Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP-SO SÁNH PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ GIỮA ACB VÀ HSBC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.43 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO (World Trade Organization) và mở rộng
cửa với nền kinh tế toàn cầu. Các thành phần kinh tế nước ta có cơ hội vượt
“sông” để ra “biển lớn” thi thố tài năng, nhưng đòi hỏi phải có họ phải có nội lực
mạnh mẽ và đi đúng theo “hướng gió” thì mới có thể tiến nhanh, vượt qua sóng
to gió lớn. Ngân hàng thương mại là một trung gian có vai trò quan trọng trong
việc liên kết các thành phần kinh tế với nhau. Hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại có khả năng tác động rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà mà trong
đó vai trò điều tiết, hỗ trợ từ phía ngân hàng nhà nước là rất quan trọng.
Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt hiện nay, để đứng vững và phát triển ngay tại
thị trường tài chính trong nước đã là một thách thức không nhỏ đối với ban điều
hành của mỗi ngân hàng thương mại. đòi hỏi ở ban điều hành một tầm nhìn
chiến lược và một sự nhạy bén, thích nghi với sự thay đổi liên tục của nền kinh
tế. Nếu như các ngân hàng thương mại vẫn chỉ tập trung vào phát triển sản
phẩm tín dụng doanh nghiệp truyền thống và hoạt động theo cơ chế “quan liêu”,
phục vụ khách hàng theo kiểu “xin-cho” thì sớm muộn sẽ không còn chỗ đứng
trên thị trường.
Nhìn thấy tiềm năng phát triển các sản phẩm dịch vụ phục vụ cho đối tượng
khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường,
ACB là ngân hàng TMCP đi tiên phong tìm ra cho mình một hướng đi đúng- phát
triển hệ thống bán lẻ. Không chỉ phát triển lớn mạnh trở thành ngân hàng bán lẻ
hàng đầu Việt Nam hiện nay, ACB còn vạch ra một xu hướng phát triển phù hợp
cho các ngân hàng thương mại Việt Nam.
So sánh hệ thống bán lẻ giữa ngân hàng ACB và chi nhánh ngân hàng HSBC tại
Việt Nam – đây là một trong những tập đoàn tài chính hùng mạnh và lâu đời trên
thế giới – để khẳng định tầm nhìn và năng lực của các nhà điều hành, quản lý của
ACB nói riêng và của thế hệ trẻ Việt Nam nói chung; khẳng định việc phát triển
mảng bán lẻ là một xu hướng tất yếu cho các ngân hàng thương mại trong nước.
Nội dung chính của bài luận văn gồm có 5 chương:
 CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI (NHTM) TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP


 CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG BÁN LẺ ( HỆ THỐNG CÁC SẢN
PHẨM , DỊCH VỤ NGÂN HÀNG DÀNH CHO CÁ NHÂN)
1
 CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU (ACB)
 CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI- HSBC-TẠI VIỆT NAM
 CHƯƠNG V: SO SÁNH PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ GIỮA ACB VÀ
HSBC VIỆT NAM
CHƯƠNG I
I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI (NHTM) TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là một hệ thống ngân hàng đa năng,
kinh doanh tổng hợp được định hình và phát triển mạnh, đặc biệt là sau khi nước
ta gia nhập WTO (World Trade Organization) năm 2007.
1. Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại
A. Khái niệm
2
Theo quy định tại điều 20 khỏan 2 và 7 Luật về các tổ chức tín dụng (TCTD)
được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành :
“ Ngân hàng thương mại là một TCTD được thực hiện tòan bộ họat động Ngân
hàng và các họat động kinh doanh khác có liên quan”. Nói cách khác hơn,
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, là một TCTD thực hiện huy động
vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và
cho vay phát triển kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.
B. Đặc điểm của ngân hàng thương mại (NHTM)
a) NHTM là một doanh nghiệp đặc thù kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín
dụng. Các họat động của NHTM nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các dòng tiền tệ
phục vụ cho việc giao dịch, thanh tóan , phát sinh hàng ngày trong nền kinh tế,
đồng thời thông qua các họat động huy động vốn và cho vay. Các NHTM có khả

năng tạo tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mìnhthông qua các công cụ lãi
suất, tỉ giá. Vì vậy, NHTM là một mắt xích góp phần ổn định chính sách tiền tệ
quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế để tham
gia hội nhập khu vực và quốc tế như Việt Nam.
b) Sản phẩm mà ngân hàng kinh doanh và làm dịch vụ là hàng hóa tài chính
(financial goods). Nói cách khác, đó là tiền và các chứng từ có giá như là: cổ
phiếu, thương phiếu, hối phiếu, trái phiếu và tín phiếu. Đây là những sản phẩm
cao cấp của nền kinh tế thị trường vì vậy được vận hành theo một quy trình và
phải được điều hành bởi nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn nhất định, dựa
trên những cơ sở pháp lý do luật pháp quy định.
c) Trong quá trình họat động, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ trực tiếp cung
ứng cho người tiêu dùng khi co nhu cầu. Do vậy, họat động của ngân hàng dựa
vào thương hiệu và uy tín tạo ra đối với khách hàng. Cho nên, họat động của
NHTM là một chuỗi không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung
cấp và quảng bá tiếp thi hình ảnh của mình tới khách hàng.
d) Họat động của NHTM là cầu nối giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp,
những cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các cá nhân
có nhu cầu vay vốn. Các NHTM góp phần khong nhỏ vào việc giải quyết nạn
thất nghiệp, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư cũng như góp phần bảo
đảm vốn đối với các ngành kinh tế nhằm phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong một quốc gia.
C. Phân lọai ngân hàng thương mại (NHTM) theo cấu trúc vốn
Tại Việt Nam, các NHTM được phân lọai dựa trên tiêu thức về cấu trúc vốn bao
gồm: NHTM quốc doanh (thuộc tổ chức tín dụng nhà nước); ngân hàng thương
mại cổ phần (NHTMCP) ; NHTM liên doanh; chi nhánh NHTM nước ngòai;
NHTM có 100% vốn nước ngòai. Các NHTM quốc doanh trong quá trình họat
động theo chính sách của từng thời kỳ, có thể tiến hành cổ phần hóa thành
3
NHTMCP ( hoặc NHTMCP cũng có thể quốc hữu hóa thành ngân hàng quốc
doanh.)

a) Ngân hàng thương mại quốc doanh
Là ngân hàng thương mại do nhà nước thành lập, tòan bộ vốn họat động đều do
nhà nước đầu tư nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước. Bộ
máy quản trị của NHTM quốc doanh do thống đốc nhân hàng nhà nước Việt
Nam bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi có ý kiến của chính phủ. Điều hành họat
động của NHTM quốc doanh là tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc do hội
đồng quản trị bổ nhiệm và được thống đốc ngân hàng nhà nước chuẩn y.
b) Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP)
Là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, vốn họat động do các
cổ đông góp vốn. Trong đó, các cổ đông có thể là các doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế, các tổ chức tín dụng, và các cá nhân cùng góp vốn theo quy định
của pháp luật nươc CHXHCN Việt Nam. Riêng các tập đòan tài chính và ngân
hàng của nước ngòai chỉ được phép góp vốn tối đa 30% cổ phần tại các NHTM
Việt Nam.
c) Chi nhánh ngân hàng nước ngòai tại Việt Nam
Là tổ chức đại diện phụ thuộc của ngân hàng nước ngòai được phép mở tại Việt
Nam. Các chi nhánh này đựơc ngân hàng mẹ tại nước ngòai đầu tư vốn và bảo
đảm chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ mà luật pháp Việt Nam quy định.
Các chi nhánh ngân hàng nước ngòai đang họat động nổi bật tại Việt Nam hiện
nay là HSBC, Standard Chartered Bank, ANZ
d) Ngân hàng có 100% vốn nước ngòai
Là ngân hàng thành lập bằng 100% vốn của nước ngòai và họat động theo luật
pháp Việt Nam. Dạng ngân hàng này có tư cách pháp nhân, có quyền lập hội sở,
mở rộng chi nhánh và có đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ như các NHTM trong
nước theo luật pháp Việt Nam. Đến thời điểm 06/2008, chính phủ Việt Nam
đang gấp rút tiến hành hòan tất việc cấp phép thành lập ngân hàng có 100% vốn
nước ngòai tại Vietnam cho hai ngân hàng: HSBC va Standard Chartered Bank.
e) Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam
Là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của hai quốc gia khác nhau trên cơ sở
hợp đồng liên doanh. Ngân hàng liên doanh là một pháp nhân của nước Việt

Nam, có trụ sở, có tư cách pháp nhân, có đầy đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
f) Hệ thống NHTM tại Việt Nam
4
• 5 ngân hàng thương mại quốc doanh
• 37 ngân hàng thương mại cổ phần
• 6 ngân hàng liên doanh
• 28 chi nhánh ngân hàng nước ngòai
• 44 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngòai
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (SBV), những con số trên đây sẽ
tiếp tục gia tăng trong những năm tới vì SBV đang tiếp tục cấp phép thành lập
các NHTMCP, các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài. Như vậy, vốn điều lệ
của các ngân hàng sẽ phải tăng lên.
D. Phân lọai ngân hàng thương mại theo tiêu chí, chiến lược kinh
doanh
Sự phân lọai theo tiêu chí này chỉ mang tính chất tương đối. Nó hòan tòan phụ
thuộc vào chiến lược phát triển của moi ngân hàng trong từng thời kỳ và xu
hướng, tiềm năng phát triển của thời kỳ đó. Một ngân hàng trước đây có thể
được xem như là một ngân hàng bán buôn, nhưng khi đứng trước một tiềm năng
khá lớn về lượng khách hàng cá nhân, ngân hàng đó có thể đẩy mạnh họat động
bán lẻ như một chiến lược kinh doanh của mình.
a) Ngân hàng bán buôn
Là ngân hàng chủ yếu giao dịch và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho đối tượng
khách hàng là công ty, không giao dich với khách hàng cá nhân.
b) Ngân hàng bán lẻ
Là ngân hàng giao dịch và cung ứng các sản phẩm dịch vụ chủ yếu cho đối tượng
là các cá nhân.
c) Ngân hàng vừa bán buôn, vừa bán lẻ
Là lọai ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ cho cả khách hàng cá nhân lẫn
khách hàng là công ty. Đây là lọai hình ngân hàng thương mại phổ biến nhất.

2. Hội nhập toàn cầu hóa- Sơ lược cơ hội và thách thức cho hệ
thống NHTM Việt Nam
A. Cơ hội
Đối với khách hàng, việc cam kết WTO trong lĩnh vực tài chính ngân hàng (trang
16-18) sẽ mang lại cho họ quyền lựa chọn nhà cung cấp tài chính, ngân hàng phù
5
hợp. Bên cạnh đó, họ cũng được hưởng những dịch vụ ngân hàng có tiêu chuẩn
quốc tế với lãi suất và mức phí cạnh tranh.
Đối với các NHTM thì sẽ có được những cơ hội thu hút vốn, học hỏi thêm kinh
nghiệm, nâng cao công nghệ và trình độ quản trị ngân hàng. Sự cạnh tranh mới
sẽ mang đến cho các NHTM một động lực thúc đẩy khả năng cạnh tranh, nâng
cao hiệu quả hoạt động. Như vậy, việc cải cách cơ cấu và cơ chế của các NHTM
là một kết quả tất yếu để phù hợp với xu hướng mới.
Đối với viên chức trí thức tài năng, họ sẽ có thêm nhiều lựa chọn nơi làm việc
phù hợp với mức lương xứng đáng. Hơn nữa, trong một môi trường làm việc
chuyên nghiệp, họ có thể phát huy tối đa năng lực làm việc.
B. Thách thức
Các NHTM Việt Nam sẽ gánh chịu những áp lực cạnh tranh từ phía các ngân
hàng nước ngòai có năng lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý, kinh nghiệm
thị trường mà đáng chú ý là họ đem đến những sản phẩm dịch vụ đa dạng hơn và
nhiều tiện ích hơn.
Thị trường tài chính thay thế như là thị trường chứng khoán, thị trường bất động
sản, thị trường vàng…cũng sẽ gây áp lực cho kênh thu hút vốn đầu tư của các
NHTM.
Các NHTM Việt Nam có thể từng tự hào với sản phẩm dịch vụ truyền thống của
họ về tín dụng, thì sắp tới đây, các NHTM sẽ có thêm áp lực cạnh tranh từ các tổ
chức tín dụng khác như là các công ty tài chính, các quỹ đầu tư, các công ty bảo
hiểm và các công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện.
Quyền lực của khách hàng ngày càng tăng gây áp lực phục vụ cho các NHTM.
Tiêu chuẩn lựa chọn ngân hàng của họ ngày càng cao. Khách hàng trở nên rất

nhạy cảm với giá phí và lãi suất. Chuyện thuyết phục và thương lượng với họ
ngày càng khó hơn vì phần đông là họ có kiến thức về tài chính hơn trước. Do có
nhiều sự chọn như vậy, sự trung thành của khách hàng rất dễ bị xói mòn. Nguy
cơ mất khách hàng là rất cao.
Ngoài ra, việc gia tăng số lượng các NHTM, các tổ chức tín dụng, các ngân hàng
nước ngòai cũng sẽ dẫn đến nguy cơ chảy máu chất xám. Các ngân hàng nước
ngoài và các quỹ đầu tư sẵng sàng mang đến cho những nhân viên có năng lực
những lợi ích hấp dẫn, tạo điều kiện cho họ làm việc tốt hơn để thu hút nhân tài
về làm việc. Đây cũng là một áp lực cho các ngân hàng thương mại trong vấn đề
nhân sự.
6
CHƯƠNG II
II. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG BÁN LẺ ( HỆ THỐNG CÁC SẢN
PHẨM , DỊCH VỤ NGÂN HÀNG DÀNH CHO CÁ NHÂN)
1. Thực trạng về họat động bán lẻ của các NHTM Việt Nam
Trong những năm gần đây, dưới áp lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ ngân hàng
và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, các NHTM Việt Nam đ
bắt đầu quan tâm đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng những tiến bộ của khoa học
công nghệ vào khai thác thị trường bán lẻ. Nhiều ngân hàng đ đầu tư rất mạnh
cho công nghệ để tạo lập cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển dịch vụ, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, chủ động đối mặt với những thách thức
của tiến trình hội nhập.
Cc hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và linh hoạt hơn như tiết kiệm li
suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm rút li v gốc linh hoạt, tiết kiệm kết
hợp bảo hiểm Ví dụ như ngân hàng TMCP Á Châu đã áp dụng chương trình gửi
tiết kiệm kết hợp bảo hiểm nhân thọ. Theo thông tin từ ngân hàng nhà nước,
nguồn vốn huy động của các ngân hàng từ dân cư đ tăng mạnh và chiếm 35-40%
vốn huy động. Lượng kiều hối chuyển qua các ngân hàng ngày càng tăng (năm
2007 đạt khoảng 6,5 tỷ USD), góp phần tạo nguồn ngoại tệ đáng kể cho các ngân
hàng và tăng thu nhập từ phí thanh toán.

Các NHTM Việt Nam đ cĩ những bước cải thiện về năng lực tài chính, công
nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới kênh phân phối, hệ thống
sản phẩm dịch vụ. Nhiều loại hình dịch vụ ngn hng bn lẻ đ được triển khai thực
hiện như dịch vụ tài khoản, séc, thẻ, quản lý ti sản, tín dụng, cầm cố, tín dụng tiu
dng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các NHTM Việt
Nam cịn nhiều bất cập, cc ngn hng chưa xây dựng được phương án phát triển
dịch vụ ngân hàng bán lẻ một cách đồng bộ và hiệu quả.
Cc sản phẩm dịch vụ ngn hàng bán lẻ (NHBL) chưa phong phú, chưa đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại được triển khai chậm,
dịch vụ thanh toán thẻ cịn hạn chế về phạm vi sử dụng v chưa phát triển được sâu
rộng trong đại bộ phận công chúng: dịch vụ internet banking mới dừng lại chủ
yếu ở mức truy vấn thông tin, chưa cho phép thực hiện thanh toán, các công cụ
thanh toán không dùng tiền mặt như séc cá nhân gần như không được sử dụng,
tiện ích thanh tốn thẻ cịn hạn chế. Cc dịch vụ ngn hng phục vụ cho tầng lớp khch
hng cĩ thu nhập cao chưa được triển khai rộng ri như bảo quản tài sản, tư vấn tài
chính, tư vấn đầu tư. Kênh cung ứng dịch vụ truyền thống chưa đáp ứng được
yêu cầu phục vụ khách hàng cá nhân, các kênh phân phối dịch vụ hiện đại mới
chỉ được cung ứng tại một số ngân hàng, các phương thức giao dịch từ xa dựa
7
trên nền tảng công nghệ thông tin và điện tử chưa phổ biến. Mạng lưới các đơn vị
chấp nhận thẻ cịn ít, chủ yếu tập trung ở các thành phố và đô thị lớn, việc kết nối
hệ thống các máy ATM vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, do đó đ lm hạn chế
khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng.
Nhiều ngân hàng chưa có chiến lược tiếp thị r rng trong hoạt động ngân hàng bán
lẻ, hoạt động tiếp thị cịn yếu v thiếu chuyn nghiệp, tỉ lệ khch hng c nhn tiếp cận v
sử dụng dịch vụ ngn hng cịn ít. Chính sch khch hng km hiệu quả, chất lượng
phục vụ chưa cao, các NHTM Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản về dịch vụ
ngân hàng của các nhóm đối tượng khác nhau, thủ tục giao dịch chưa thuận tiện,
một số qui định và quy trình nghiệp vụ cịn nặng về bảo đảm an toàn cho ngân

hàng, chưa thuận lợi cho khách hàng.
Bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ
chuyên nghiệp về nghiệp vụ ngn hng bn lẻ. Trình độ công nghệ và ứng dụng
công nghệ của các ngân hàng cịn nhiều bất cập, nền tảng cơng nghệ thấp, khơng
cĩ khả năng phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Trình độ thiết kế tổng thể
cịn yếu, hệ thống ứng dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, các ngân hàng vẫn chưa có một
bộ phận chuyên trách nghiên cứu chiến lược phát triển công nghệ thông tin.
Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin chưa cao, các sản phẩm mới chưa nhiều,
vấn đề bảo mật thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, nguy cơ rủi ro cịn tiềm ẩn
với cả khch hng v ngn hng. Trên tầm vĩ mô, mặc dù môi trường pháp lý đ được
cải thiện đáng kể, nhưng các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu
được xây dựng trên cơ sở các quy trình thao tc giao dịch thủ cơng, mang nặng
tính giấy tờ v phức tạp trong qu trình xử lý, nhiều quy chế đ trở nn bất cập v
khơng bao hm hết cc mặt nghiệp vụ.
Trước áp lực cạnh tranh và nhiều ngân hàng nước ngoài đang có ý định thâm
nhập vào thị trường Việt Nam dưới hình thức ngn hng 100% vốn nước ngoài, các
NHTM Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ mà cụ thể là các họat động như huy động vốn, tín dụng cá nhân, dịch vụ
thẻ và chuyển tiền kiều ối.
2. Pht triển dịch vụ ngn hng bn lẻ - xu hướng tất yếu cho các NHTM
A. Tiềm năng và lợi ích từ các dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Việt Nam với dân số khoảng 85 triệu người với 60% dân số dưới 30 tuổi. Bên
cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao làm cho đời sống và mức thu nhập của
người Việt Nam ngày cng khá hơn, nền kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập
cũng tạo ra nhiều lọai hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việt Nam rõ ràng là một
thị trường đầy tiềm năng cho các họat động bán le, nếu các NHTM trong nước có
nguồn lực và khả năng khai thác.
Chỉ thị mới đây của Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành thực hiện trả lương qua tài
khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước là tin vui đối với
8

các ngân hàng thương mại. Chỉ thị của Thủ tướng nêu r, từ ngy 1/1/2008, cc đối
tượng lương từ ngân sách nhà nước; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhn quốc phịng, cơng nhn v lao động theo hợp đồng thuộc Bộ Quốc
phịng v Bộ Cơng an…
Từ ngày được trả lương qua tài khoản gồm: cán bộ, công chức, viên chức hưởng
1/1/2009, sẽ thực hiện trả lương qua tài khoản cho tất cả các đối tượng trên phạm
vi tồn quốc. Cách trả lương phổ biến nhất là mỗi công chức sẽ làm một thẻ ATM,
cuối tháng được chuyển vào tài khỏan, tiền thưởng, thậm chí cả tiền bảo hiểm y
tế cũng được chuyển khoản và khách hàng có thể rút tại bất cứ điểm đặt máy
ATM nào của ngân hàng. Việc thanh toán bằng thẻ ATM cũng có thể được thực
hiện tại hàng nghìn điểm chấp nhận thẻ, khách hàng thậm chí có thể gửi tiết kiệm
qua thẻ, thay vì phải trực tiếp thực hiện thủ tục tại cc ngn hng. Đây cũng chính là
cơ sở để các dịch vụ bán lẻ của ngân hàng dễ dàng tiếp cận đến khách hàng.
Các NHTM đang có xu hướng chuyển sang bán lẻ, tăng cường tiếp cận với khách
hàng là cá nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khi chuyển sang bán lẻ, các ngân
hàng sẽ có thị trường lớn hơn, tiềm năng doanh thu cao và có khả năng phân tn
rủi ro trong kinh doanh.
Với xu hướng này, các NHTM Việt Nam (dù là của nhà nước hay TMCP) đang
phấn đấu phát triển được hệ thống dịch vụ ngân hàng bán lẻ ngang tầm với các
nước trong khu vực về chủng loại, chất lượng và năng lực cạnh tranh, từng bước
nâng cao uy tín và thương hiệu của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên thị trường
tài chính quốc tế.
B. Những thách thức mới cho hoạt động bán lẻ
Đến nay hệ thống ngân hàng Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 1
ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng phát triển 37 ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP) nắm giữ khoảng gần 90% thị phần (cả tiền gửi và cho vay), trong
đó riêng các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 70%.
Phần các ngân hàng nước ngoài (hiện có 4 ngân hàng liên doanh, 28 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 43 văn phịng đại diện) chỉ chiếm khoảng dưới 10% thị
phần Cạnh tranh giữa cc NHTM trong nước cũng trở nên gay gắt, nhất là tại các

đô thị loại 1 và loại 2, nơi tập trung khách hàng có tiềm năng tài chính lớn và mật
độ ngân hàng tăng mạnh. Bên cạnh các ngân hàng mới thành lập, chi nhánh mới,
rồi phòng giao dịch của các NHTM thi nhau mọc lên như nấm trên các nẻo
đường. Thị phần cho mỗi ngân hàng ngày càng teo tóp, nhất là đối với một số
NHTMCP còn yếu kém. Các khách hàng sẽ có xu hướng tiếp cận với nhiều ngân
hàng và có nhiều sự lựa chọn, do đó yêu cầu đòi hỏi của họ cũng trở nên khắt khe
hơn. Sản phẩm dịch vụ của ngn hng không những phải cĩ mức gi cạnh tranh mà
còn phải cung cấp các sản phẩm dịch vụ đa dạng và có chất lượng. Làm sao để
giảm thiểu chi phí v nâng cao chất lượng phục vụ để tăng cường năng lực cạnh
tranh là một vấn đề không đơn giản đối với nhiều NHTM trong nước.
9
Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác động từ bên
ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, li suất giữa thị trường trong nước và thị
trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với
các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp
đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ
thiệt hại lớn hơn.
D lộ trình thực hiện cam kết WTO vẫn bảo hộ cho cc ngn hng Việt Nam đến năm
2010, sự xâm nhập của các ngân hàng nước ngòai mạnh về vốn, công nghệ và
tác phong chuyên nghiệp làm cho sự cạnh tranh càng thêm khốc liệt. Nếu các
ngân hàng này trước đây chỉ nhắm vào thị trường khách hàng doanh nghiệp, thì
giờ đây chỉ chủ yếu nhắm vào dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Ví dụ như ngân hàng
ANZ, Standard Chartered Bank, Deutsche Bank…
CHƯƠNG III
III. THỰC TRẠNG VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU (ACB)
1. Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Á châu (ACB)
A. Lịch sử hình thành và phát triển của ACB
NHTMCP Á Châu đã được cấp phép thành lập với tổng vốn điều lệ ban đầu là 20
tỉ đồng và chính thức đi vào hoạt động ngày 04/06/1993. Ngay từ những ngày

đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành NHTMCP bán lẻ hàng đầu
10
Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam vào thời điểm đó “ Ngân
hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ” là
một định hướng rất mới mẻ đối với các ngân hàng Việt Nam, nhất là đối với một
ngân hàng mới thành lập như ACB. Có thể nói, ACB là một ngân hàng tiên
phong trong việc phát triển trọng tâm các hoạt động bán lẻ.
B. Chiến lược
• Cơ sở cho việc xây dựng chiến lược hoạt động qua các năm là:
• Tạo nên sự khác biệt trên cơ sở hiểu biết nhu cầu khách hàng và hướng tới
khách hàng
• Xây dưng hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, hiệu quả và chuyên nghiệp
• Duy trì tình trạng tài chính ở mức độ an toàn cao và tối ưu hoá việc sử
dụng vốn cổ đông.
• Có chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực và đào tạo lực lượng nhân viên
chuyên nghiệp
• Xây dựng “văn hoá ACB” trở thành yếu tố tinh thần gắn kết toàn hệ thống
ACB đang từng bước thực hiện chiến lược tăng trưởng ngang và đa dạng hoá.
a) Chiến lược tăng trưởng ngang: thể hiện qua ba hình thức
 Tăng trưởng thông qua mở rộng hoạt động :
ACB đang tích cực phát triển mạng lưới kênh phân phối tại thị trường mục
tiêu, khu vực thành thị Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và phát triển các
sản phẩm dịch vụ mới để cung cấp cho thị trường đang có và thị trường
mới trong tình hình yêu cầu của khách hàng ngày càng tinh tế và phức tạp.
Ngoài ra, khi điều kiện cho phép, ACB sẽ mở văn phòng đại diện tại Hoa
Kỳ.
 Tăng trưởng thông qua hợp tác liên minh :
ACB đã xây dựng được mối quan hệ với các định chế tài chính khác vi dụ
như các tổ chức phát hành thẻ (Visa, MasterCard), các công ty bảo hiểm
(Prudential, AIA, Nhà Rồng), công ty chuyển tiền Western Union, các

ngân hàng bạn (Banknet), các đại lý chấp nhận thẻ, đại lý chi trả kiều
hối v v để thực hiện mục tiêu tăng trưởng. ACB cũng hợp tác với các
định chế tài chính và các doanh nghiệp để cùng nghiên cứu phát triển các
sản phẩm ưu việt cho khách hàng mục tiêu, mở rộng hệ thống kênh phân
phối đa dạng. Đặc biệt hơn, ACB có đối tác chiến lược là Ngân hàng
Standard Chartered nổi tiếng về các sản phẩm bán lẻ đang nổ lực trao đổi
chuyên môn cũng như công nghệ tiên tiến để nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình cho quá trinh hội nhập.
 Tăng trưởng thông qua hợp nhất và sáp nhập:
11
ACB từng bước xây dựnh năng lực tiếp nhận đối với loại tăng trưởng
không cơ học này và thực hiện chiến lược này khi điều kiện cho phép.
b) Đa dạng hoá
Đa dạng hoá là một chiến lược tăng trưởng khác mà ACB quan tâm thực hiện.
ACB có công ty TNHH Chứng Khoán ACB (ACBS), công ty Quản Lý Nợ và
Khai Thác Tài sản ACB (ACBA), công ty cho thuê tài chính ngân hàng Á Châu
(ACBL), ACB đang thành lập công ty quản lý quỹ. Với vị thế cạnh tranh và đã
được thiết lập khá vững trên thị trường. Trong thời gian sắp tới, ACB có thể xem
xét thực hiện chiến lược đa dạng hoá tập trung để từng bước trở thành nhà cung
cấp dịch vụ tài chính toan diện thông qua cá hoạt động sau đây:
 Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để
phối hợp cung cấp các giải pháp tài chính cho khách hàng.
 Nghiên cứu thành lập công ty thẻ (phát triển từ trung tâm thẻ hiện
nay), công ty tài trợ mua xe.
 Nghiên cứu khả năng thực hiện hoạt động dich vụ ngân hàng đầu tư.
C. Sản phẩm dịch vụ và chất lượng phục vụ:
a) Sản phẩm dịch vụ chính
• Huy động vốn (nhận tiền gửi của khách hàng) bằng đồng Việt Nam, ngoại
tệ và vàng
• Sử dụng vốn (cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh) bằng VND,

ngoại tệ và vàng: cho vay tín chấp và cho vay có tài sản đảm bảo.
• Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong và ngoài nước, thực
hiện dịch vụ ngân quỹ, chuyển tiền kiều hối trong và ngoài nước, chuyển
tiền nhanh, bảo hiểm nhân thọ qua vàng
• Kinh doanh vàng
• Phát hành thẻ debit & credit : ACB visa Electron/Master Card Electronic;
ACB visa Debit/ Master Card Dynamic, thẻ ATM.
ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và
được công nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực (i) huy động vốn, (ii) cho vay
ngắn hạn và trung , dài hạn, (iii) thanh toán quốc tế và (iv) cung ứng nguồn lực
tại Hội Sở.
b) Chất lượng phục vụ
ACB với hơn 200 sản phẩm dịch vụ được khách hàng đánh giá là một trong các
ngân hàng cung cấp sản phẩm dịch vụ phong phú nhất, dựa trên nền công nghệ
thông tin hiện đại. ACB vừa tăng trưởng nhanh vừa thực hiện quản lý rủi ro hiệu
12
quả. Trong môi trường kinh doanh nhiều khó khăn thử thách, ACB luôn giữ
vững vị thế của một ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam.
Cụ thể là khách hàng có thể tiết kiệm thời gian, đơn giản hoá thủ tục bằng các
nộp đơn trực tuyến đối với việc vay tiêu dùng, và các sản phẩm cho vay khác.
ACB sẽ xem xét hồ sơ với thời gian chậm nhất là 2 ngày.
Khách hàng muốn gởi tiền , Chỉ cần gọi điện thoại, cung cấp số CMND và thông
tin cần thiết, nhân viên của ACB sẽ chuẩn bị sẵng sàng để bạn rút ngắn thời gian
chờ đợi. Với số tiền lớn, nhân viên sẽ mang hồ sơ đến tận nhà để hướng dẫn và
giải thích cho khách hàng. Với tiêu chí “khách hàng là trọng tâm” trong mọi
phục vụ. ACB đã chinh phục và giữ chân các khách hàng của mình thành công.
Tốc độ tăng trưởng cao của ACB trong cả huy động vốn và cho vay cũng như số
luợng khách hàng suốt 14 năm qua là một chứng minh rõ nét nhất về sự ghi nhận
và tin cậy của khách hàng dành cho ACB. Đây cũng chính là cơ sở cho sự phát
triển của ACB.

D. Giá cả và các chương trình khuyến mãi:
Phí và lãi suất thay đổi theo tình hình kinh tế nhưng ACB luôn đảm bảo giá cả
cạnh tranh về mức phí so với nhiều ngân hàng thương mại có cùng chất lượng
phục vụ. Lãi suất cho vay cũng uyển chuyển trong giới hạn có thể để có thu hút
khách hàng.
Mỗi mùa, mỗi thời điểm, ngân hàng ACB luôn có những chương trình khuyến
mãi hấp dẫn. Ví dụ như mùa hè 2008 vừa qua, ACB đã thu hút khách hàng với
chương trình “hè vàng ACB” với tổng giá trị giải thưởng lên đến 8kg vàng ACB.
Ngoài ra, chương trình khuyến mãi còn theo dạng “gói sản phẩm” như là khi gửi
tiết kiệm một mức tiền nhất, thì phí chuyển tiền ra nước ngoài được giảm 5% trên
tiền phí, hoặc được vay với lãi suất ưu đãi, hoặc tặng bảo hiểm nhân thọ năm đầu
tiên.
Tất cả những chương trình khuyến mãi cũng như chính sách về giá cả lãi suất
cũng tạo nên sự khác biệt của ACB. Đây cũng là một trong những yếu tố giữ
chân khách hàng của ngân hàng này.
E. Mạng lưới kênh phân phối
Theo báo cáo thường niên năm 2007, hệ thống ngân hàng ACB bao gồm 157 chi
nhánh và phòng giao dịch tại các vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc để phục
vụ cho hơn 2.5 triệu khách hàng.
• Tại TPHCM: 1 Sở GD, 30 chi nhánh và 60 phòng GD
• Miền Bắc: 2 Sở GD (Hải Phòng, Hà Nội) , 7 chi nhánh và 22 phòng GD
• Miền Trung: 6 chi nhánh va 9 phòng GD
• Miền Tây: 5 chi nhánh và 3 phòng GD
• Miền Đông: 3 chi nhánh và 9 phòng GD
13
• 5,584 đại lý chấp nhận thanh toán thẻ của TTT ACB
• 360 đại lý chi trả của trung tâm chuyển tiền nhanh ACB- Western Union
F. Công nghệ:
• Năm 1999: ACB triển khai chương trình hiện đại hoá công nghệ thông tin
ngân hàng (Core banking), xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực

tuyến hoá và tin học hóa hoạt động giao dịch; và cuối năm 2001, ACB chính
thức vận hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi (The Complete Banking
Solution: giải pháp ngân hàng toàn diện) cho phép tất cả các chi nhánh và
phòng giao dịch nối mạng với nhau và giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở
dữ liệu tập trung.
• Năm 2005: ACB và Standard Chartered Bank (SCB) ký thoả thuận hỗ trợ kỹ
thuật toàn diện; và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB. ACB triển
khai giai đoạn hai của chương trình hiện đại hoá ngân hàng, bao gồm các cấu
hình (i) nâng cấp máy chủ, (ii) thay thế phần mềm xử lý giao dịch thẻ ngân
hàng bằng một phần mềm mới có khả năng tích hợp với nền công nghệ lõi
hiện nay, và (iii) lắp đặt hệ thống máy ATM
G. Nhân sự và đào tạo
Tính đến 31/13/2007, tổng số nhân viên nghiệp vụ của Ngân Hàng A’ Châu là
4,600 người. Cán bộ có trình độ Đại học và trên ĐH là 93%, thường xuyên được
đào tạo chuyên môn nghiêp vụ tại trung tâm đào tạo (TTĐT) riêng của ACB.
Theo ông Đỗ Minh Toàn, phó TGĐ ngân hàng ACB, bất cứ nhân viên được nhận
vào làm việc tại ACB đều phải trải qua 6 tuần đào tạo nghiệp vụ tại TTĐT ACB
và sẽ có 2 tuần học hỏi công việc thực tiễn với những nhân viên có kinh nghiệm
(mentors). Như vậy, nhân viên mới sẽ nhuần nhuyễn với công nghệ, quy trình và
học hỏi kinh nghiệm trực tiếp cũng như có điều kiện để tạo mối quan hệ với đồng
nghiệp ngay từ ban đầu.
Một số bạn học từ phổ thông của tôi hiện đang công tác tại ngân hàng ACB cho
biết là chương trình đào tạo của ACB mang đến cho họ sự tự tin ngay khi bắt
đầu nhận nhiệm vụ. Mỗi năm, họ đều được đào tạo chuyên sâu thêm nghiệp vụ
và trang bị thêm kiến thức cũng như thông tin bên ngoài để rút kinh nghiệm.
Ngay đến thời điểm này, chưa một ai trong số họ có ý định đi ngân hàng khác
làm việc bởi vì họ thích không khí làm việc và sự đãi ngộ công bằng tại ACB.
Từ 1997, ACB bắt đầu tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại dưới hình thức của
một chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo dài hai năm, do cac
giảng viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Thông qua chương

trình này, ACB đã nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hànhcủa một
ngân hàng hiện đại, các chuẩn mực và thông lệ trong quản lý rủi ro, đặc biệt
trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu ứng dụng trong điều kiện Việt
nam.
14
ACB được tập đoàn tài chính quốc tế (IFC) tài trợ một chương trình hỗ trợ đào
tạo nghiệp vụ cho nhân viên do ngân hàng Far East bank and Trust Company
(FEBTC) của philippines thực hiện. Các cấp điều hành đã được tham gia các
khoá học về quản trị ngân hàng của trung tâm đào tạo ngân hàng (Bank trainning
Center)
H. Cấu trúc vốn và cơ cấu tổ chức (Capital structure & organizational
structure)
a) Cấu trúc vốn của ACB
Trong khi phần lớn các NHTMCP trong nước có các cổ đông chủ yếu là các tập
đoàn kinh tế trong nước và các cá nhân thì NHTMCP Á Châu đã mạnh dạn cho
các tập đoàn tài chính nước ngoài tham gia đầu tư với tư cách là các cổ đông
chiến lược. Thành phần cổ đông nước ngoài giữ 30% bao gồm: Connaught
Investors (Jardine Matheson Group), Dragon Financial Holding Ltd, IFC của
World Bank, Standard Chartered Bank.
Cổ đông trong nước là 70% bao gồm các công ty trong nước và các cá nhân sở
hữu.
Với bước đi tiên phong này, ACB đã có được một nguồn vốn dồi dào cho việc
mở rộng hệ thống các sản phẩm và dịch vụ bán lẻ của mình. Bên cạnh đó, ACB
có thêm những cơ hội trao đổi cũng như học hỏi kinh nghiệm quản lý, chuyên
môn và công nghệ hiện đại. Sau bước tiến của ACB, một số các NHTMCP khác
cũng thay đổi cách nhìn và bước theo những bước thành công ACB. Trong đó
phải kể đến Sacombank và Techcombank. Sacombank đã cho tập đoàn Dragon
đầu tư làm cổ đông chiến lược, còn Techcombank đã bán cho tập đoàn HSBC
20% cổ phần.
Như một bằng chứng đầy thuyết phục, ACB, Sacombank và Techcombank là

những NHTMCP hàng đầu Việt nam theo tiêu chí sau: mạnh về vốn, quản lý và
khai thác thị trường một cách hiệu quả.
Trong khi đó, NHTMCP thí điểm đầu tiên của Việt Nam là Sai Gon Bank For
Industry and Trade (SGB) đã ra đời 20 năm nay vẫn không có những bước tiến
triển nào nổi trội. Các cổ đông chiến lược là các công ty trực thuộc thành uỷ
TPHCM (chiếm đến 70% cổ phần), còn lại là các cổ đông là cá nhân, nên đã hạn
chế tối đa việc tham gia của các tập đoàn tài chính nước ngoài. Công nghệ còn
lạc hậu vì vẫn đang triển khai Core Banking. Các sản phẩm dịch vụ còn nghèo
nàn, chưa phong phú. Phần lớn SGB còn chú trọng đến các khách hàng là công
ty và xem nhẹ mảng bán lẻ tiềm năng. Và như vậy, theo các tiêu chí đánh giá
trên thì SGB đã tụt hậu so với ba ngân hàng sinh sau đẻ muộn như ACB,
Sacombank và Techcombank.
b) Cơ cấu tổ chức
15
Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối
kinh doanh gồm các khối khách hàng cá nhân, Khách hàng doanh nghiệp và
Ngân quỹ. Các khối hỗ trợ gồm có khối Công nghệ – Thông tin, Giám sát điều
hành, Phát triển kinh doanh, Quản trị nguồn lực và một số phòng ban do Tổng
Giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Hoạt động kinh doanh của hội sở được chuyển giao
cho Sơ’ Giao Dịch TPHCM.
Việc tái cấu trúc này nhằm bảo đảm tính chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống; sản
phẩm được quản lý theo định hướng khách hàng và được thiết kế phù hợp với
từng phân đoạn khách hàng; quan tâm đúng mức việc phát triển kinh doanh và
quản lý rủi ro.
ACB đã có những bước phát triển nhanh, ổn định, an toàn và hiệu quả. Vốn điều
lệ ban đầu là 20 tỷ đến 09/2007 đã đạt trên 2,530 tỉ đồng, tăng 126.5 lần so với
ngày thành lập. Tính đến 06/2008, con số này đạ lên đến trên 5,800 tỉ đồng.
Tổng tài sản năm 1994 là 312 tỷ đồng. Tính đến 09/2007 tổng tài sản đạt trên
71,126 tỷ đồng, tăng 227.9 lần. Dư nợ cho vay cuối năm 1994 là 164 tỷ đồng,
đến 09/2007 đạt 25,376 tỷ đồng . Lợi nhuận trước thuế cuối năm 1994 là 7.4 tỷ

đồng, lợi nhuận trước thuế 9 tháng đầu năm 2007 là 1, 253 tỷ đồng.
 Việc tái cấu trúc lại cơ cấu tổ chức và mạnh dạn cho các tập đoàn nước
ngoài đầu tư vào nguồn vốn là một ví dụ rất điển hình cho sự khác biệt của
tầm nhìn chiến lược và sự nhạy bén của cấp quản lý trong xu hướng toàn
cầu hoá. ACB đã vạch ra một hướng đi đúng đắn cho các NHTMCP Việt
Nam.
I. Ghi nhận và đánh giá:
a) Đánh giá từ NHNN Việt Nam ( SBV)
Từ khi NHNN ban hành quy chế xếp hạng các tổ chức tín dụng cổ phần theo
chuẩn mực quốc tế CAMEL để đánh giá tính vững mạnh củ một ngân hàng, thì
liên tục 8 năm qua, ACB luôn xếp hạng A. Hơn nữa ACB luôn duy trì tỉ lệ an
toàn vốn tối thiểu là 8% theo thoả ước Basel II của Ngân hàng Thanh toán Quốc
Tế (BIS- Bank for International Settlements) mà NHNN áp dụng. Đặc biệt là tỉ
lệ nợ xấu trong những năm qua luôn dưới 1%, cho thấy tính chất an toàn và hiệu
quả của ACB.
b) Đánh giá từ các đinh chế tài chính quốc tế và cơ quan thông tấn về tài
chính ngân hàng.
• Năm 1997, ACB được tạp chí Euro Money chọn là ngân hàng tốt nhất
Việt Nam
16
• Trong 4 năm liền (1997-2000), ACB được tổ chức chuyền tiền nhanh
Western Union chọn là Đại lý tốt nhất khu vực Châu á.
• Năm 1998: ACB được chọn triển khai chương trình tài trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SMEDF) do Liên minh Châu Âu tài trợ
• Năm 1999: ACB được tạp chí Global Finance (Hoa Kỳ) chọn là ngân hàng
tốt nhất Việt nam.
• Năm 2001 và 2002, chỉ có ACB là NHTMCP hội đủ điểu kiện để cơ quan
định mức tín nhiệm Fitch Ratings đánh giá xếp hạng.
• Năm 2002: ACB được chọn triểnj khai dự án tài trợ các doanh nghiệp vừa
và nhỏ (SMEFP) do ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật bản (JBIC) tài trợ.

• Năm 2003: ACB đoạt giải thưởng Chất lượng Châu Á Thái Bình Dương
hạng xuất sắc của Tổ Chức Chất lượng Châu Á Thái bình Dương (APQO).
Đây là lần đầu tiên một tổ chức tài chính Việt Nam nhận được giải thưởng
này.
• Năm 2005, ACB được tạp chí The Banker thuộc tập đoàn Financial
Times, anh Quốc, bình chọn là Ngân hàng tốt nhất Việt Nam năm 2005
(Bank of the Year).
• Năm 2006, ACB được tổ chức The Asean Banker chọn là Ngân hàng bàn
lẻ xuất sắc nhất Việt nam (Best retail bank) và được tạp chí Euromoney
chọn là ngân hàng tốt nhất Việt Nam (Best Bank)
• Năm 2007, được bình chọn là Ngân hàng tốt nhất Việt Nam, đồng thời,
ông Đỗ Minh Toàn (Phó TGĐ ACB) đạt giải thưởng “nhà lãnh đạo trẻ
triển vọng của Việt Nam” năm 2007.
• Năm 2008: ACB được đánh giá là “ngân hàng bán lẻ được hài lòng nhất
năm 2008”
CHƯƠNG IV
IV. THỰC TRẠNG VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ CỦA CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI- HSBC-TẠI VIỆT NAM
1. Giới thiệu chung về tập đoàn HSBC
Tập đoàn HSBC là một trong những tổ chức dịch vụ tài chính và ngân hàng lớn
nhất thế giới với các chi nhánh tại châu Âu, châu Á Thái Bình Dương, Trung
Đông và châu Phi. HSBC định vị thương hiệu của mình qua thông điệp “ Ngân
hàng toàn cầu am hiểu địa phương”
Với trụ sở chính tại Luân Đôn, tính đến 03/2008, HSBC có trên 10,000 văn
phòng tại 84 quốc gia và vùng lãnh thổ, phục vụ trên 128 triệu khách hàng trong
đó, hơn 46 triệu khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Tính đến ngày
17
31/12/2007, tổng trị giá tài sản của tập đoàn là 2,345 tỉ đô la Mỹ (Annual report
2007)
2. Giới thiệu chi nhánh HSBC tại Việt Nam (HSBC Việt Nam)

Năm 1870, HSBC mở văn phòng đầu tiên tại Sài Gòn (tên gọi của TPHCM ngày
trước). Tháng 08/1995, chi nhánh TPHCM được cấp phép hoạt động và cung cấp
đầy đủ các dịch vụ ngân hàng. Thời điểm này, HSBC Việt Nam được nhìn nhận
như một ngân hàng bán buôn vì khách hàng chỉ nhắm vào các đối tượng là công
ty mà chủ yếu là các công ty nước ngoài tại Việt Nam.
Năm 2005, HSBC Việt Nam khai trương chi nhánh tại Hà Nội và lập văn phòng
tại TP Cần Thơ. Nhận thấy tiềm năng của nguồn khách hàng cá nhân tại Việt
Nam trong thời kỳ mở cửa, HSBC mở rộng mảng bán lẻ và tập trung thêm các
đối tượng khách hàng cá nhân, các hộ kinh doanh cá thể hoăc các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Với nguồn nguồn nhân lực và tài lực dồi dào và hơn 130 năm hoạt động và tìm
hiểu thị trường Việt Nam. HSBC Việt Nam trở thành đối thủ đáng ghờm trong
lĩnh vực bán lẻ tại Việt Nam. Hiện tại, HSBC là Việt Nam là CN ngân hàng
nước ngoài lớn nhất Việt Nam xét về vốn đầu tư, chủng loại sản phẩm, số lượng
nhân viên và khách hàng. Dự tính đến tháng 9/2008, HSBC Việt Nam sẽ hoàn tất
các thủ tục để thành lập ngân hàng có 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
A. Các dich vụ sản phẩm chính:
 Dịch vụ tài chính doanh nghiệp
 Dịch vụ tài chính ngân hàng cho các tập đoàn đa quốc gia
 Dịch vụ tiền tệ và thị trường vốn
 Thanh toán và Quản lý tiền tệ
 Thanh toán quốc tế
 Dịch vụ tài chính cá nhân: Dịch vụ tài chính trọn gói, thẻ tiêu dùng đặc
biệt là thẻ chip của HSBC có thể tránh rủi ro lấp cắp thông tin của khách
hàng.
Theo ông Huỳnh Bửu Quang, GĐ Dịch Vụ Tài Chính của HSBC Việt Nam thì
“các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) là trọng tâm chiến lược hoạt động của
HSBC vì HSBC am hiểu quan điểm và xu hướng kinh doanh của họ. HSBC thực
sự muốn hỗ trợ những doanh nghiệp này vì họ là những nhà tuyển dụng lớn nhất,
tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất vì thế họ đóng vai trò rất quan trọng trong nền

kinh tế chúng ta.” Nói cách khác hơn, các doanh nghiệp SMEs là một cầu nối
quan trọng đến một trong số nguồn khách hàng cá nhân tiêm năng có việc làm ổn
định từ các công ty này.
Đối với đối tượng là khách hàng cá nhân, HSBC cũng rất chú trọng khai thác với
phương châm phục vụ cho vay tiêu dùng và hỗ trợ tài chính cá nhân. Tuy nhiên,
18
theo ông Alain Cany, tân tổng giám đốc HSBC Việt Nam cho biết: “đối với dịch
vụ tài chính cá nhân, HSBC vẫn chưa cung cấp dịch vụ bán lẻ đến cho mọi khách
hàng là người Việt Nam vì những hạn chế về đối tượng này”. Thực tế, phần lớn
lượng khách hàng cá nhân của HSBC Việt Nam hiện nay là các chuyên gia, các
nhân viên người nước ngoài đang làm việc tại các công ty nước ngoài có trụ sở
tại Việt Nam. Đối tượng này có thu nhập cao, ổn định.
Với mảng bán lẻ, HSBC rất thành công trong các dịch vụ như tài trợ thương mại,
thanh toán quốc tế, chuyển tiền. HSBC cũng là ngân hàng nước ngoài đầu tiên
được phép kinh doanh tiền gửi ngoại tệ với lãi suất cao. Sản phẩm dịch vụ này
nhằm mang đến cho khách hàng khả năng sinh lợi cao hơn so với các loại tiền
gửi thông thường.
Đến với HSBC, hồ sơ của khách hàng sẽ hoàn tất trong vòng 48 tiếng vì thủ tục
rất nhanh gọn, dễ dàng và kỳ hạn cho vay linh hoạt. Khách hàng có thể vay gấp
10 lần thu nhập hàng tháng của mình.
Với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, HSBC mang lại cho khách hàng sự hài
lòng về chất lượng phục vụ. Là một trong những tập đoàn tài chính lớn nhất thế
giới, sản phẩm dịch vụ của HSBC luôn đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
B. Giá cả và khuyến mãi:
Hầu hết mức phí trên biểu phí của HSBC Việt Nam đều cao hơn so với các ngân
hàng trong nước. Tuy nhiên, với các khách hàng thân thiết, HSBC có thể áp mức
lãi suất cạnh tranh để giữ chân khách hàng.
HSBC không cạnh tranh bằng giá cả phục vụ mà bằng chất lượng phục vụ và
khả năng tư vấn tài chính của nhân viên. Khách hàng có thể trả phí hơi cao,
nhưng thường lại được tư vấn khả năng sinh lợi hoặc rủi ro sẽ gặp của khách

hàng.
Anh Huy, làm cùng cơ quan với tôi đã vay tiền mua căn hộ Phú Mỹ Hưng tại
HSBC, một lần chưa kịp trả tiền khi đến hạn, anh vừa phải trả lãi quá hạn vừa
phải chịu bị phạt thêm VND300,000 (tương đương USD18) tiền phạt. Tuy nhiên,
nhân viên đã tận tình phục vụ và tư vấn thêm một số khuyến mãi mà anh ta có thể
nhận khi vay tại HSBC. Bạn tôi bước ra với nụ cười trên môi măc dù vừa phải
trả mức phí mắc như thế.
Với dịch thanh toán quốc tế (TTQT), các ngân hàng khác chỉ lấy $25 phí mở
L/C nhưng với HSBC thì gấp đôi, nhưng bù lại, khách hàng sẽ tiết kiệm rất nhiều
phí chỉnh sửa. Chị Phương ở cty Duy Anh cho biết, khi nhân viên TTQT của
HSBC nhận bộ chứng từ, họ xem xét lại mọi thư’một cách rất chuyên nghiệp và
tỉ mỉ bảo đảm không sai sót. Họ còn tư vấn thêm cho chị những sơ hở trong việc
soạn thảo hợp đồng ngoại thương và rủi ro về tỉ gia. “Mắc thì mắc, chị vẫn chọn
HSBC”.
19
C. Mạng lưới phân phối:
Theo số liệu 06/2006 của HSBC Việt Nam thì HSBC đã xây dựng hơn 800 điểm
giao dịch tại Việt Nam. Việc kết hợp mua lại 20% cổ phần của Techcombank
cũng đã mở rộng thêm mạng lưới kênh phân phối cho chi nhánh ngân hàng nước
ngoài này. Tính đến thời điểm 06/2006, HSBC co trên 1400 khách hàng, trong
đó có 450 khách hàng sử dụng hệ thống ngân hàng điện tử.
D. Công nghệ:
Hệ thống HSBC net- Hệ thống ngân hàng điện tử toàn cầu có cơ chế bảo mật tối
đa, tương thích với định dạng dữ liệu chuẩn và co khả năng tích hợp với hệ thống
kế toán của khách hàng. Khách hàng có thể truy cập nhanh chóng và an toàn .
E. Nhân sự
Theo GĐ Dịch vụ tài chính cá nhân (DVTCCN) Ghislain Nguyễn Hiếu Nhân, khi
mới bắt đầu, bộ phận DVTCCN có 23 nhân viên và con số hiện nay là 300. Ông
Nhân cho biết, điều quan trọng nhất vẫn là huấn luyện đội ngũ nhân viên trẻ ngày
càng đông của HSBC. Hệ thống HSBC hiện nay có đội ngũ nhân viên đến từ 10

quốc gia khác nhau. Có 90% là người Việt Nam, trong đó, có 60% là nữ.
Mỗi thành viên đều được đào tạo tại trung tâm huấn luyện 8 tuần truớc khi làm
việc chính thức. Phần đầu của chương trình đào tạo là học luật thương mại Việt
Nam. Ông Nhân cho rằng, HSBC muốn đầu tư lâu dài tại Việt Nam thì phải nắm
rõ luật để mà làm việc hợp pháp, không luồn lách, không sai trái để gìn giữ uy tín
của ngân hàng. Sau khi học luật, các nhân viên sẽ được học cách tiếp xúc và
phục vụ khách hàng và sau đó, quan trọng nhất là được đào tạo nâng cao nghiệp
vụ chuyên môn.
Để thu hút nhân tài HSBC đ bắt đầu thực hiện chương trình quản trị vin tập sự
(Management Associate Program) v chương trình pht triển nghiệp vụ ngn hng
thương mại (Commercial Banking Development Program). Những chương trình
ny ph hợp với cc sinh viên xuất sắc mới tốt nghiệp, khả năng tiếng Anh tốt, có
định hướng làm việc lâu dài trong ngành ngân hàng, ưa thích những công việc
mang tính thách thức và chuyên môn cao, và sẵn sàng đảm nhiệm những vị trí
quản lí trong 3 đến 5 năm.
Ngn hng HSBC luơn theo đuổi một chính sách nhân sự dài hạn với mục đích phát
triển bền vững và mạnh mẽ. Đối với các nhân viên chủ chốt và có tiềm năng,
chúng tôi thường gửi họ đi học ở trường đạo quản lí của tập đoàn HSBC ở
London, tham gia các khóa đào tạô chuyên môn và phát triển kĩ năng ở trong
ngoài nước, làm việc và thực tập tại các văn phịng HSBC. Trong qu trình ny,
20
chng tơi cĩ thể pht triển nhn vin cĩ năng lực và thái độ làm việc chuyên nghiệp, và
sắp xếp cho họ vào vị trí phù hợp với khả năng cá nhân và định hướng của ngn
hng.
Qu trình pht triển nhn vin luơn địi hỏi 1 kế hoạch trung v di hạn, với nhiều bản
đồ công việc, và có sự cam kết của ban giám đốc ngân hàng.
F. Cấu trúc vốn:
HSBC Việt Nam là chi nhánh của tập đoàn HSBC có hội sở tại Anh Quốc. Do
vậy, cấu trúc vốn là 100% vốn pháp định ban đầu được rót từ ngân hàng mẹ.
Theo số liệu từ SBV, HSBC Việt Nam có 2 chi nhánh với vốn pháp định như

sau:
• HSBC tại TPHCM (22/03/1995): 15 triệu USD
• HSBC tại Hà Nội (04/01/2005): 15 triệu USD
Với nguồn vốn ngoại tệ dồi dào, HSBC Việt Nam có thị phần tín dụng ngoại tệ
tăng đáng kể. Tính đến 08/2008 dư nợ cho vay vốn bằng ngoại tệ đã tăng 77% so
với cùng kỳ năm 2007 (Theo Việt Báo ngày 02/09/2008)
G. Các thành quả đạt được:
• “Most preferred Bank” : Ngân hàng được yêu thích nhất, do bộ Kế Hoạch
và Đầu Tư bình chọn trong 7 năm liền và đăng trên Thời báo Kinh Tế Việt
Nam.
• “ Ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt nam” do Asian Banker bình chọn năm
2006.
21
CHƯƠNG V
V. SO SÁNH PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ GIỮA ACB VÀ
HSBC VIỆT NAM
ACB có đầy đủ năng lực cần thiết để có thể cạnh tranh với chi nhánh của ngân
hàng hàng đầu thế giới HSBC tại Việt Nam. Với một ngân hàng hàng đầu thế
giới đã phát triển từ rất lâu đời và một ngân hàng chỉ với 14 năm tuổi thì sự so
sánh này có lẽ hơi khâp khiễng. Nhưng với chỉ với mảng bán lẻ của hai ngân
hàng tại thị trường Việt Nam trong thời gian qua, một số thông tin được nhìn
nhận như sau:
A. Mạng lưới phục vụ:
Với một hệ thống gồm 157 chi nhánh và phòng giao dịch và 5.584 máy ATM
trên khắp đất nước, ACB hiện vẫn đang có lợi thế về sự thuận tiện cho khách
hàng hơn HSBC.
B. Chất lượng phục vụ:
Cả hai ngân hàng HSBC Việt Nam và ACB đều có chất lượng phục vụ rất tốt.
Giải quyết hồ sơ trong vòng 48 tiếng và công nghệ phục vụ trực tuyến rất hiện
đại giúp truy cập thông tin nhanh chóng và an toàn. Về phần tư vấn khách hàng

thì HSBC vẫn chuyên nghiệp và trội hơn so với ACB.
C. Sản phẩm thẻ:
Tuy rằng ACB có mạng lưới rộng lớn nhưng thẻ ATM của ACB chỉ rút được tại
máy ATM của ACB mà thôi. Tính năng của thẻ còn đơn điệu. Visa Debit là một
thẻ tín dụng kỳ quặc, phải bỏ tiền vào mới được rút ra. Thực chất thẻ này chỉ là
một thẻ Debit ở các nước phát triển.
Trong khi thẻ của HSBC với tính năng PLUS lại có thể rút ở bất cứ máy ATM
nào chấp nhận tính năng này măc dù phí rút tiền rất cao.
D. Nguồn nhân lực:
HSBC và ACB luôn chú trọng nguồn lực này và có chương trình đào tạo bài bản.
HSBC Việt Nam có chính sách giữ nhân tài một cách cụ thể về vật chất cũng như
sự đảm bảo thăng tiến. Khuyến khích nhân viên làm việc tốt hơn. HSBC trả
22
lương cao hơn so với mặt bằng chung của ngành ngân hàng nên thu hút nhiều
nhân tài từ các ngân hàng khác.
Đội ngũ quản lý của ngân hàng ACB đều trẻ và năng động, dám nghĩ và dám làm
và họ đã có những thành công đáng ghi nhận. Đội ngũ quản lý có tầm nhìn xa và
luôn là những người tiên phong trong việc đổi mới tư duy làm việc. Cụ thể là
ông Đỗ Minh Toàn, phó tổng giám đốc của ACB đã được công nhận là “nhà lãnh
đạo trẻ triển vọng năm 2007”.
ACB cũng là NHTM đầu tiên tại Việt Nam sẽ thay đổi mô hình quản trị mới.
Một số thành viên độc lập, không phải là cổ đông sẽ tham gia vào hội đồng quản
trị. ACB muốn bảo đảm quyền lợi cho tất cả các cổ đông và tách bạch giữa
những người những người chủ sở hữu, người quản trị và điều hành. Đội ngũ
quản lý tốt góp phần quan trọng trong sự thành công của ACB thời gian qua.
E. Chiến lược tiếp cận thị trường
Mỗi ngân hàng có chiến lược kinh doanh riêng và phương thức tiếp cận thị
trường khách hàng cá nhân khác nhau. ACB vừa co chính sách giá cả cạnh tranh
và chất lượng phục vụ tốt, trong khi HSBC có phí rất cao so với ACB. Sự vượt
trội cuả HSBC ở đây là kiến thức và kỹ năng tư vấn khách hàng. Với thị trường

khách hàng cá nhân ở việt Nam hiện nay thì chủ yếu là gửi tiết kiêm, vay tiêu
dùng và các sản phẩm thẻ…nhu cầu tư vấn vẫn chưa nhiều, nên tại thời điểm
này, ACB vẫn có lợi thế hơn. Trên thực tế thì ACB đã áp dụng đúng phương
pháp tiếp cận khách hàng suốt 14 năm qua.
F. Khách hàng
HSBC phục vụ chủ yếu cho các công ty đa quốc gia tại Việt Nam mà phần lớn đã
là khách hàng của HSBC từ trước. Ví dụ như các cty nước ngoài tại khu Công
Nghiệp Sóng Thần, Biên Hoà va Bình Dương…chỉ riêng cho vay các đối tượng
cá nhân là chuyên gia, nhân viên tại các công ty này. HSBC Việt nam đã có sẳn
một lượng lớn khách hàng với thu nhập cao và ổn định. Tâm lý chung của đối
tượng này thì HSBC có hình ảnh tốt hơn các ngân hàng trong nước. Do vậy, các
NHTM của Viêt Nam, rất khó tiếp cận với đối tượng khách hàng này.
Bên cạnh đó thì khách hàng tiềm năng trong nước lại rất lớn. Dân số Việt Nam
trẻ và 60% đang ở tuổi làm việc. Họ có việc làm ổn định nhưng thu nhập lại thấp
hơn nhiều so với đối tượng nói trên. ACB đã nhìn thấy tiềm năng này từ khi mới
thành lập nên ACB đã và đang khai thác rất thành công đối tượng khách hàng
này. Hiện nay, HSBC cũng thấy rõ tiềm năng này và đang có kế hoạch khai thác
“lấn sân”.
H. Cấu trúc vốn
23
Đây là lợi thế của HSBC Việt Nam trong vài năm gần đây khi tình hình kinh tế
chung của Việt nam phải đương đầu với nạn lạm phát, sư thiếu thanh khoản của
các ngân hàng thương mại Việt Nam, sự lên xuống bất thường của đồng đô la và
các chính sách bất cập từ phía ngân hàng nhà nước Việt Nam.
HSBC Việt Nam lại có một nguồn vốn rất dồi dào từ ngân hàng mẹ ở Anh Quốc
(được huy đông với lãi suất thấp hơn). HSBC Việt Nam có lợi thế hơn các
NHTM trong nước rất nhiều và cũng lấy đi một lượng lớn khách hàng vào thời
điểm này.
Các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam vừa qua đã găp rất nhiều khó khăn
trong 6 tháng đầu năm 2008. Thử làm một phép tính tương đối, tổng vốn huy

động của một ngân hàng TMCP bậc trung vào khoảng 36 ngàn tỷ đồng( tương
đương 2.25 tỉ đô la). Theo qui định của ngân hàng nhà nước (SBV), NHTMCP
này phải có tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 11%. Thời điểm đó, các NHTM đều thiếu tính
thanh khoản nên đua nhau tăng lãi suất huy động vốn. Lãi suất huy động trung
bình vào khoảng 17% nên khi nộp dự trữ bắt buộc cho vay với lai suất 21%/ năm
thì số tiền ngân hàng này có thể lãi chênh lệch từ huy động sang cho vay là rất ít.
Ngân hàng bán lẻ như ACB còn có các nguồn thu từ dich vụ khác như chuyển
tiền, DV thanh toán quốc tế…nên vẫn hoạt động tốt, nhưng rõ ràng, các ngân
hàng nước ngoài nói chung và HSBC Việt Nam nói riêng luôn có lợi thế hơn về
tính thanh khoản.
VI. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
A. Kiến nghị đối với Ngân Hàng NhàNước Việt Nam:
a) Ngân hàng nhà nước nên có những chính sách điều tiết phù hợp với nền kinh
tế và thực trạng hoạt động của ngành tài chính ngân hàng, tránh ban hành những
thông tư, quy định rồi rút lại huỷ bỏ. Ví dụ như thông tư số 03 về việc cho vay để
mua chứng khoán thời gian qua.
b) Ngân hàng nhà nước cũng nên nghiên cứu thấu đáo hơn trong việc điều tiết
nguồn vốn ngoại tệ. Việc yêu cầu các NHTM giảm tối đa lượng US đô-la mua
vào trong những tháng đầu năm 2008, khiến tỉ giá mua vào US đô-la giảm mạnh,
đã gây lao đao cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, ảnh hưởng đến nền
kinh tế chung cả nước.
c) Kiến nghị thêm với ngân hàng nhà nước việc nới lỏng và định nghĩa cụ thể
từng hạng mục quy định trong pháp lệnh ngoại hối . Hiện nay nhu cầu thanh toán
24
tiêu dùng ra nước ngoài của khách hàng ngày càng lớn. Dịch vụ thanh toán và
chuyển tiền là một dịch vụ có nguồn thu lớn trong mảng bán lẻ của các ngân
hàng. Ví dụ như ông A muốn nhờ bà con mua giúp một món hàng ở chợ trời bên
Pháp, giá chỉ vài chục Euro. Pháp lệnh ngoại hối yêu cầu phải có hoá đơn mua
bán, rồi các giấy tờ cần thiết để chứng minh. Thứ nhất, giấy tờ cần thiết cụ thể
gồm những giấy tờ nào? Mỗi cá nhân khi đọc pháp lệnh ngoại hối với quy định

chung chung như vậy sẽ hiểu một nghĩa khác và giấy tờ yêu cầu sẽ không đồng
nhất tại mỗi ngân hàng. Thứ 2, với món tiền nhỏ (dưới 100 euro), có cần chăng
một hóa đơn mua bán?
d) Vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước và chính quyền địa phương cũng
gây ra trở ngại trong việc hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Mỗi tỉnh
thành của chúng ta đều có trụ sở của ngân hàng nhà nước(NHNN). Khi muốn
mở thêm chi nhánh, NHTM phải xin phép NHNN tại tỉnh đó rồi phải thông qua
chính quyền địa phương. Kiến nghị ngân hàng nhà nước tại các tỉnh thành nên
có trách nhiệm thông qua chính quyền địa phương, và hoàn tất các yêu cầu của
địa phương đó khi nhận được đơn xin mở chi nhánh từ các NHTM. Ví dụ như
NHNN xem xét các yêu cầu về thủ tục cần thiết của địa phương rồi bổ sung luôn
vào quy định mở chi nhánh tại NHNN ở các tỉnh. Như vậy, các NHTM chỉ cần
đi qua “một cửa” là NHNN mà thôi.
e) Thiết nghĩ, tại sao NHNN Việt Nam lại phải mở chi nhánh ở các tỉnh? Cá
nhân tác giả cảm thấy việc đặt trụ sở bề thế tại các tỉnh thành là một lãng phí
không cần thiết. Nên chăng chỉ cần một NHNN tại Hà Nội và 1 VPĐD tại
TPHCM? Như vậy, các NHTM chỉ cần thông qua chính quyền địa phương mà
thôi.
B. Đối với ngân hàng TMCP Á Châu (ACB):
Những năm qua, ACB đã có những bước phát triển ngoạn mục. Trong bối cảnh
cạnh tranh của xu thế hoá khu vực, toàn cầu hoá lan toả như hiện nay, ACB sẽ
vững mạnh hơn và luôn giữ vững vị trí là ngọn cờ đầu của hệ thống NHTMCP
Việt Nam. Thế mạnh của ACB là quản lý rủi ro tốt và mạnh về mảng bán lẻ nên
phục vụ đối tượng khách hàng cá nhân. Việc phát triển thêm dịch vụ, sản phẩm
dịch vụ nên được quan tâm đầu tư nhiều hơn. Đào tạo chuyên môn và kỹ năng
bán hàng, tư vấn sản phẩm dịch vụ cho nhân viên cũng nên được chú trọng hơn.
a) Chính sách sản phẩm:
Hiện nay, ACB là ngân hàng có các sản phẩm dịch vụ rất phong phú so với các
NHTM khác, thế nhưng khi cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài thì việc
luôn nghiên cứu để cho ra đời các sản phẩm dịch vụ mới là một thế mạnh trong

cạnh tranh. Sau đây là một số sản phẩm mà tác giả muốn đề xuất với ACB
• Tiền góp tiết kiệm hàng tháng (annuity): Người Việt Nam chúng ta hầu
như luôn có ý thức cần kiệm, dành dụm tiền để phòng những rủi ro, hoặc
25

×