Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

BÀI TIỂU LUẬN-CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.06 KB, 22 trang )

GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
LỜI MỞ ĐẦU
Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị
Mác – Lênin. Giá trị thặng dư được C.Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng
hóa và số tiền mà nhà tư bản đã bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra
tư liệu sản xuất và thuê mướn lao động. Giá trị thặng dư chính là một bộ phận của
giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư
bản chiếm không. Trong bất kì xã hội nào cũng cần phải tìm cách tăng giá trị thặng
dư bằng cách áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng những tri thức, trí
tuệ vào trong quá trình sản xuất,… để phát triển kinh tế, nâng cao quyền lợi, chất
lượng cuộc sống cho con người.
Đối với Việt Nam, kết quả của hơn 100 năm đô hộ của thực dân Pháp và sự tàn
phá của đế quốc Mỹ đã làm cho nền kinh tế của Việt Nam trở nên cạn kiệt, nghèo
nàn lạc hậu, tài nguyên kiệt quệ, đất đai bị tàn phá nặng nề. Hơn nửa triệu người
dân đã ngã xuống, làng mạc ruộng đồng bị tàn phá.
Trước tình hình cấp bách đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định muốn cải
biến tình trạng lạc hậu của nước ta, muốn tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ của
Việt Nam thì không còn con đường nào khác chính là con đường công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), quá trình tiếp quản miền
Nam đã giúp điều chỉnh phương hướng và phương thức xây dựng đất nước Việt
Nam trở thành một nước công nghiệp hóa. Kể từ sau quá trình đổi mới (1985), Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội kết hợp với cơ
chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước và đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Và chính nhờ sự vận dụng các
phương pháp sản xuất, giá trị thặng dư vào quá trình sản xuất mà nền kinh tế Việt
Nam đã có bước phát triển theo chiều hướng tích cực, Việt Nam từ một nước có nền
kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lac hậu trở thành một nước có nền kinh tế đang phát
triển. Song song đó công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta cũng đã
có thêm nhiều bước chuyển mình rõ rệt, những bước tiến xa hơn trên con đường
chinh phục tầm cao mới, đặt ra niềm tin vững chắc về một quốc gia giàu mạnh hơn,
một Việt Nam phát triển hơn trong tương lai. Để hiểu rõ hơn vấn đề này nhóm em


sẽ nghiên cứu đề tài: ‘‘Vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào
công cuộc Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở Việt Nam’’. Với những hiểu biết còn
hạn chế nên trong quá trình làm tiểu luận không tránh khỏi những sai sót thế nên,
nhóm em rất mong nhận được sự giúp đỡ của cô để có thể tốt hơn trong quá trình
học tập.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 1
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 2
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
CHƯƠNG 1:
CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Để đạt được mục đích, các nhà đầu tư đã dùng nhiều phương pháp để tăng tỉ
suất và khối lượng giá trị thặng dư. Các nhà tư bản đã sử dụng khái quát hai
phương pháp là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương
đối. Gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách, phương thức làm tăng của cải, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao đông của công nhân trong điều
kiện thời gian lao động tất yếu không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên,
nên tỉ suất giá trị thặng dư tăng giúp kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã
hội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất, Mặt
khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí,
kĩ thuật đã tiến bộ làm năng suất lao động tăng lên nhanh chóng thì các nhà tư bản
chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội, tức là
bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Kích thích cá nhân và tập thể người lao động ra
sức sản xuất, cải tiến kĩ thuật, cải tiến quản lí sản xuất, tăng năng suất lao động và
làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
Các nhà tư bản đã kết hợp hai phương pháp để nâng cao trình độ bóc lột công

nhân làm thuê. Phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt,
làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó, là động lực
trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ
mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động, giảm giá trị của hàng hóa. Ngày nay,
việc tự động hóa sản xuất làm cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức
mới sự căng thẳng dây thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
1.2.CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, do vậy mà
các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động,
do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Giá trị thặng dư phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động làm thuê.
Để thu được giá trị thặng dư, có hai phương pháp chủ yếu: Phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 3
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều
kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng
phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản, khi lao động còn ở trình độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.
Với lòng tham vô hạn, các nhà tư bản đã tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày lao
động, nâng cao trình độ bóc lột sức lao động làm thuê. Nhưng một mặt, do giới hạn
tự nhiên của sức lực con người; mặt khác, do đấu tranh quyết liệt của công nhân đòi
rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên,
ngày lao động cũng không thể rút ngắn đến mức chỉ bằng thời gian lao động tất yếu.
Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao

động. Vì tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong
ngày, trong khi thời gian lao động cần thiết không thay đổi. Giả sử thời gian lao động
là 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động
thặng dư khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo
dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động
thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ
bóc lột tăng lên đạt 200% ( m' = 200% ). Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài
ngày lao động và phương pháp bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư
bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá
nhưng nó tồn tại trong cơ thể sống con người vì vậy mà người công nhân cần có
thời gian để ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ nhằm tái sản xuất sức
lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật
chất người công nhân đòi hỏi phải có thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần,
vật chất, tôn giáo của mình. Như vậy, về mặt kinh tế, thời gian lao động phải dài hạn
thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt qua giới hạn về thể chất và tinh
thần của người lao động. Vì thời gian lao động quá dài, do vậy mà đã dẫn đến phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao
động trong ngày. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương
pháp bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 4
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội
trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra
bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối. Việc tăng năng suất
lao động xã hội, trước hết ở các ngành sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng, sẽ làm cho
giá trị sức lao động giảm xuống do đó, làm giảm thời gian lao động cần thiết. Khi độ
dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động cần thiết giảm sẽ làm tăng thời

gian lao động thặng dư - thời gian để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà
tư bản.
Để làm sáng tỏ vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu ví dụ sau: Giả sử ngày lao
động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động
thặng dư, trình độ bóc lột 100%. Giả thiết rằng công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã
tạo ra được một giá trị bằng giá trị sức lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia
ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị thặng
dư trong trường hợp đó cũng không thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2
giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là
300% ( m' = 300% ). Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó
gia tăng tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm mọi
biện pháp để tăng năng suất lao động trong những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt.
Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội trong những ngành, những lĩnh vực
sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì giảm giá trị sức lao động và làm
giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho công nhân bằng cách tăng năng
suất lao động trong hai ngành là sản xuất tư liệu sinh hoạt và sản xuất tư liệu sản
xuất để tạo ra tư liệu sinh hoạt.
Phương pháp này được áp dụng trong đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư
bản, kỹ thuật phát triển làm cho năng suất lao động tăng lên.
Hai phương pháp trên đã được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để
nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
So sánh 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
 Giống nhau:
− Đều là cách mà các nhà tư bản sử dụng để bóc lột công nhân để tạo ra giá
trị thặng dư.
− Đều dựa trên cơ sở thời gian lao động thặng dư được kéo dài.
− Đòi hỏi độ dài ngày lao động nhất định, cường độ lao động và năng suất lao
động nhất định.

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 5
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
 Khác nhau: Ta có bảng so sánh sau:
Phương thức sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối.
Phương thức sản xuất giá trị thặng dư
tương đối.
Phương pháp sản xuất thực hiện bằng
cách kéo dài ngày lao động hoặc tăng
cường độ lao động.
Phương pháp thực hiện tăng năng
suất lao động.
Ngày lao động dịch chuyển về phía phải
đồng nghĩa kéo dài ngày lao động.
Ngày lao động dịch chuyển về phía trái
tức rút ngắn thời gian lao động tất yếu.
Áp dụng trong giai đoạn đầu của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khi kỹ
thuật còn thấp.
Áp dụng trong giai đoạn đại công
nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản khi
kỹ thuật phát triển hơn.
1.2.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ tiên tiến làm tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng
hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Là mục đích theo đuổi và là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy các nhà tư bản
cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, làm tăng năng suất lao động và giảm giá trị cá
biệt của hàng hóa.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương

đối. Vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động.
So sánh phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch và phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
 Giống nhau: Đều dựa trên cơ sở là tăng năng suất lao động.
 Khác nhau: Ta có bảng so sánh sau:
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
siêu ngạch.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tương đối.
Tăng năng suất lao động cá
biệt.
Tăng năng suất lao động xã
hội
Là khoản thu nhập của một số
nhà tư bản.
Là khoản thu nhập của toàn
bộ giai cấp tư sản.
Biểu hiện mối quan hệ giữa các
nhà tư bản với nhau đồng thời
nó cũng tác động tư bản với
công nhân.
Biểu hiện mối quan hệ giai
cấp tư sản và giai cấp công
nhân.
Mục đích của các nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất giá trị
thặng dư. Sản xuất giá trị thặng dư là động lực vận động của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. C.mác viết : Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu,
nhân giá trị lên, làm tăng giá trị do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 6

GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
dư. Để sản xuất giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản đã dùng mọi thủ đoạn để bóc
lột công nhân làm thuê như: kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động. Như
vậy nội dung của quy luật giá trị thặng dư là để thu được giá trị thặng dư một cách
tối đa, nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm thuê và tìm mọi cách, mọi thủ đoạn
để bóc lột họ. Trong giai đoạn hiện nay các nhà tư bản đã thực hiện cải tiến thiết bị
máy móc trong sản xuất để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng hoá.
Đồng thời thu hút đội ngũ kỹ sư có trình độ cao mà chức năng của họ chủ yếu là
đảm bảo sử dụng hiệu quả tất cả các nhân tố của sản xuất trước hết là sức lao động
chính vì vậy mà tăng giá trị thặng dư
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai
cấp tư sản đã không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức
lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt
đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời gian lao động trong ngày của
người công nhân trong điều kiên thời gian lao động cần thiết. Mặt khác sức lao động
là thứ hàng hóa đặc biệt ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi phải có thời
gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất và tôn giáo của mình.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu
sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ. Để rút
ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm ra một biện pháp, đặc
biệt là áp dụng tiến độ công nghệ vào trong quá trình sản xuất để nâng cao năng
xuất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị trường của sản phẩm.
Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được ngoài mức trung bình
do tăng năng suất lao động cá biệt, hạ thấp giá trị cá biệt so với giá trị xã hội. Giá trị

thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở chung, đó là đều
dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động nên giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Tuy vậy giữa chúng vẫn có sự khác nhau. Đó là giá trị thặng dư tương đối dựa
trên năng suất lao động xã hội còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên năng suất
lao động cá biệt. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 7
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
tương đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng cá biệt trở thành được áp dụng
phổ biến. Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch mang tính chất tạm thời. C.Mác gọi giá
trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Sự
khác nhau giữa chúng còn thể hiện ở chỗ: Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai
cấp các nhà tư bản thu được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản
được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện quan hệ của giai cấp công nhân
và toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp
cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt được trong cạnh tranh với các nhà tư bản
khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối quan hệ
giữa công nhân làm thuê và nhà tư bản mà còn thể hiện mối quan hệ giữa các nhà
tư bản với nhau. Như vậy giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao
động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị của hàng hoá.
1.4. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
GIÁ THẶNG DƯ
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư giúp chúng ta hiểu
được quá trình sản xuất giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái
điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật
ngang giá mới. Và cho thấy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra
ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm
không. Những kết luận trên được rút ra từ việc phân tích giá trị sản phẩm được sản
xuất ra. Giá trị sản phẩm được sản xuất ra gồm hai phần:

− Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo
toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ .
− Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi
là giá trị mới. Phần giá trị này lớn hơn giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng
dư.
Chia ngày lao động của công nhân thành hai phần:
− Phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá
trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động tất yếu.
− Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư.
Giúp ta nhận thấy mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã được giải
quyết: Việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời
lại không diễn ra trong lưu thông. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được
một thứ hàng hóa đặc biệt đó là hàng hóa sức lao động và sau đó sử dụng hàng
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 8
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
hóa đặc biệt này trong sản xuất, tức là ngoài lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng
dư cho mình.
Việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào đã vạch rõ bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản .
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 9
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
CHƯƠNG 2:
SỰ VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀO
CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
Ở thế kỷ XVII - XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu,
công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc.
Khái niệm công nghiệp hoá mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng
với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học - công nghệ. Do đó, việc

nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất
xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, những kinh nghiệm
trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và từ thực tiễn công nghiệp hoá ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VII - khoá VI và
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Công
nghiệp hoá - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2.1.1. Khái niệm và tính tất yếu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa
2.1.1.1. Khái niệm
Công nghiệp hóa là hoạt động mở rộng tiến bộ của khoa học kĩ thuật với sự lùi
dần của tính chất thủ công trong sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ, đem lại một
tính cách công nghiệp cho một hoạt động nào đó.
Ví dụ để làm rõ khái niệm trên: Trước kia, khi máy dệt chưa ra đời, người dân
dùng khung cửi để dệt, vì vậy chất lượng và số lượng đều phụ thuộc vào chủ quan
con người ( sức khỏe, tâm lí, công cụ,…). Ngày nay, người ta dệt vải bằng dây
chuyền có sự phân công và chuyên môn hóa cho từng công đoạn sản xuất, với quy
trình hiện đại và kỉ luật trình độ người lao động được nâng cao.
Hiện đại hóa là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại
diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của xã hội. Có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện
không chỉ ở nền kinh tế phát triển với nhịp độ tăng, sản phẩm tính trên đầu người mà
còn là ở đời sống chính trị tinh thần của xã hội tạo ra những điều kiện thực để đưa
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 10
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
xã hội đến trình độ văn minh, hiện đại góp phần thực hiện triệt để những giá trị
chung của nhân loại vào cuộc sống.
Công nghiệp hóa - hiện đai hóa là việc phát triển sản xuất và quản lí kinh tế xã

hội dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ của khoa học công nghệ nhằm tạo
ra năng suất lao động xã hội cao. Về bản chất công nghiệp hóa - hiện đại hóa có tính
khách quan:
− Là quy luật phổ biến của sự phát triển.
− Tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật.
− Hiện đại hóa các ngành kinh tế khác, khi thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại
hóa tức là áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào quy trình sản xuất nhằm tạo
ra sản phẩm.
− Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tức là công nghiệp
hóa - hiện đại hóa làm thay đổi công cụ lao động, tư liệu sản xuất theo hướng
hiện đại hơn nhằm nâng cao năng suất lao động.
− Chuyển đổi văn minh xã hội, tức là chuyển đổi nền văn minh nông nghiệp sang
nền văn minh công nghiệp, nói cách khác công nghiệp hóa làm văn minh xã hội
phát triển với chiều hướng ngày càng tiến bộ.
2.1.1.2. Tính tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước trước hết xuất phát từ mục
tiêu con đường đi lên xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã lựa chọn. Việc thiết kế thi
công và thực hiện thành công mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình
phấn đấu lâu dài, gian khổ nhưng nhất định phải làm. Nó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân
ta phải đồng tâm hiệp lực có đường đi nước bước rõ ràng có ý chí và bản lĩnh vững
vàng để sẵn sàng tạo lập nắm bắt và tận dụng thời cơ, khắc phục nguy cơ tụt hậu,
vượt qua thử thách đưa đất nước vượt lên sánh vai cùng các cường quốc năm
châu. Như Bác Hồ đã nói công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là mong ước
ngàn đời của ông cha ta, là sự giao phó lịch sử Việt Nam hàng nghìn năm văn hiến,
hiển hách chiến công cho thế hệ hôm nay tiếp nối và thực hiện bằng được.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước dù thắng hay bại đều bị thiệt
hại hết sức nặng nề về người và của, đã trở thành một trong những nguyên nhân
cho bước khởi động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại thành hai giai đoạn:
− Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa những năm 70. Giai đoạn

này sử dụng khoa học kĩ thuật để hiện đại hóa các công cụ sản xuất, phát triển
kinh tế theo hướng mở rộng và tăng thêm các yếu tố sản xuất. Thực chất đây là
giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lượng sản xuất về cả con người lẫn công cụ
sản xuất. Bình quân tăng trưởng kinh tế hằng năm ở các nước kinh tế phát triển
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 11
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
là 5,6%. Tốc độ tăng trưởng này được giữ nguyên trong vòng 20 năm kể từ năm
1950 đến 1970.
− Giai đoạn thứ hai bắt đầu vào những năm 70 trở đi và cho đến nay vẫn đang tiếp
tục phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với quy mô
lớn và toàn diện trên lực lượng sản xuất trên cơ sở áp dụng thành tựu khoa học
kĩ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử dụng những
phương tiện kĩ thuật về công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc thay thế hàng
loạt các thiết bị lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho năng suất và chất
lượng sản phẩm lên cao. Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng
sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây là thời kì mâu thuẫn của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất lên cao.
Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ dẫn
đến sự chênh lệch về kinh tế.
Trên thế giới hình thành ba nhóm nước: Đó là các nước cường quốc về kinh tế,
các nước phát triển và đang phát triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên các
mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của những nước đang phát triển là
đường lối đấu tranh hòa bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc cách mạng
về kinh tế.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kĩ thuật, lực
lượng sản xuất còn non chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa.
Để có cơ sở kĩ thuật của nền sản xuất lớn, không còn con đường nào khác là công
nghiệp hóa, cơ khí hóa cân đối và hiện đại trên trình độ khoa học kĩ thuật phát triển
cao. Muốn vậy công nghiệp hóa - hiện đại hóa là phát triển tuần tự và phát triển nhảy
vọt, cùng một lúc thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển từ lao động thô sơ

sang lao động tự động hóa có sự chỉ đạo của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Song dù muốn hay không công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay trước mắt nhằm
xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Song có lẽ là thiếu sót nếu chúng ta không quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Thực tiễn nước ta và kinh nghiệm một số nước đang phát triển cho thấy ngay từ
bước đầu tiên của việc hoạch định chiến lược và chương trình phát triển nhất thiết
phải đảm bảo tính đồng bộ giữa kinh tế xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế phải
xây dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa nâng cao đời sống nhân dân.
Do yêu cầu phát triển kinh tế hàng hóa quyết định: Sản phẩm của nền sản xuất
xã hội không chỉ nhằm thõa mãn nhu cầu xã hội mà chúng phải được đem bán,
chúng phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường, có khả năng giữ vững và mở
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 12
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
rộng trên thị trường…. Do vậy các sản phẩm của hàng hóa và dịch vụ phải được sản
xuất dựa trên một nền tảng vững chắc của cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, chi phí ở
trên một đơn vị sản phẩm phải thấp nhất. Trình độ của người lao động cao, kĩ thuật
hiện đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, khả năng thu lợi nhuận
lớn, tăng khả năng tích lũy cho nền kinh tế và tham gia vào quan hệ kinh tế quốc tế ở
mức độ cao hơn.
2.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Khác với những năm 1995 về trước, kể từ 1996 đến nay có những đặc điểm
mới về cơ chế kinh tế, lực lượng tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa, về định
hướng chiến lược, huy động vốn, yếu tố thời đại… trên cơ sở tổng kết thực tiễn và
căn cứ vào tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển của thời đại mới, Đại hội VIII của
Đảng xác định quan điểm công nghiệp hóa - hiện đại hóa như sau:
− Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ kinh tế đối ngoại. Dựa vào nguồn lực kinh tế là chính đi đôi với tranh thủ
tối đa nguồn lực bên ngoài trên cơ sở xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập khu

vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng
những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
− Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
− Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển
nhanh và bền vững.
− Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa - hiện đại hóa, kết hợp
công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại
ở khâu quyết định.
− Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ.
− Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh.
Bước vào thế kỉ XXI, trước những biến đổi to lớn của tình hình trong nước và
quốc tế, Đại hội XI nhấn mạnh thêm ba quan điểm:
- Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước.
- Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
- Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Để thực hiện những đường lối chủ trương và quan điểm đó cần phải có những
giải pháp, chính sách:
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 13
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
− Tạo nguồn vốn tích lũy cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa: Sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó mở rộng quy mô
huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện, tiền
đề quan trọng để công nghiêp hóa - hiện đại hóa được thành công. Vốn cho quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa có hai nguồn gồm có vốn tích lũy trong
nước và vốn từ nước ngoài.

− Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới: Khoa học
và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Khoa học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh, và tốc độ phát triển
kinh tế nói chung và công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói riêng.
2.2. VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀO
CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
Giá tri thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm thuê
tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động tư bản của giai cấp tư sản. Trong xã hội chủ
nghĩa, việc bóc lột sức lao động của người công nhân không còn nữa, nhưng không
có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn tại mà giá trị thặng dư được sử dụng vào mục
đích khác không giống như giai cấp tư sản. Đó là giá trị thặng dư là cơ sở, tiền đề để
xây dựng đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát
triển xã hội chủ nghĩa, vì con người không tách ra khỏi xu hướng xã hội, Việt Nam
vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây dựng
đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hóa là nhiệm vụ hàng đầu.
Đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Công nghiệp hóa là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc dân một nước từ trình
độ phát triển thấp sang trình độ phát triển cao hơn dựa trên cơ sở các ngành kinh tế
có trình độ khoa học hiện đại, với năng suất chất lượng hiêu quả kinh tế cao hơn
hẳn.
Hiện đại hóa là việc xây dựng và phát triển đất nước đạt trình độ của những
nước phát triển nhất của thời đại mà mấu chốt là đạt trình độ hiện đại hóa của nền
sản xuất xã hội. Chính bởi vậy mà công nghiệp hóa phải luôn đi đôi với hiện đại hóa,
tạo thành khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyến đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến với công nghệ,
phương tiện tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao, tạo ra sự đổi
mới trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 14

GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải tiến hành từng bước, phải có sự
đồng bộ giữa các bước, tránh nóng vội chủ quan sẽ đem lại những hậu quả đáng
tiếc. Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết bằng việc cơ khí hóa
nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ. Trong
đó, chú trọng xây dựng, phát triển công nghiệp và sản xuất tư liệu sản xuất, then
chốt là công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất. Khi phát triển công nghiệp sẽ tạo điều
kiện cho các ngành công nghiệp sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị, trong đó sản
phẩm được sử dụng nhiều nhất là các tư liệu sản xuất. Đối tượng của công nghiệp
hóa - hiện đại hóa là tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, các ngành công
nghiệp chế tạo tư liệu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì sản phẩm của ngành này sẽ
được ứng dụng vào ngành khác để sản xuất sản phẩm cấp cao hơn. Nên ngành
công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển của các ngành khác. Xã hội phát triển kéo theo quy mô, cơ cấu, tỷ trọng các
ngành công nghiệp phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh tiềm năng của đất nước.
Đó là trong thời kì đầu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa thì sản xuất công nghiệp
nhẹ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp nặng, bởi trong hoàn cảnh này sẽ dễ
dàng tận dụng được những nguyên liệu có sẵn và lao động có tay nghề không cao,
tuy nhiên phải không ngừng đầu tư phát triển để đưa ngành công nghiệp nặng tạo
tiền đề cho giai đoạn sau. Ở giai đoạn sau, công nghiệp nặng sẽ chiếm tỷ trọng lớn
hơn so với công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng sẽ là ngành công nghiệp chủ đạo
của nền kinh tế sử dụng những công nghệ lao động lành nghề, trình độ kĩ thuật cao.
Đồng thời, công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại hợp lý và hiệu quả hơn. Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng
dần, nhưng mỗi giai đọan khác nhau mà tỷ trọng công nghiệp lớn hơn hay tỷ trọng
dịch vụ lớn hơn, nhưng một tất yếu là tỷ trọng ngành nông nghiệp sẽ giảm đi trong
cơ cấu kinh tế. Kéo theo là lao động trong nông nghiệp sẽ giảm đi mà chuyển sang
ngành công nghiệp và dịch vụ. Thời kì này chúng ta phải tăng cường củng cố địa vị
chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến tới xác lập địa vị thống trị của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông
nghiệp trở thành xã hội công nghiệp, đó là cuộc cải biến trong mọi lĩnh vực. Để thực
hiện được điều đó nước ta phải dựa vào hai nguồn vốn là vốn trong nước và vốn
ngoài nước mà sử dụng vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài là quan trọng.
Chúng ta phải tận dụng mọi nguồn vốn trong nước để tạo ra sự phát triển bền vững,
cân đối nhưng nguồn vốn nước ngoài là chất xúc tác quan trọng đưa nền kinh tế
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 15
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
nước ta phát triển vượt bậc. Việc tích lũy nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân
được thực hiên trên cơ sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư
của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải
quyết vấn đề tích lũy vấn đề trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lí hóa sản xuất, mặt khác chúng ta
phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung phát triển công nghiệp, công
nghiệp tiêu dùng và hàng xuất khẩu, chỉ như thế chúng ta mới sử dụng tốt nguồn lực
sẵn có, tận dụng được lợi thế tương đối của nước ta. Chúng ta tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp, tổ chức quốc gia tham gia đầu tư tại nước ta, giúp nguồn vốn đầu tư
được bổ sung, đó là các nguồn như: FDI, ODA,… nguồn vốn vay của các tổ chức tài
chính quốc tế như: IMF, ADB,…. Khi các nguồn vốn này được đưa vào trong nước
thì sẽ cải thiện được rất nhiều cho tình hình kinh tế Việt Nam, như một luồng gió
mới, chất xúc tác không thể thiếu đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với mục đích là nâng cao nền sản
xuất xã hội, mà chỉ sử dụng các phương tiện công nghệ thì chưa đủ, một điều kiện
không thể thiếu là chúng ta phải sử dụng đội ngũ những người lao động có khả năng
vận hành, điều khiển máy móc công nghệ đó. Đó là những con người có tài đức,
ham học hỏi, thích sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của
Tổ quốc. Họ phải được trang bị tốt về tư tưởng chỉ đạo của Đảng, về kiến thức văn
hóa, được đào tạo thành thạo về kĩ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh
doanh, về điều hành kinh tế vĩ mô và toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn
lên ngang tầm với thế giới. Đó là nguồn lực của nền văn hóa công nghiệp hiện đại.

Từ đó thấy rằng việc quan trọng hàng đầu là chúng ta phải ưu tiên cho phát triển con
người, phải đầu tư cho giáo dục, coi đó là nhiệm vụ quốc sách hàng đầu của đầu tư
phát triển, phải tạo cơ cấu nhân lực đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực: khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, đào tạo cán bộ quản lí kinh tế, cán bộ trong các nghành kỹ
thuật, trong các nghành kinh doanh, đào tạo các công nhân lành nghề. Tiềm lực
khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa – hiện đại hóa, khoa học công
nghệ có vai trò ngày càng to lớn đến sự tăng trưởng nền kinh tế. Nếu quá trình tích
lũy, mở rộng đầu tư theo quy mô sản xuất được coi là tái sản xuất theo chiều rộng thì
phát triển khoa học công nghệ được coi là quá trình tái mở rộng sản xuất theo chiều
sâu, khoa học công nghệ là biểu hiện trình độ phát triển mỗi quốc gia. Khoa học
công nghệ có vai trò quyết định tới lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển nói chung,
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói riêng của các quốc gia.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 16
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
Theo thống kê thì khả năng cạnh tranh của Việt Nam còn thấp hơn so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, trình độ phát triển khoa học kĩ thuật ở nước ta
còn chậm hơn so với các nước trên thế giới, điều đó có nghĩa là mức độ đóng góp
của khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế còn hạn chế. Với tình hình đó thì việc
thay đổi khoa học công nghệ là một việc làm tất yếu của nước ta thì mới mong có
được sự thay đổi trong nền kinh tế. Để thay đổi công nghệ trong sản xuất là một điều
không hề dễ đối với một nền kinh tế nào, đặc biệt khi nước ta là một nước nông
nghiệp đi lên, nhưng từ khi nước ta mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại thì điều đó trở
nên dễ dàng hơn. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng rộng rãi và hiệu quả bao nhiêu thì
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước càng thuận lợi, nhanh chóng bấy
nhiêu. Thực chất của việc mở rộng quan hệ đối ngoại là để thu hút vốn đầu tư từ bên
ngoài, là tiếp thu nhiều kĩ thuật và công nghệ hiện đại, học hỏi được nhiều kinh
nghiệm điều hành, quản lí hiện đại để áp dụng vào tình hình thực tế của nước ta,
đồng thời cũng dễ dàng cho việc mở rộng thị trường giúp cho công nghiệp hóa- hiện
đại hóa được tiến hành nhanh hơn. Một trong những điều kiện không thể thiếu của
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa là sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của

nhà nước. Khi có sự lãnh đạo của Đảng thì chúng ta mới có thể đi đúng hướng mà
Đảng đã chọn lựa là phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà cao
hơn cái mà chúng ta đang hướng tới là chủ nghĩa cộng sản. Mặt khác, khi có sự
quản lí của nhà nước thì công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa mới được thực
hiện từng bước đúng quy luật và phù hợp với tình hình trong nước và thế giới, công
nghiệp hóa - hiện đại hóa mới diễn ra đồng đều và rộng khắp trên mọi vùng miền của
đất nước. Có thế thì người dân mới có thể tin vào chế độ, an tâm lao động và làm
việc, chỉ có sự quản lí của nhà nước thì các dịch vụ công được đảm bảo, trật tự công
bằng mới được thực hiện.
Khi nội dung và tiền đề của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã được vạch ra thì
phương hướng, qui mô, bước đi của tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải
được cân nhắc kĩ càng trên cơ sở thấu suốt các quan điểm của Đảng và nhà nước,
trong văn kiện Đại hội Trung ương 7 (khóa VII) đã nêu rõ như sau:
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh
tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng
suất lao động cao. Đối với nước ta đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế xã hội nhằm cải tiến một nền nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 17
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể
hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật
chất kĩ thuật, về con người và về khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực không ngừng tăng
năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững,
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến
bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng một nền
kinh tế mở cửa cả trong và ngoài nước, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối

ngoại kết hợp tinh tế với quốc phòng an ninh, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường.
Kiên trì chiến lược đẩy mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất
nước trong mỗi thời kì, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng
phát triển, lựa chọn các dự án đầu tư công nghệ.
Khai thác nhanh thế mạnh của cả nước của mỗi vùng, mỗi ngành, tập trung
thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm sớm đưa lại hiệu quả kinh
tế cao. Đồng thời quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu có chính sách, cơ chế giải
pháp thiết thực đối với những khó khăn, đẩy mạnh hợp tác phát triển, bảo vệ cho các
vùng và các thành phần dân cư đều có lợi ích và được hưởng những thành quả của
sự tăng trưởng.
Chú trọng qui mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít và thu hồi nhanh theo phương
châm lấy ngắn nuôi dài, xây dựng một số công trình có qui mô lớn và hiệu quả.
Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất và công nghệ hiện có
tập trung vào những khâu quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp
công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, đảm bảo tính tiên tiến của thiết bị và
công nghệ nhập khẩu, ưu tiên cho loại công nghệ tốn ít vốn, tạo nhiều việc làm trực
tiếp hoặc gián tiếp.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân. Đó là một cuộc cách
mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi phải
đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người sức của, chỉ có huy động sức mạnh và khả năng
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 18
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
sáng tạo to lớn của toàn dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của đảng, sự quản lí, điều
hành có hiệu quả của nhà nước thì mới đảm bảo thắng lợi.
Kết quả bước đầu mà chúng ta đã đạt được sau ngày đổi mới rất đáng mừng,
chúng ta có sự phát triển về mọi mặt cả về kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế.

Đặc biệt về kinh tế chúng ta đang đạt được sự phát triển không ngừng, với nhiều sự
cố gắng Việt Nam đang tiến hành làm thay đổi thể chế kinh tế sao cho phù hợp với
các nước trên thế giới.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 19
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
KẾT LUẬN
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không dựa vào hai phương
pháp sản xuất ra giá trị thặng dư đó chính là: Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối mà ta có thể làm tăng
tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
− Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong
điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra
bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối. Phương pháp này
được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn
ở trình độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.
− Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một
cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động
xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản
xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối. Phương
pháp này được áp dụng trong đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản, kỹ
thuật phát triển làm cho năng suất lao động tăng lên.
− Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất
lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường
của nó. Đây là mục đích theo đuổi và là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy các
nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị cá biệt của
hàng hóa. Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng
dư tương đối.

Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư giúp ta hiểu thêm
về: Sản xuất giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá điểm mà ở đó
giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới và
cho thấy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã được giải quyết: Việc chuyển
hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong
lưu thông. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hóa đặc
biệt đó là hành hóa sức lao động và sau đó sử dụng hàng hóa đặc biệt này trong sản
xuất.
Việc tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư mang lại cho nền kinh tế của Việt
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 20
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
Nam thông qua công cuộc CNH-HĐH những thành tựu, gặt hái được nhiều thành
công mới. Từ một đất nước có nền kinh tế lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, kém
phát triển, Việt Nam đã và đang dần dần thay đổi diện mạo của mình theo chiều
hướng mới, tích cực hơn đó chính là xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ việc áp dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật, các công trình sản xuất có qui mô lớn, những phương pháp tiên tiến trong
sản xuất, đội ngũ lao động giàu kinh nghiệm, chuyên môn cao cũng như những
phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại
hóa mà chúng ta đã nhận thấy rõ hơn từng bước vận động đi lên của nền kinh tế
nước nhà. Có thể nói, việc vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào
công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã đem lại cho đất nước, cho con người
Việt Nam một tương lai mới. Kinh tế đất nước phát triển, kèm theo đó chính là đời
sống vật chất, tinh thần của con người được cải thiện, được nâng cao hơn. Có lẽ để
có được những thành công như hôm nay chúng ta không thể nào quên được những
gian khổ, những khó khăn thử thách hết sức cam go mà toàn dân tộc đã phải trải
qua. Cũng chính vì thế, toàn thể con người Việt Nam phải đồng tâm, đồng lòng để cố
gắng phát triển hơn nền kinh tế nước nhà và để hướng đến mục tiêu, hoài bão

chung: Xây dựng đời sống con người ấm no, hạnh phúc cũng như xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, Tổ quốc vững bền, cường thịnh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật Hà Nội 2013.
2. PGS.TS Mai Quốc Chánh và PGS.TS Trần Xuân Cầu, Giáo trình kinh tế đầu tư
( năm 1998 ), Nhà xuất bản Giáo dục Khoa học kinh tế đầu tư.
3. Ts. Nguyễn Mạnh Hùng, Kinh tế xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng, tăng
trưởng hội nhập, phát triển bền vững, năm 2004.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 21
GVHD: TRƯƠNG THỊ CHUYỀN NHÓM: 01
4. Phạm Khiêm Ích – Nguyễn Đình Phan, Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt
Nam và các nước trong khu vực, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội, năm 1994.
5. Đỗ Hoài Nam và Vừ Đại Lược, Một số vấn đề phát triển kinh tế Việt Nam hiện
nay, Nhà xuất bản thế giới, năm 2005.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 22

×