cao hơn hoặc thấp hơn F
*
, vì thế kết quả là mức thải cuối cùng không trùng với mức tối
ưu W
*
.
Hình 2.18. Hành vi của chủ thể gây ô nhiễm
F
O
W
*
W
M
MAC
Ô nhiễm > W
*
:
MAC < F
→ Xử lý
Ô nhiễm < W
*
:

MAC > F
→ Nộp thuế
Hình 2.19. Thuế phát thải hiệu quả xã hội
MAC
MDC
25 25

×