Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó tới nền giáo dục Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.15 KB, 22 trang )

Trường đại học Bách Khoa Hà Nội
Khoa lí luận chính trị
Tiểu luận khoa học
Những nguyên lí cơ bản chủ nghĩa Mác-Lênin
Đề tài: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và sự ảnh hưởng của
nó tới nền giáo dục Việt Nam hiện nay
Người thực hiện: 1. Nguyễn Tuấn Dũng (SHSV: 20090550)
2. Nguyễn Đức Văn (SHSV: 20093232)
Lớp ICT C-K54
Hà Nội tháng 11 năm 2009
1
Phần mở đầu
Với địa thế là trung tâm của Đông Nam Á, phía Đông và
Tây giáp biển Đông, là cầu nối giữa đất liền và đại dương, Việt
Nam có vị trí thuận lợi để giao thương buôn bán, giao lưu hàng
hóa với các nước khác trên thế giới. và Ấn Độ có ảnh hưởng
rộng khắp. Chính vị trí địa lí và sự phát Theo chân các thương
lái là các nền văn hóa của khắp mọi miền trên thế giới, đặc biệt
là phương Đông, nơi mà tư tưởng và văn hóa Trung Quốc triển
của các nền văn minh, các triều đại đã thúc đẩy, ảnh hưởng, tạo
ra cơ hội lớn lao cho Việt Nam tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa,
tinh túy cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển nền văn hóa
riêng, nền văn hóa mang đậm tính dân tộc của người Việt Nam.
Do có vị trí địa lí thuận lợi, giàu có về tài nguyên thiên
nhiên, khoáng sản lại có một thị trường rộng lớn nên Việt Nam
từ xưa đã bị nhiều nước lớn trên thế giới để ý, tìm cách thôn
tính. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Việt Nam bị xâm lược
nhiều lần, trong đó, rất dễ nhận ra là tần suất xuất hiện của các
vương triều phương Bắc trong lịch sử Việt Nam một cách dày
đặc. Theo bước chân xâm lăng đô hộ của các vương triều phía
Bắc là nền văn hóa và tư tưởng. Có lẽ vì lí do đó mà Việt Nam


chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là hệ
tư tưởng Nho giáo.
Với mong muốn tìm hiểu, mở rộng tầm hiểu biết của bản
thân, đồng thời có hứng thú tìm tòi về vấn đề: “Tư tưởng giáo
dục của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó tới nền giáo dục Việt
Nam hiện nay”, nhóm em đã quyết định thể hiện quan điểm của
mình qua tiểu luận này.
2
Phần 1
Cái nhìn tổng quan về Nho giáo
Tư tưởng giáo dục của Nho giáo
I) Cái nhìn tổng quan về Nho giáo
I.1) Lịch sử và quá trình phát triển
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống
đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng
một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á
là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam
*) Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải
thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh
Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất
lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau
khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn
ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng
Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại
học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là
Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh
Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành
sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho
giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần),

Khổng giáo hay “tư tưởng Khổng-Mạnh”. Từ đây mới hình
thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính
học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho
giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh
đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín
điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
*) Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ
Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó
làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho
3
giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến
Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được
gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là
Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là
con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
*) Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ
Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc
đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà
Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên
tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di.
(Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho
học nên được gọi là “Trạng Trình”). Phương Tây gọi Tống nho
là “Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho
giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật
giáo) và các yếu tố “siêu hình” (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho
việc đào tạo quan lại và cai trị.
I.2) Nội dung cơ bản
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết

chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả,
điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu
mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua,
quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu
nhân”, những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau “quân tử”
còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm
chất tốt đẹp, phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo
đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải
bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người
cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết
phải “tự đào tạo”, phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, người
quân tử phải có bổn phận phải “hành đạo” (Đạo không đơn giản
chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các
nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành
chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo
đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra)
4
và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có
Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành
trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh)
I.2.1) Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam
tòng, tứ đức để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và
an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải
theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo.
Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ
thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
I.2.1.1) Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam
cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con),

phu phụ (vợ chồng).
Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các
vua chúa lập ra trên những nguyên tắc”chết người”
1. Quân thần: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất
trung” nghĩa là: dù vua có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp
dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì
cấp dưới không trung với vua. Trong quan hệ vua tôi, vua
thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.
2. Phụ tử: “Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu”
nghĩa là: cha khiến con chết, con không chết thì con không
có hiếu.
3. Phu phụ: “Phu xướng phụ tùy” nghĩa là: chồng nói
ra, vợ phải theo.
I.2.1.2) Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ
thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín.
1. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ
phải.
3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi
người.
5
4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng
sai.
5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
I.2.1.3) Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba
điều người phụ nữ phải theo, gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử”
1. Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải
theo cha.

2. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng.
3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
I.2.1.4) Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn
tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: công - dung - ngôn - hạnh.
1. Công: khéo léo trong việc làm.
2. Dung: hòa nhã trong sắc diện.
3. Ngôn: mềm mại trong lời nói.
4. Hạnh: nhu mì trong tính nết.
I.2.2) Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu
thân
* Đạt đạo. Đạo có nghĩa là “con đường”, hay “phương
cách” ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống.
“Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con,
đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung),
tương đương với “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng
hữu”. Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách
cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân
được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được
gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
* Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân - trí -
dũng”. Khổng Tử nói: “Đức của người quân tử có ba mà ta chưa
làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi
ngại, người dũng không sợ hãi” (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh
Tử thay “dũng” bằng “lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành bốn đức:
“nhân, nghĩa, lễ, trí”. Hán nho thêm một đức là “tín” nên có tất
6
cả năm đức là: “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Năm đức này còn gọi là
ngũ thường.
* Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”
và “đức”, người quân tử còn phải biết “thi, thư, lễ, nhạc”. Tức là

người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
I.2.3) Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải
làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công
thức hóa thành “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Tức là phải hoàn
thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt
đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim
chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị
là hai phương châm:
* Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng
tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi
Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân” – “Điều gì mình không muốn thì đừng làm
cho người khác” (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao
nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: “Người không có nhân
thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?”
(sách Luận ngữ).

* Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi
đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình.
“Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc
không thành” (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh
Công: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” – “Vua ra vua, tôi
ra tôi, cha ra cha, con ra con” (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh
sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ
đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
7
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo

đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể
chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền.
Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được
gọi là tiểu nhân (như dân thường).
II) Tư tưởng giáo dục của Nho giáo
II.1) Giáo dục con người
Nho giáo coi Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là những phẩm
chất đạo đức cao cả mà mọi người cần tu dưỡng đề tự hoàn thiện
mình
Nhằm thủ tiêu và đè bẹp ý thức phản kháng của giai cấp
“người bị trị”, nhằm bảo vệ trật tự xã hội phong kiến, các nhà
Nho đều khuyên răn, gieo rắc trong đầu óc những người bị trị tư
tưởng bằng lòng với cảnh nghèo, yên lòng với thân phận và địa
vị của mình. Chẳng hạn, trong sách Luận ngữ có đoạn: Tử Cống
hỏi đức Khổng Tử: “Như nghèo mà chẳng dua bợ, giàu chẳng
kiêu căng, người như vậy nhân phẩm thế nào?” Đức Khổng Tử
đáp: “Như vậy là khá? Song, chưa bằng người nghèo mà vui,
người giàu mà ưa việc lễ nghĩa”.
II.1.1) Giáo dục trong gia đình:
Nho giáo mong ước có được một xã hội ổn định, thái bình,
đại đồng, mọi người đều sống hòa mục, thân ái, bình đẳng. Mơ
ước về một xã hội như vậy, trong Luận ngữ, Khổng Tử nói:
“Vua chư hầu có nước, quan đại phu có nhà, hai hạng ấy chẳng
lo sợ cho nước nhà mình ít người, mà lo sợ rằng: tình hình và
phép tắc chẳng được đồng đều, chẳng lo sợ cho nước mình
nghèo khổ, mà lo sợ chẳng được an ninh. Là vì hễ đồng đều thì
chẳng nghèo khổ, người hòa thì dân số không ít, có an ninh thì
nước nhà không nghiêng ngả”. Xã hội lý tưởng được các nhà
Nho nêu lên còn là một xã hội mà ở đó, có vua thánh, tôi hiền,
mọi cái đều là của chung, mọi người đều có quyền lợi, có sản

nghiệp riêng và đều được chăm sóc.
8
Trong thiên Lễ vận, sách Lễ ký, Khổng Tử nói: “Sự thực
hiện của đạo lớn là, thiên hạ là của chung, tuyển chọn người
hiền và cử người tài năng, nói điều tín và tu sửa hòa mục. Cho
nên người ta không chỉ tôn kính cha mẹ mình, không chỉ thương
yêu con cái mình, còn khiến cho người già được sống trọn đời,
người trai tráng được sử dụng, trẻ thơ được lớn lên, người không
vợ, người không chồng, trẻ mồ côi, người không con người tàn
tật, tất cả đều được chăm sóc”.
Các nhà Nho coi một trong những nguồn gốc làm cho xã
hội rối loạn là sự rối loạn từ trong gia đình. Do đó, các nhà Nho
đều cho rằng muốn cho xã hội có trật tự, kỷ cương, thì trước hết
và cơ bản là gia đình phải có trật tự, kỷ cương, sao cho “cha ra
cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng”. Các nhà Nho chủ
trương giáo dục, giáo hoá mọi người trong xã hội theo những
nguyên lý đạo đức Chính danh, Tam cương, Ngũ thường, trước
hết và chủ yếu là nhằm mục đích trên. Cho nên cũng dễ hiểu tại
sao Nho giáo chú trọng, đề cao giáo dục, giáo hoá với phương
châm “Hữu giáo vô loại”, “Phú nhi hậu giáo”, coi giáo dục, giáo
hoá là biện pháp căn bản nhất để duy trì trật tự, kỷ cương trong
gia đình - tiền đề và điều kiện bảo đảm trật tự, kỷ cương, ổn
định xã hội.
Song những chủ trương ấy của các nhà Nho không phải là
nhằm đem lại một gia đình mà trong đó, mọi người đều bình
đẳng hoàn toàn. Trong cái gia đình ấy, người cha luôn có uy
quyền cao nhất, người chồng có quyền lớn hơn vợ. Có như vậy,
gia đình ấy mới được xem là gia đình có kỷ cương, trật tự và có
giáo dục. Đến Đống Trọng Thư thì quan niệm về một gia đình
có trật tự, kỷ cương lại càng trở nên chặt chẽ hơn, khắc nghiệt

hơn, trong đó quyền hành của người cha, người chồng là tuyệt
đối: “Cha bắt con chết con phải chết, con không chết là bất hiếu,
vợ phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của chồng”. Và khi coi
gia đình là tế bào của xã hội, nhà là gốc của nước, trật tự, kỷ
cương trong gia đình là tiền đề, điều kiện để duy trì trật tự, kỷ
cương của xã hội, rốt cuộc các nhà Nho đều chủ trương bảo vệ,
duy trì vinh viễn địa vị thống trị tuyệt đối của ông vua (Thiên
9
Tử), cố định hoá trật tự và cơ cấu giai cấp của xã hội phong
kiến. Rõ ràng, cái xã hội lý tưởng, theo quan niệm của các nhà
Nho, phải là một xã hội mà ở đó, đứng đầu nhà nước là Thiên
Tử và Thiên Tử là người có uy quyền cao nhất, dưới Thiên Tử là
vua chư hầu, dưới vua chư hầu là các quan đại phu, dưới quan
đại phu là thần dân trong thiên hạ. Nói cách khác, cái xã hội đó
phải luôn đặt trong vòng trật tự có lợi cho giai cấp thống trị và
vì vậy, kẻ nào phá hoại cái “trật tự” đó sẽ bị Thiên Tử trừng phạt
- đúng như các nhà Nho luôn luôn chủ trương: Lê nhạc, chinh
phạt đều từ Thiên Tử mà ra.
Khi đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng, cũng tất yếu,
trong học thuyết của mình, các nhà Nho đều mong muốn rằng
trong xã hội đó, bằng mọi cách, phải duy trì được nguyên tắc:
giai cấp địa chủ phong kiến mãi mãi là giai cấp “cai trị người”
và được người phụng dưỡng, còn các giai cấp, tầng lớp khác
mãi mãi “bị người cai trị” và phải nuôi dưỡng người. Đôi khi,
trước một thực trạng xã hội mà trong đó, mâu thuẫn giữa các
giai cấp và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị diễn ra gay
gắt, hầu như không thể điều hòa được, cũng như tình trạng rối
loạn xã hội hầu như không chấm dứt, các nhà Nho phải viện tới
“ý trời”, “mệnh trời”. Theo đó, cái trật tự đẳng cấp, phân vị ấy là
do trời sắp đặt, là ý trời và không thể đảo ngược được. Và

những hành vi hành động nào làm nguy hại đến trật tự đó là “có
tội với trời và dù có cầu đảo thì trời cũng không tha thứ”
(Khổng Tử). Như vậy, dù Nho giáo có đưa ra quan niệm về một
xã hội đại đồng lý tưởng thì chẳng qua cũng chỉ nhằm tô vẽ, bảo
vệ sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến cũng như quyền
lợi và địa vị thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm duy
trì vĩnh viễn sự bất công, bất bình đẳng. Xét đến cùng, quan
niệm của Nho giáo về một xã hội lý tưởng - thái bình, ổn định,
có trật tự, kỷ cương là hết sức nghiệt ngã, hết sức hình thức và
thù địch với cuộc sống, với con người, với nhân dân, là cản trở
và đi ngược lại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử.
10
II.1.2) Giáo dục trong xã hội
Trong quan niệm cua các nhà Nho, xã hội lý tưởng phải là
xã hội có giáo dục, mọi người phải được giáo dục, giáo hoá và
có đạo đức. Ở các nhà Nho, giáo dục, giáo hóa cũng là một
trong những biện pháp chính trị căn bản để xây dựng một xã hội
ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật tự, kỷ cương, và tạo ra những
con người có đạo đức, những mẫu người lý tưởng. Chính vì vậy
mà Nho giáo đặc biệt đề cao, coi trọng giáo dục, giáo hóa. Nhận
thức được vai trò của con người, của giáo dục, giáo hóa mà ngay
từ đầu Khổng Tử đã đưa ra chủ trương “Hữu giáo vô loại”, “Phú
nhi hậu giáo” với phương châm “Học không biết chán, dạy
không biết mỏi”. Tất nhiên, nội dung giáo dục, giáo hóa trước
sau vẫn là những lời dạy của các bậc Thánh hiền trong Tứ thư,
Ngũ kinh - những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của đạo làm
vua, đạo làm bề tôi và đạo làm người. Hầu hết các nhà Nho đều
khẳng định vai trò quyết định của đạo đức đối với việc hoàn
thiện con người và ổn định, hoàn thiện xã hội. Khổng Tử đã
từng nói: “Muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng

đức hạnh, muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì
chẳng những dân biết xấu hổi họ lại còn cảm hoá mà trở nên tốt
lành”
Song, để làm cho dân có đức hạnh và tuân phục, để làm
tròn trách nhiệm là người “thay trời trị dân” , “cha mẹ của muôn
dân”, để xứng đáng với cương vị là người giáo hoá, “dưỡng
dân”, theo các nhà Nho, người cầm quyền, kẻ cai trị trước hết
phải là người được giáo dục, tự mình giáo hoá và có đạo đức
Khổng Tử nói: “Này, nếu người bề trên chuộng lễ, thì dân chẳng
dám bỏ niềm cung kính. Nếu người bề trên háo nghĩa, thì dân
chẳng bội lẽ công chính. Nếu người bề trên biết tín thật, thì dân
chẳng dám sai ngoa trong tình giao ước. Nếu nhà cầm quyền đủ
lễ, nghĩa, tín như vậy, thì dân chúng từ bốn phương xa sẽ sai con
đến để phục dịch mình. Cần chi phải học nghề cày cấy”.
Các nhà Nho, tiêu biểu là Khổng Tử và Mạnh Tử, coi việc
dân đủ ăn, đủ mặc là một công việc hàng đầu để trị nước, là một
trong những tiền đề cho sự ổn định của xã hội, cho việc giáo hoá
thành công (có hằng sản mới có hằng tâm). Nhưng các nhà Nho
11
vẫn coi công việc giáo dục, giáo hoá là nhiệm vụ chính trị cơ
bản nhất của nhà cầm quyền, coi việc dân có đủ đức quan trọng
hơn việc họ có đủ ăn, coi Nhân, Nghĩa cần thiết hơn nước và
lửa. Khổng Tử đã từng khuyên nhà cầm quyền không chỉ phải
giúp dân làm giàu, mà điều chủ yếu và cơ bản là khi dân đã giàu
thì phải giáo hoá họ. Còn Mạnh Tử thì coi việc giáo hoá để dân
có đạo đức là công việc quan trọng nhất của kế sách giữ nước.
Bởi lẽ như ông nói: “Thành quách chẳng hoàn bị, đồ kinh pháp
chẳng nhiều, chẳng phải là tai nạn trong nước vậy, ruộng nương
chẳng mở mang, của cải chứng tích tụ chẳng phải là sự nguy hại
trong nước vậy Người trên không có lễ giáo, người dưới không

có học thức, kẻ dân tàn tặc đấy lên, nước mất đến nơi”. Tiếp tục
tư tưởng này của Mạnh Tử, nhà tư tưởng của chế độ phong kiến
tập quyền Đặng Trọng Thư cũng nói: “Kìa muôn dân chạy theo
cái lợi, như nước chảy xuống chỗ thấp, nếu không lấy giáo hoá
mà ngăn chặn thì lại không thể giữ lại được. Thế cho nên, giáo
hoá xây dựng được thì gian tà đều ngừng lại và việc ngăn ngừa
mới hoàn thành, giáo hoá mà bị phế bỏ thì gian tà đua nhau mà
nảy ra, hình phạt không kể xiết, việc ngăn ngừa bị hỏng. Các
bậc vua đời xưa hiểu rõ điều đó, thế cho nên họ cứ ngồi yên mà
trị thiên hạ, không ai không coi việc giáo hoá là việc lớn”.
Nội dung giáo dục của Nho giáo, trước sau cũng chỉ là
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản trong Tam cương,
Ngũ thường. Nho giáo đùng Tam cương, Ngũ thường để giáo
hoá mọi suy nghĩ, hành động của con người đúng với danh
phận, địa vị của mình. Có như vậy, con người mới có đạo đức,
xã hội mới ổn định, mới có trật tự, kỷ cương. Tất nhiên, xét về
tính chất giai cấp và mục đích chính trị, tư tưởng giáo dục, giáo
hoá ở Nho giáo là nhằm bảo vệ và duy trì sự tồn tại vĩnh viễn
của chế độ phong kiến. Và vì vậy, ở Nho giáo, giáo dục, giáo
hóa còn là một phương tiện chính trị, một biện pháp cai trị. Cho
nên, không phải ngẫu nhiên, từ thời Tuân Tử về sau, các chính
quyền phong kiến đều rất coi trọng và khuyến khích giáo dục,
khoa cử. Đồng thời, với việc đề xuất chủ trương chọn người ra
làm quan theo phương châm “Học nhi ưu tắc sĩ”, thì trên thực tế,
Nho giáo đã đòi hỏi người cầm quyền không chỉ là người có đạo
đức mà còn phải là người có tri thức Nho giáo.
12
Như vậy, trong quan niệm của các nhà Nho, việc giáo dục,
giáo hóa để làm cho tất cả mọi người trong xã hội đều có đạo
đức đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập một xã hội lý

tưởng.
II.2) Chủ trương giáo dục của Khổng Tử:
II.2.1) Thích ứng với xu thế “văn hóa học thuật chuyển
xuống dưới”
Ở thời Xuân Thu, hoạt động giáo dục của Khổng tử trên
chừng mực nhất định có mang tính chất phổ cập, bình dân,
chống độc quyền văn hóa của giai cấp quý tộc. Ông từng nói:
“Trong việc dạy dỗ, ta không phân biệt loại người này, loại
người kia” (Hữu giáo vô loại) – thiên Vệ Linh Công – Sách
Luận ngữ; “Từ người chỉ có một bó nem mang đến (để làm lễ ra
mắt xin học), trở lên, ta chưa từng (vì lễ vật đơn sơ) mà từ chối
không dạy “Tự hành thúc tu dưỡng thượng, ngô vị thường vô
hối yêu”- thiên Thuật nhi - sđd)… Chủ trương này được thực
hiện khá rộng rãi và nhất quán ở các đời sau, kết hợp với chế độ
thi cử, thực tế đã mở đường tiến thân cho nhiều người có tài
năng xuất thân từ bình dân (đó chính là hiện tượng “bố ý khanh
tướng” - các khanh tướng xuất thân từ tầng lớp bình dân, áo
vải).
II.2.2) Đề cao việc học tập
Khổng tử quan niệm sự hiểu biết không phải là sinh ra đã
có sẵn mà phải được tích lũy qua quá trình học tập, rèn luyện
khá công phu. Ngay các đức tính như nhân, trí, tín, trực, dũng,
cương cũng cần phải học tập rèn luyện thì mới có thể phát triển
đúng hướng, ứng dụng hoàn hảo. Ông chủ trương muốn ra hành
đạo giúp đời cần phải học thật giỏi (“Học ưu tắc sĩ”). Sách
Luận ngữ còn ghi lại một đoạn đối đáp giữa Khổng tử và học trò
là Tử Cao như sau: “Tử Lộ muốn đưa Tử Cao (một người chưa
được học hành đến nơi đến chốn) ra làm chức huyện trưởng
huyện Phí. Khổng tử nghe tin đó bèn nói: “Như vậy là làm hại
con nhà người ta!” Tử Lộ nói: “Nơi đó có dân, có đất đai, có

thóc lúa (cứ đứng ra mà cai trị rồi sẽ quen việc) hà tất phải học
13
tập trên sách vở rồi mới được coi là có học!” Khổng tử bèn
mắng luôn: “Vì vậy ta mới ghét cái trò nguy biện khéo nói của
nhà ngươi” (xem Thiên Tiên Tiến - Sđd). Truyền thống “hiếu
học” của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng Nho giáo có lẽ
cũng bắt nguồn từ đây.
II.2.3) Xác định rõ mục đích của việc học tập, đó là:
hành đạo, giúp vua, giúp nước.
Ông từng nói: “Học thuộc lòng ba trăm bài thơ trong
Kinh Thi, giao cho việc chính sự, không làm nổi; sai đi sứ ở bốn
phương, không biết đối đáp ra sao. Như vậy thì tuy học nhiều
thật đấy nhưng nào có ích lợi gì đâu“ (xem Thiên Tử Lộ -
Sđd) Sau khi đã khẳng định giá trị của tập Kinh Thi: “Làm
người mà không học thơ Chu Man, Thiệu Man thì chẳng khác gì
đứng quay mặt vào tường (chẳng nhìn thấy gì, mà cũng chẳng
nhúc nhích tiến tới được một bước)” và “Học Kinh Thi có thể
phát huy khả năng liên tưởng, có thể nâng cao năng lực quan
sát, có thể rèn luyện tính hợp quần, có thể học được cách châm
biếm phúng thích”, Khổng tử đã nhấn mạnh “gần thì có thể vận
dụng những đạo lý trong đó để thờ cha, xa thì có thể vận dụng
những đạo lý trong đó để thờ vua…” (Xem Thiên Dương Hóa -
Sđd). Chủ trương này sẽ được tiếp tục triển khai thành các mệnh
đề “trí quân trạch dân”, “Kinh bang tế thế” trong tư tưởng các
nhà Nho lớp sau.
II.2.4) Kết hợp chặt chẽ việc truyền thụ tri thức văn hóa
vào việc rèn luyện phẩm chất đạo đức.
Ở mức độ nhất định, có thể nói Khổng tử chủ trương coi
việc rèn luyện đạo đức là ưu tiên số một. Ông từng căn dặn các
môn đồ nhỏ tuổi: “Này các trò, ở trong nhà thì ăn ở hiếu thuận

với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì kính trọng nhường nhịn các bậc
huynh trưởng; nên ít lời và đã nói thì phải thành thực, nên thân
yêu rộng khắp mọi người nhưng nên gắn đủ những người có
đức nhân. Thực hiện được đầy đủ những việc đó rồi, nếu còn dư
sức lực thì sẽ dùng để trau dồi tri thức văn hóa” (xem Thiên
Dương Hóa - Sđd).
14
II.2.5) Đỉnh cao mà việc rèn luyện nhân cách cần đạt tới
là con người “toàn đức” (bao gồm cả ba phẩm chất nhân, trí,
dũng)
Con người coi việc thực hiện “đức nhân” là lý tưởng tối
cao, có thể hy sinh thân mình để hoàn thành điều nhân (sát thân
thành nhân). Rất coi trọng vai trò của ý chí lý tưởng, ông từng
nói: “Có thể bắt sống tướng soái của ba quân nhưng khó lòng
cưỡng ép một người bình thường rời bỏ ý chí” (xem Thiên Tử
Hãn - Sđd). Chính những chủ trương quan niệm trên đây đã góp
phần tạo nên cái sau này được gọi là “khí tiết sĩ phu”, góp phần
tạo nên những nhân cách cứng cỏi: “Phú quý không thể làm sa
đọa đam mê, nghèo khổ không thể lay chuyển được ý chí, uy vũ
không thể khuất phục nổi” (Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất).
15
Phần 2
Sự ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục
Nho giáo tới nền giáo dục Việt Nam hiện
nay
Trước hết, cần thấy rõ tinh thần Khổng giáo đã thấm vào
mọi ngõ ngách của đời sống người dân Việt Nam trong quá khứ,
đã gây những ảnh hưởng rất sâu rộng. Hiện nay, những ảnh
hưởng này vẫn tồn tại ở những mức độ khác nhau trong mọi mặt

của cuộc sống, nhiều khi quá sâu sắc, tế vị, phức tạp, dưới muôn
hình vạn trạng, không nên quan niệm một cách đơn giản rằng
ảnh hưởng của Khổng giáo ở Việt Nam là không đáng kể chỉ tác
động đến tầng lớp trên, tầng lớp có học v.v… Vấn đề đặt ra là
cần phải tìm cách nhận diện chúng và xử lý chúng một cách
khoa học.
Điều gì khiến một đất nước từng phát động “phê Lâm, đả
Khổng” (phê phán Lâm Bưu, đả phá Khổng Tử) chưa đầy 4 thập
kỷ trước nay lại quay ngoắt 180 độ một cách ngoạn mục để tôn
vinh những giá trị của Khổng giáo như tinh thần đoàn kết, đạo
đức cá nhân, tôn trọng quyền lực, tôn ty, trật tự xã hội? Chúng ta
cũng có lúc phủ nhận mọi giá trị của Nho giáo, xem đấy chính là
hiện thân của thứ tư duy bảo thủ, phong kiến. Ngay các học giả
Hàn Quốc như giáo sư Kim Kyong Il (Đại học Sanmyung,
Seoul) khi nhận xét về sự khác biệt giữa quan điểm phương Tây
(đề cao cá nhân và tự do cá nhân) còn Khổng giáo (nhắm vào
việc xây dựng mối quan hệ giữa người với người theo một trật
tự tôn ty từ gia đình ra xã hội) cũng kết luận: “Khổng giáo là
một ý thức hệ mà giai cấp thống trị biện minh cho những phép
tắc độc đoán”. Trong khi phương Tây ngợi khen “những giá trị
châu Á” như là động lực cho sự vươn lên, “hóa rồng” ở các
nước Bắc Á thì chính các học giả châu Á lại không thừa nhận.
Có người còn khẳng định, kết quả “hóa rồng” là do đi theo khoa
học công nghệ và quản lý phương Tây; Khổng giáo, dù có lý
16
giải cách nào, cũng không thể là nguồn cảm hứng cho sự phát
triển.
Ở nước ta, có người còn đi xa hơn khi giải thích lý do
người Việt Nam không quan tâm đến tài sản trí tuệ là vì: “Trước
hết phải kể đến triết lý giáo dục của Nho giáo, định hướng

nghiên cứu cho xã hội cốt ở việc tinh thông các tác phẩm kinh
điển của Khổng Tử và Mạnh Tử. Cách tuyển dụng công chức và
đánh giá người tài vốn cũng chỉ tập trung vào việc thông hiểu
kinh điển và thơ ca. Khi lễ và nhạc trở thành công cụ giáo hóa
và cai trị dân chúng, thì các khoa học tự nhiên kỹ thuật không
được xã hội nghiên cứu, trọng dụng và đề cao….”. Tư duy này
vẫn sống dai dẳng cho đến ngày nay. Cách thi cử của nước ta về
cơ bản vẫn dựa vào sự thuộc bài, và các “nho sĩ đương đại” vẫn
thường “tầm chương trích cú” của những “thánh hiền ngoại
quốc”. Mọi sự cách tân đều dễ bị xem là không bài bản”. Tác
giả còn nhận định rằng sự “kính lão” chỉ làm cản trở sự phát
triển tài năng của những người trẻ. Vì “trong khi 60% dân số ở
độ tuổi dưới 30, 85% dưới 40, những người trẻ tuổi này chỉ
được tham gia kiểm soát các nguồn lực kinh tế, chính trị và
hoạch định chính sách quốc gia một cách bị hạn chế đáng kể so
với lớp thanh niên cùng lứa ở phương Tây.
Chúng ta phải công nhận rằng lối học và dạy hôm nay
không khác gì hàng trăm năm về trước từ quan điểm cho đến
phương pháp, chỉ khác phần nội dung. Hãy nghe các bậc túc nho
nói về cái học cách đây 80 năm và xem hiện nay ra sao : “Người
nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý đối với việc học là học mà
đi thi, đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích
chỉ là cầu lợi mà thôi. Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo
Khổng, song đó là vì học đi thi mà tôn sùng chứ không phải vì
tôn sùng mà học”. “Nho học có lợi cho cái chính thể quân chủ
chuyên chế nên các đế vương nước ta lại càng tôn sùng lắm. Cái
chế độ khoa cử thật là một cái quà rất hại mà nước Tàu đã tặng
cho ta”. Nhận xét của hai học giả Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh
rất đáng suy ngẫm. Cái học chỉ để đi thi lấy văn bằng, một nền
giáo dục trọng khoa cử, một nền đại học tương đương phổ thông

17
cấp 4, thi cử thì hết “ba chung” đến “hai chung”, sản sinh
15.000 tiến sĩ mà mỗi năm chỉ có 300 công trình khoa học,
28,5% Phó giáo sư và 30,3% Giáo sư không biết vi tính.
Nếu như thế thì hình ảnh Khổng giáo trong chúng ta còn
đậm nét, nhưng tiếc thay lại… đậm nét tiêu cực. Vây đâu là
những “giá trị tích cực” cần phát huy khiến Khổng giáo được
phục hưng? Nếu những tư tưởng Khổng Tử để lại thực sự bảo
thủ cổ hủ, trì trệ như vậy thì Tư Mã Thiên đã quá ưu ái khi viết
về ông hẳn một biệt truyện và kết luận “Có thể gọi Khổng Tử là
bậc chí thánh”? (Tư Mã Thiên - Sử ký). Hãy thử đọc lại xem
những giá trị nào có thể chắt lọc và xây dựng lại như những tinh
hoa của tiền nhân?
Phạm Quỳnh đã từng viết: “Người Nhật Bản họ hơn mình
vì họ không mắc cái vạ khoa cử. Họ bắt chước cái gì của Tàu thì
bắt chước, chứ đến cái lối khoa cử thì họ không chơi”. Có tác
giả còn nhận ra, các công ty Nhật học cách quản trị của người
Mỹ, nhưng đã đem về “xào nấu” chung với giáo điều Khổng
giáo cả ngàn năm nay thành đặc điểm quản trị riêng của họ.
Quản trị Nhật xem con người là yếu tố hàng đầu nhưng là con
người trong mối tương quan với tập thể, và họ cần lòng trung
thành của nhân viên. Chính vì vậy nên họ huy động nhân viên
tăng ca, thêm giờ ít khi gặp rắc rối. Lý Quang Diệu, cựu Thủ
tướng Singapore đồng thời là Chủ tịch danh dự Hiệp hội Khổng
giáo quốc tế, cũng khẳng định: “Vấn đề là cần có một xã hội trật
tự để mọi người có thể hưởng thụ tự do của mình”.
Rõ ràng, có những giá trị của Khổng giáo cần minh định.
Về chính trị, Khổng Tử từng nói: “Nhân đạo chính vi đại” (Đạo
người thì chính trị là lớn). Nói như Trần Trọng Kim thì “Đạo
của Khổng Tử cốt lấy đạo nhân làm gốc, lễ nhạc làm căn bản

cho sự giáo hóa… Ngài chủ trương ba điều chính là: chính danh
tự, định danh phận, tôn quân quyền (Trần Trọng Kim, Nho giáo
- Hình nhi hạ học). Hoặc, “Đạo của Khổng Tử là đạo tùy thời,
theo thiên lý mà lưu hành, tất phải biến đổi luôn để ngày càng
mới”. Đặc biệt là về sự học, Khổng Tử dạy người ta phải giữ cái
18
tâm cho trung chính và việc làm cho thành thực. Để sự biết và
việc làm hợp làm một, trong ngoài không có hai. Ngài từng nói
rằng, cần để chí vào cái đạo, giữ lấy cái đức, tựa vào cái nhân,
ưu du ở nghệ thuật. Nghĩa là không chỉ học đạo đức mà cần phải
tinh thông lục nghệ để sinh hoạt ở đời nữa.
Về phương pháp, ngài cho rằng “Biết mà học không bằng
thích mà học; thích mà học không bằng vui say mà học” (Luận
ngữ, Ưng Giả, VI). Đồng thời, “Học nhi thời tập chi” (học phải
thực tập luôn luôn).
19
Phần kết luận
Nho giáo du nhập vào nước ta cách đây khoảng hơn 2000
năm và gắn liền với sự hình thành và phát triển của chế độ và xã
hội phong kiến Việt Nam. Nó đã trở thành hệ tư tưởng, công cụ
thống trị của giai cấp phong kiến và ảnh hưởng tới nhiều mặt
của đời sống xã hội Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị
và giáo dục khoa cử. Nho giáo và giáo dục Nho giáo đã trở
thành một phần không thể thiếu trong di sản văn hoá dân tộc. Vì
vậy khi nghiên cứu tư tưởng truyền thống của dân tộc không thể
bỏ qua vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong lịch sử. Theo
chúng tôi suy nghĩ, cần phải nhìn nhận những di sản này một
cách “thực sự cầu thị”; cần phải nghiên cứu để nhận thức chúng
một cách lịch sử và biện chứng. Những yếu tố văn hóa Khổng
giáo sở dĩ có thể sống lâu dài ở Việt Nam trước hết có lẽ là do

bản thân chúng có mang theo những giá trị có tính phổ quát toàn
nhân loại. Những giá trị phổ quát này đã tích hợp các giá trị văn
hóa bản địa tương ứng, trên chừng mực nào đó đã được cấu trúc
lại cho phù hợp nội tâm thế Việt Nam. Hoàn cảnh lịch sử, điều
kiện kinh tế -xã hội, ngay cả môi cảnh thiên nhiên, vị trí địa lý
nữa v.v… cũng đã góp phần tạo thêm sức sống cho những yếu
tố văn hóa ngoại nhập này. Có lẽ đó là những điều cần nghiên
cứu tìm hiểu kỹ kỹ lưỡng để tránh thái độ nôn nóng, đơn giản…
khi muốn xóa bỏ ảnh hưởng này nọ được quan niệm là gắn bó
với tinh thần Khổng giáo. Việc tìm hiểu về giáo dục Nho giáo
còn giúp chúng ta có những đánh giá toàn diện hơn giáo dục
Nho giáo từ đó khắc phục hạn chế và kế thừa những giá trị tích
cực của nó vào hệ thống giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay.
20
Danh mục các tài liệu tham khảo:
1) Sử ký (Tư Mã Thiên)
2) Nho giáo Trung Quốc (Nguyễn Tôn Nhan-NXB Văn hóa
thông tin)
3) Luận ngữ - Thánh kinh của người Trung Hoa (Hồ Sỹ Điệp-
NXB Đồng Nai)
4) Nho giáo - Hình nhi hạ học (Trần Trọng Kim-NXB Văn hóa
thông tin)
21
rMục lục
Trang
Phần mở đầu 2
Phần 1: Cái nhìn tổng quan về Nho giáo - Tư tưởng
giáo dục của Nho giáo
3
I) Cái nhìn tổng quan về Nho giáo 3

I.1) Lịch sử và quá trình phát triển 3
I.2) Nội dung cơ bản 4
II) Tư tưởng giáo dục của Nho giáo 8
II.1) Giáo dục con người 8
II.1.1) Giáo dục trong gia đình 8
II.1.2) Giáo dục trong xã hội 11
II.2) Chủ trương giáo dục của Khổng Tử: 13
Phần 2: Sự ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho
giáo tới nền giáo dục Việt Nam hiện nay
16
Phần kết luận 20
Danh mục các tài liệu tham khảo 21
22

×