Lời mở đầu
Lý do chọn đề tài
Từ cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 , với sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet và
các thiết bị có khả năng hoạt động trên nền tảng Internet như máy tính hay điện
thoại, thì các phương tiện truyền thông trực tuyến (online) nói chung và các báo
điện tử nói riêng đã phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc, đã và đang có những tác
động sâu sắc đến thế giới cũng như với Việt Nam. Sự xuất hiện của Internet đã làm
thay đổi bộ mặt thế giới. Tất cả mọi khoảng cách qua Internet dường như đang ngắn
lại. Với khả năng tích hợp cả 3 loại hình báo chí đi trước là báo in, phát thanh và
truyền hình, cùng với khả năng tương tác mạnh mẽ, báo điện tử đã cung cấp được
một lượng lớn thông tin đến các độc giả và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tìm
kiếm thông tin của họ. Tuy nhiên việc có quá nhiều thông tin cũng gây ra một số
trở ngại đối với người tiếp nhận và một trong số đó là vấn đề bất đối xứng thông tin.
Bất đối xứng thông tin là một khuyết tật của thị trường , có ảnh hưởng rất lớn đến
tâm lý của người dân nói riêng và đời sống kinh tế , chính trị xã hội nói chung. Đó
là lý do để nhóm chúng tôi thực hiện đề tài “Bất đối xứng thông tin trên hàng hóa
báo điện tử ”. Qua đó phân tích sự quan trọng của thông tin chính xác đối với
người đọc. Từ đó nêu lên vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo thông tin chính
xác trên báo điện tử.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: thông tin trên báo điện tử và vấn đề bất đối xứng thông tin
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu báo điện tử ở Việt Nam dưới góc độ là hàng
hóa công không thuần túy.
Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng những kiến thức đã học kết hợp với phương pháp luận và các mô
hình từ môn học Kinh tế công , kinh tế vi mô để phân tích vấn đề bất đối xứng
thông tin trên hàng hóa báo điện tử.
2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẤT ĐỐI XỨNG THÔNG TIN TRÊN
HÀNG HÓA BÁO ĐIỆN TỬ
1.1 Hàng hóa công cộng
1.1.1Khái niệm:
Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh và
không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang
hai tính chất trên.
1.1.2Tính chất của hàng hóa cộng cộng:
• Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ
tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất
định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không
trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng
hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền
còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công
cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp
hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem.
• Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu
dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản
những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì
tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này
ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai
đó đã mua thì người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì
tính chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân
nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như
quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên để
phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng
xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.
Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính
chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc
3
nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu
dùng của những người tiêu dùng sau. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó
có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường
cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng
nhằm tránh tắc nghẽn.
1.2 Sơ lược về sự ra đời của báo điện tử :
1.2.1 Khái niệm báo điện tử
Báo điện tử là báo mà người ta đọc nó trên máy tính, điện thoại di động, iPod,
iPhone... khi có kết nối internet.
Báo điện tử khác với báo in báo giấy là tin tức thường xuyên được cập nhật. Nó
khác so với trang thông tin điện tử về tần suất cập nhật, nguồn gốc và độ tin cậy của
thông tin, số người thường xuyên truy cập...
Báo điện tử cho phép mọi người trên thế giới tiếp cận và đọc nó không phụ thuộc
vào không gian và thời gian, Báo điện tử phát triển đã làm thay đổi thói quen đọc
báo và ảnh hưởng đến phát triển báo giấy truyền thống
1.2.2 Sơ lược về sự ra đời của báo điện tử Việt Nam
Một cách tương đối chúng ta có thể chia thành các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1997 – 2001: "báo điện tử" Việt Nam chỉ dừng ở phiên bản điện tử
của báo in. Báo điện tử khi đó chỉ đơn thuần là phương tiện chuyển tải
những thông tin của báo viết lên trên mạng. Các biên tập viên của báo chỉ có
mỗi một việc là đọc, chọn lựa và copy tất cả các bài trên báo viết lên báo
điện tử. Tờ báo điện tử đầu tiên của Việt Nam (khai trương ngày 3-12-1997)
là Tạp chí Quê Hương điện tử
- Giai đoạn 2001 – 2005: Giai đoạn này, những toà soạn báo giấy truyền thống
nhận rõ tầm quan trọng và vị trí của báo điện tử trong lòng độc giả nên hàng
loạt báo điện tử với nội dung phần lớn là từ tờ báo giấy của các cơ quan như
thanhnienonline, tuoitreonline, tienphongonline, Thể thao VN Online …xuất
hiện trên Net, đưa thông tin theo một cách riêng và nhất là trong chiến lược
vươn ra để phục vụ đối tượng bạn đọc nước ngoài.
Ở thời kì này, các tờ báo đã dần khẳng định được vị trí của mình trong làng
báo, xây dựng được những thương hiệu, phong cách riêng. Đặc biệt, vào
tháng 6-2004, theo thứ hạng xếp trong Web toàn cầu, top 5 website tiếng
Việt nhiều độc giả nhất (tính theo cả số người truy cập cũng như lưu lượng
4
truy cập) xếp theo thứ tự là: Tin nhanh Việt Nam, Tin tức Việt Nam,
Vietnam Net, Thanh nien Online, Tuổi trẻ Online. Trong 5 website này có 4
website (trừ Tin tức Việt Nam) là báo điện tử “chính hiệu”. Và cả 5 website
này đều lọt vào danh sách Top 10.000 website lớn trên thế giới.
- Giai đoạn 2005 đến nay: Báo điện tử hiện nay có thể nói là rất nhiều, với
nhiều lĩnh vực từ giải trí, thể thao, thời trang và tổng hợp thu hút rất hàng
triệu lượt truy cập hàng ngày .Sự phát triển mạnh mẽ trên đã góp phần tạo nên
một thị trường báo chí đa dạng, mới mẻ, hiện đại hơn và đặc biệt thích hợp
với giới trẻ - những người luôn thích ứng nhanh với công nghệ mới. Hiện
nay, quy mô báo mạng điện tử ở Việt Nam càng ngày càng lớn, ngoài các tờ
báo mạng điện tử độc lập còn có nhiều tờ báo phụ thuộc, hoặc các trang tin
của các cơ quan truyền thông khác.
Báo điện tử tiếng Việt thông dụng
• Báo Đài Tiếng nói Việt Nam
• Báo Công An Nhân Dân
• Hà Nội Mới
• Báo Lao Động
• Báo Ngôi Sao
• DailyInfo
• Báo Người Lao Động
• Báo Nhân Dân
• Báo Quân Đội Nhân Dân
• Báo Sài Gòn Giải Phóng
• Báo Thanh Niên
• Báo Thể Thao Việt Nam
• Thời báo Kinh tế Việt Nam
• Báo Tiền Phong
• Báo Netlife
• Báo 24h
• Báo Dân Trí
• Tin Tức Online
• Báo Tuổi Trẻ
• VietNamNet
• Thông tấn xã Việt Nam
• Báo Người Hà Nội
• VnExpress
• VnMedia
• Báo Sài gòn tiếp thị
• Báo VTC
• Báo Bóng đá
• Báo Kinh tế đô thị
• LANDTODAY
• Cổng thông tin địa ốc xây dựng
• Báo Đất Việt
• Báo Thương Mại
• Báo Kinh tế 24h
• Vietbao
• Báo An ninh thế giới
• VNNDaily.com beta
5
1.3.Đối tượng tham gia trên hàng hóa báo điện tử:
Chủ yếu trên báo điện tử có hai thành phần tham gia. Thứ nhất, người tiếp nhận
thông tin và thứ hai là nhà cung cấp hàng hóa báo điện tử.
1.2.1 Người tiếp nhận thông tin
Người tiếp nhận thông tin là người tìm kiếm thông tin trên các trang báo điện tử.
Internet là một nguồn tìm kiếm thông tin phong phú. Do vậy người đọc có thể có rất
nhiều thông tin do việc tham gia trên báo điện tử. Hiên nay, ở nước ta có khoảng 21
triệu người tham gia vào thị trường này.
1.2.2 Nhà cung cấp hàng hóa báo điên tử
Nhà cung cấp hàng hóa báo điện tử là những cá nhân, tập thể cung cấp những trang
tin tức cho người đọc. Và đa số các trang báo này kinh doanh với hình thức phi lợi
nhuận. Nguồn lợi nhuận thu được chủ yếu từ quảng cáo và hổ trợ của các doanh
nghiệp, nhà nước.
1.4 Lý thuyết về bất đối xứng thông tin trên hàng hóa báo điện tử :
1.4.1 Giới thiệu sơ lược về thông tin bất cân xứng
Để hiểu rõ hơn về khái niệm bất đối xứng thông tin, bên cạnh các lý thuyết chúng
tôi xin đưa thêm một vài ví dụ cụ thể để làm rõ hơn vấn đề.
G.A. Akerlof (1970)
Theo Auronen (2003, tr.7), người đầu tiên giới thiệu về lý thuyết thông tin
bất cân xứng là G.A. Akerlof (1970). Trong quá trình nghiên cứu tình huống mua
bán xe Ô tô trên thị trường, Ông cho rằng người bán xe có tính chủ động hơn đối
6
với người mua. Người bán có thể biết rõ đặc tính của chiếc xe mình muốn bán và
muốn bán với giá cao.
G.A. Akerlof giả định rằng: xác suất để mua xe tốt là q thì xác suất mua xe
xấu là (1-q) (thị trường được phân loại xe tốt và xấu). Khi đó mức giá trung bình (P)
được giả định mua xe là: P = P1q + P2(1-q). Trong đó: P1 là giá xe tốt; P2 là giá xe
xấu.
1 – Xe ôtô chất lượng cao 2 – Xe ôtô chất lượng thấp
Ông lại cho rằng người mua xe tiềm năng xem mức giá của các loại xe tốt
hay xấu là ngang nhau, vì họ không thể phân biệt đặc tính của xe nên họ chỉ có thể
mua xe (bất kể tốt hay xấu) tại mức giá trung bình trên thị trường. Thực tế, đối với
xe tốt thì giá cao hơn mức giá trung bình. Vì thế tại mức giá trung bình đó chỉ có
những xe xấu được giao dịch. Khi đó xác suất để mua xe tốt bây giờ là q’ < q.
Nhưvậy người mua thường là mua được những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để
mua trong trường hợp này gọi là sự lựa chọn bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn đối
với xe xấu và người bán lại không thể bán được do giá bán thấp hơn chất lượng xe
tốt.
Một phương cách để giảm bớt thông tin bất cân xứng trên thị trường là thông qua
các tổ chức trung gian trên thị trường. Tổ chức trung gian này có thể giới thiệu rõ
hơn thông tin sản phẩm đến với người mua như bảo hành, nhãn mác, thông số kỹ
Q
L
7500050000
S
L
D
M
P
L
5000
10000
5000025000
Q
H
P
H
S
H
D
H
D
M
D
LM
D
L
D
L
D
LM
7
thuật… chính điều này đã làm cho các bên giao dịch cân bằng hơn về thông tin sản
phẩm, khi đó giao dịch sẽ dễ dàng thực hiện.
Michael Spence (1973): Phát tín hiệu
Tiếp tục phát triển lý thuyết của G.A. Akerlof, Spence đã nghiên cứu trên thị
trường Lao động (Auronen, 2003, tr.10). M. Spence xem việc thuê lao động là một
quyết định đầu tư không chắc chắn. Tính không chắc chắn ở đây là việc thuê lao
động mà người chủ không biết được khả năng đóng góp, khả năng tạo ra năng suất
của người lao động là bao nhiêu. Vì thế việc thuê lao động có thể thuê được lao
động có chất lượng hoặc không. Một trong những phương cách giúp người chủ thuê
được lao động có năng lực đó là ông chủ có thể xem qua chất lượng bằng cấp, kinh
nghiệm,… của người lao động. Đó được gọi là những tín hiệu được phát ra của
người lao động. Như vậy việc phát tín hiệu này đã làm giảm thông tin bất cân xứng
giữa những người lao động và ông chủ.
Joseph Stiglitz (1975): Cơ chế sàng lọc
Cơ chế sàng lọc của J. Stiglitz cũng là lý thuyết phát triển lý thuyết của
Michael Spence (Auronen, 2003, tr.13). Theo Ông bất cứ hàng hóa nào cũng đều có
những đặc tính khác nhau như chất lượng khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần
phải phân loại chúng. Đối với lao động cũng có lao động có khả năng, tay nghề cao
và lao động có khả năng, tay nghề thấp. Vì vậy không thể trả lương theo một mức
lương cân bằng. Để khuyến khích người có khả năng cao, tạo ra năng suất lao động
cao thì cần phải trả lương cao để khuyến khích họ. Đối với người có khả năng thấp,
việc cố gắng đạt được một mức năng suất sản xuất để nhận được lương cao sẽ tốn
chi phí rất lớn so với người có khả năng cao. Vì vậy việc phân nhóm lao động để trả
lương là việc làm cần thiết để khuyến khích những người có khả năng nâng cao
trình độ và mang lại hiệu quả cao cho xã hội
Các khái niệm về thông tin bất cân xứng
Phi đối xứng thông tin (hay thông tin phi đối xứng), trong kinh tế học, là trạng
thái bất cân bằng trong cơ cấu thông tin - giữa các chủ thể giao dịch có mức độ nắm
giữ thông tin không ngang nhau. (Trang từ điển Wikipedia).
‘Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn
bên khác thì không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó’ (Nguyễn Trọng
Hoài, 2006).
Thông tin bất đối xứng là việc các bên tham gia giao dịch cố tình che đậy
thông tin. Thông thường trong thị trường, người bán sản phẩm có nhiều thông tin về
8
chất lượng sản phẩm hơn người mua, những người công nhân hiểu rõ về trình độ, kĩ
năng của mình hơn những người chủ; hay những người chủ công ty không biết rõ
về chi phí của hãng, vị thế cạnh tranh, và cơ hội đầu tư bằng người giám đốc.
Thông tin bất đối xứng là một trong các khuyết tật của thị trường vì khi người tiêu
dùng không có thông tin chính xác về giá cả và chất lượng sản phẩm thì hệ thống thị
trường sẽ hoạt động không hiệu quả. Việc thiếu thông tin có thể làm cho nhà sản
xuất cung cấp quá nhiều một vài sản phẩm hoặc quá ít những sản phẩm khác; người
tiêu dùng có thể không mua sản phẩm mang lại lợi ích cho họ mà mua những sản
phẩm làm cho họ bị thiệt. Thông tin bất đối xứng làm cho giá cả không phải là giá
cân bằng của thị trường mà có thể quá thấp hoặc quá cao.
9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẤT ĐỐI XỨNG THÔNG TIN TRONG VIỆC
CUNG CẤP HÀNG HÓA BÁO ĐIỆN TỬ
2.1 Thực trạng bất đối xứng thông tin trên hàng hóa báo điện tử
Hiện nay có khá nhiều những thực trạng về vấn đề bất đối xứng thông tin trên hàng
hóa báo điện tử. Ở đây chúng tôi xin nêu ra một ví dụ cụ thể.
Cháo dinh dưỡng (CDD) có chứa chất độc hại
Trước đây cháo dinh dưỡng được biết đến như là sự lựa chọn số 1 cho các bà
mẹ bận rộn.Cháo dinh dưỡng giúp tiết kiệm thời gian nấu nướng cho các bà mẹ,
cháo lại thơm ngon, có nhiều hương vị để lựa chọn, giúp đa dạng hóa các món ăn
cho trẻ. Bên cạnh đó, nhà sản xuất còn quảng cáo là trong cháo có chứa các thành
phần giúp phát triển trí thông minh cho trẻ. Vì vậy cháo dinh dưỡng rất được người
dân tin dùng. Tuy nhiên việc kiểm tra chất lượng cháo dinh dưỡng vẫn còn khá
nhập nhằng. Theo BS Nguyễn Đức An - Chánh Thanh tra Sở Y tế cho biết: chất
lượng cháo dinh dưỡng là do cơ sở tự công bố với Cục VSATTP rồi Cục cấp phép.
Vì vậy, khi kiểm tra, cơ quan chức năng không có cơ sở để đáng giá chất lượng của
cháo (chỉ lấy mẫu kiểm tra khi có nghi ngờ về chất lượng), kiểm tra cũng chủ yếu
tập trung vào điều kiện nhà xưởng, sức khỏe công nhân... Cụ thể, năm 2006 chỉ
kiểm tra ba cơ sở CDD thì cả ba đều vi phạm VSATTP.
Người tiêu dùng nếu muốn biết về chất lượng của cháo thì chỉ có cách đọc
thành phần trên bao bì cháo mà các thành phần này không phải ai cũng hiểu rõ, hoặc
là tìm kiếm thông tin trên mạng bằng cách vào website của các hãng cháo và xem
các quảng cáo. Tất nhiên để hấp dẫn được khách hàng các công ty này phải đưa ra
một loạt giấy chứng nhận về vệ sinh, chất lượng và những tấm ảnh chụp về quy
trình làm cháo dinh dưỡng vô cùng vệ sinh, với những máy nấu cháo bóng loáng,
nhân viên mặc bảo hộ trắng toát; găng tay, khẩu trang, nón kín mít từ đầu đến
chân... Thế nhưng khi tới một số cơ sở chế biến cháo dinh dưỡng thì sự thật lại khá
phũ phàng. Chẳng hạn như nhà máy sản xuất CDD ABC (379 Tân Hương, P.Tân
Quý, Q.Tân Phú, TP.HCM), nhà máy chỉ khoảng 30m2, máy nấu cháo bám đầy vết
bẩn, sàn nhà lênh láng nước thải. Nhân viên mặc đồ bộ, không găng tay, khẩu trang,
xắn quần lội bì bõm. Cháo thành phẩm được đóng gói bằng một máy đóng gói bẩn
không kém. Nhà máy sản xuất CDD Đoremi (1314/13 Lê Đức Thọ, F13,Q.Gò Vấp,
TP.HCM) thì cũng sáng sủa gì hơn ở khâu chế biến củ quả đế nấu cháo. Khoai còn
dính đầy đất cát được nhân viên gọt sơ vỏ, cắt bỏ chỗ hư, đổ vào bồn cho nước sục
10
qua vài lần là vớt ra, đưa vào sản xuất luôn. Bí đỏ cũng không khá hơn, gọt sạch vỏ
cho vào bồn nước ít phút rồi vớt ra. Còn cơ sở sản xuất cháo Cây Thị chỉ là một nhà
kho vừa là nơi chứa nguyên liệu, vừa sơ chế và sản xuất cháo, nhân công cũng
không được trang bị đồ bảo hộ để giữ vệ sinh.
Đó mới chỉ là vấn đề vệ sinh, vậy còn chất lượng của cháo thì sao? Mãi đến
gần đây – cuối năm 2009 – chất lượng của CDD mới được hé lộ sau khi phóng viên
báo Tuổi Trẻ có chuyến đi thực tế tìm hiểu chất lượng CDD. Giữa tháng 11, trong
vai một người đang muốn xây dựng thương hiệu cháo dinh dưỡng trên thị trường,
phóng viên đã hẹn gặp một nhân viên chuyên cung cấp các loại hóa chất của Công
ty P, Q.Tân Bình, TP.HCM để nhờ hỗ trợ. Nhân viên tên N. kể anh thường xuyên
giao các loại hóa chất cho một số cơ sở chế biến cháo dinh dưỡng có tiếng trên thị
trường TP.HCM. Anh N. cho biết các loại hóa chất có tác dụng không gây chua, tạo
sánh, tạo hương vị... được nhiều cơ sở cháo dinh dưỡng sử dụng. Hai loại hóa chất
có tên sodium benzoate và potassium sorbate, N. giới thiệu cả hai loại hóa chất này
đều có tác dụng giúp cháo lâu bị chua. Sodium benzoate có giá 50.000 đồng/kg, còn
potassium sorbate giá cao hơn với 80.000 đồng/kg. Theo N., cùng sử dụng những
loại hóa chất này nhưng mỗi hãng cháo sẽ có một “bí quyết” pha chế riêng, do vậy
liều lượng cho hóa chất vào cháo cũng chỉ để tham khảo. Thường N. hướng dẫn các
cơ sở nên cho khoảng 1g hóa chất/kg cháo, nhưng với các cơ sở muốn bảo quản lâu
hơn sẽ tăng thêm 2-3g. Những cơ sở sản xuất trong điều kiện vệ sinh kém cũng tăng
liều lượng hóa chất này để cháo lâu chua hơn. N. khoe khi cho hóa chất này vào,
các cơ sở cháo dinh dưỡng rất yên tâm vì cháo để 2-3 ngày ở nhiệt độ bình thường
cũng vẫn thơm. Các cơ sở tha hồ vận chuyển mà không phải lo “hàng” bị hỏng. Hóa
chất còn lại là Xanthan Gum, đây là chất tạo sánh. Khi dùng hóa chất này cho vào
cháo thì dù cháo loãng mấy cũng trở lên đặc quánh. Chưa kể nhìn cháo rất bắt mắt,
những chất đạm cho vào cháo như tôm, lươn, cá, cua... sẽ nổi bật trên nền cháo
trắng. Một ký hóa chất tạo sánh chỉ 50.000 đồng nhưng khi cho vào sẽ giúp các cơ
sở chế biến giảm được một lượng gạo, tôm, cua, cá, thịt... đáng kể trong khi giá bán
vẫn không đổi. N. còn kể tùy “bí quyết “của mỗi cơ sở chế biến cháo dinh dưỡng
mà các cơ sở này sẽ cho thêm hóa chất tạo mùi để cháo tăng phần hấp dẫn. Theo N.,
hiện nay nhiều cơ sở sản xuất cháo dinh dưỡng tìm đủ mọi cách chế biến sao cho trẻ
thích ăn cháo, ăn được nhiều và cơ sở thu được lợi nhuận cao.
Phóng viên đã gửi những mẫu cháo dinh dưỡng đến Trung tâm Dịch vụ phân
tích thí nghiệm (thuộc Sở Khoa học - công nghệ TP.HCM) để tìm hiểu xem những
loại cháo này có chứa hóa chất sodium benzoate (tên tiếng Việt là natri benzoate) và
potassium sorbate như lời nhân viên N. kể hay không. Kết quả kiểm nghiệm ngày
27-11 của trung tâm này cho thấy cả bốn mẫu cháo trên đều chứa hóa chất natri
benzoate với hàm lượng 191,9-444,4mg/kg.
Theo bác sĩ Trần Văn Ký, phụ trách an toàn vệ sinh thực phẩm phía Nam -
Hội Khoa học kỹ thuật an toàn thực phẩm Việt Nam, trẻ nhỏ rất nhạy cảm với các
tác nhân bên ngoài, đặc biệt là các hóa chất, do vậy nếu cho hóa chất vào cháo sẽ
11
làm trẻ bị rối loạn tiêu hóa, rối loạn chuyển hóa, lâu ngày trẻ bị suy dinh dưỡng,
chậm phát triển, học kém. Trong khi đó, bác sĩ Nguyễn Xuân Mai, nguyên viện phó
Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM, cho rằng trẻ sử dụng các loại thực phẩm có
chứa hóa chất trong thời gian dài dễ bị yếu gan, yếu thận. Đây còn là cơ hội phát
sinh những bệnh về gan, thận ở trẻ.Như vậy, sản phẩm CDD được quảng cáo là vệ
sinh, an toàn, giúp phát triển trí thông minh của trẻ nhỏ lại là nguyên nhân gây ra
bệnh tật và tình trạng kém phát triển cho trẻ.
Vậy nguyên nhân từ đâu mà người tiêu dùng bị đánh lừa trong thời gian dài
như thế. Đó là do tình trạng bất đối xứng thông tin. Người tiêu dùng không có đủ
thông tin do thông tin bị nhà sản xuất che đậy và các cơ quan chức năng đã không
làm tròn chức năng trong việc cung cấp thông tin chính xác cho người tiêu dùng.
• Về phía nhà sản xuất: Vì chạy theo lợi nhuận mà các cơ sở sản xuất cháo đã
cắt giảm chi phí trong việc bảo đảm vệ sinh khi chế biến cháo, và thêm vào
các hóa chất độc hại để làm cháo lâu bị hỏng, trông bắt mắt hơn, hấp dẫn
người tiêu dùng.
• Về phía các cơ quan chức năng: Thiếu trách nhiệm trong việc quản lý chất
lượng sản phẩm. Điển hình như Bà Nguyễn Thị Giàu - trưởng Phòng y tế
Q.Gò Vấp - cho biết đầu năm 2009, phòng y tế quận có đi kiểm tra hai cơ sở
cháo dinh dưỡng trên địa bàn quận, “cả hai cơ sở chế biến cháo dinh dưỡng
này đều làm tốt, đều có giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy
chúng tôi không lấy mẫu cháo để kiểm nghiệm”.Ông Hà Văn Sắc - trưởng
Phòng y tế Q.12 - trả lời rằng ngày 27-11, thanh tra Sở Y tế TP và Trung tâm
Y tế dự phòng Q.12 có đi kiểm tra cơ sở cháo dinh dưỡng Cây Thị ở quận
này. Còn trước đó, phòng y tế quận chưa bao giờ đi kiểm tra cơ sở cháo dinh
dưỡng nào vì “chưa có bài báo nào đánh động về cháo dinh dưỡng”.Còn Sở
Y tế TP.HCM đã đi thanh tra, kiểm tra xem những loại cháo dinh dưỡng này
có an toàn hay chưa? Ông Lê Trường Giang - phó giám đốc Sở Y tế
TP.HCM - cho rằng: “Thanh tra sở thường thanh tra theo vụ việc và bị cuốn
vô rất nhiều vụ việc khác nên chưa đủ sức để làm hết các loại thực phẩm.
Việc kiểm soát cháo dinh dưỡng mới dừng lại ở kiểm tra vệ sinh, cơ sở vật
chất. Còn việc kiểm tra xem có bỏ hóa chất gì hay không thì chưa làm”.
2.2 Ảnh hưởng của bất đối xứng thông tin trên hàng hóa báo điện tử
Hiện nay, việc sử dụng Internet đã trở thành nhu cầu thiết yếu đối với xã hội,
nhanh chóng, tiện lợi, đầy đủ, nhiều nguồn và nhiều thông tin là những đặc điểm
khiến nó được ưa chuộng. Với báo điện tử, nguồn thông tin được cập nhật liên tục,
các sự kiện xã hội, thay đổi tình hình kinh tế,cách sống, diễn đàn sẽ tạo ra được
12