Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

giáo trình đa dạng sinh học chương 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.18 KB, 19 trang )

Chương 2
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA
ĐA DẠNG SINH HỌC
2.1. Khái niệm chung về đa dạng sinh học
2.1.1. Các định nghĩa và ví dụ
Theo định nghĩa của Quỹ Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (World
Wildlife Fund) thì đa dạng sinh học là “sự phồn thịnh của cuộc sống trên
trái đất, là hàng triệu loài động vật, thực vật và vi sinh vật, là những nguồn
gen của chúng và là các hệ sinh thái phức tạp cùng tồn tại trong môi trường
sống”. Như thế, đa dạng sinh học cần phải được xem xét ở ba mức độ. Đa
dạng sinh học ở mức độ loài bao gồm tất cả sinh vật trên trái đất từ vi khuẩn
đến các loài động vật, thực vật và nấm. Ở mức nhỏ hơn, đa dạng sinh học
bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần
thể cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung
sống trong một quần thể. Đa dạng sinh học cũng bao gồm sự khác biệt trong
các quần xã sinh học nơi các loài đang sinh sống, các hệ sinh thái trong đó
các quần xã tồn tại và cả sự khác biệt của các mối tương tác giữa chúng với
nhau. Sự khác biệt giữa đa dạng sinh học ở 3 mức độ khác nhau được thể
hiện qua bảng 1.1.
Bảng 1.1. Các mức độ đa dạng sinh học
Đa dạng loài Đa dạng di truyền Đa dạng sinh thái
Giới (Kingdom) Quần thể (Population) Sinh đới (Biome)
Ngành (Phyla) Cá thể (Individual) Vùng sinh thái (Bioregion)
Lớp (Class) Nhiễm sắc thể
(Chromosome)
Cảnh quan (Landscape)
Bộ (Order) Gene Hệ sinh thái (Ecosystem)
Họ (Family) Nucleotide Nơi ở (Habitat)
Giống (Genera) Tổ sinh thái (Niche)
Loài (Species)
(Nguồn:Peter J.Bryant. Biodiversity and conservation)


5
2.1.2. Các nội dung của đa dạng sinh học
2.1.2.1. Đa dạng loài
Đa dạng loài bao gồm tất cả loài trên trái đất. Mỗi loài thường
được xác định theo một trong hai cách. Thứ nhất, một loài được xác định
là một nhóm các cá thể có những đặc tính hình thái, sinh lý, sinh hoá đặc
trưng khác biệt với những nhóm cá thể khác (định nghĩa về hình thái của
loài). Thêm vào đó, sự khác biệt về DNA cũng được sử dụng để phân biệt
những loài có đặc điểm hình thái bên ngoài gần như giống hệt nhau (loài
đồng hình), như các loài vi khuẩn. Thứ hai là một loài có thể được phân
biệt như là một nhóm cá thể có thể giao phối giữa chúng với nhau để sinh
sản thế hệ con cái hữu thụ và không thể giao phối sinh sản với các cá thể
của các nhóm khác (định nghĩa về sinh học của loài).
Định nghĩa về hình thái của loài thường được các nhà sinh học hay
các nhà phân loại học, sử dụng để định loại, đặt tên khoa học cho những
mẫu vật là những loài mới. Định nghĩa về sinh học của loài là định nghĩa
thường được các nhà sinh học di truyền sử dụng do đây là cơ sở trong mối
liên hệ về gen hơn là các đặc điểm về cấu tạo hình thái khác. Tuy nhiên,
trong thực tế, định nghĩa sinh học của loài là khó sử dụng bởi vì nó đòi hỏi
những kiến thức về các cá thể thực sự có khả năng trong việc giao phối
với nhau, những thông tin như vậy thường không phải lúc nào cũng có
sẵn. Do vậy, trong thực tế các nhà sinh học thực hành thường mô tả các
loài này bằng các đặc điểm hình thái cho đến khi loài đó được các nhà
phân loại đặt tên La tinh.
Hiện nay, có khoảng 1,7 triệu loài đã được mô tả. Ít nhất là hai lần số
đó còn chưa mô tả, chủ yếu là côn trùng và các nhóm chân khớp khác trong
vùng nhiệt đới (Bảng 1.2).
Bảng 1.2. Tổng số các loài đã được mô tả
Nhóm Số loài mô tả Nguồn
Vi khuẩn và tảo lam 4.760

Nấm 46.938
Tảo 26.900
Rêu 17.000 WCMC. 1998
Hạt trần 980 IUCN. 1997
Hạt kín 258.000 IUCN. 1997
6
Động vật nguyên sinh 35.000
Bọt biển (Thân lỗ) 5.000
Ruột khoang 9.000
Giun tròn và giun dẹp 24.000
Giáp xác 40.000
Côn trùng 950.000 IUCN. 1997
Các nhóm Chân khớp và các
nhóm động vật không xương
sống khác
130.000
Thân mềm 70.000
Da gai 6.100
Cá 28.100
Lưỡng cư 5.578
Bò sát 8.134
Chim 9.932
Thú 4.842
1.
680.264
Kiến thức của chúng ta về số lượng loài là chưa chính xác do nhiều
loài khó thấy còn chưa được phân loại học chú ý. Ví dụ như ve bét, giun
tròn và nấm sống trong đất và các loài côn trùng sống trong rừng nhiệt
đới có kích thước rất nhỏ và khó nghiên cứu. Các loài này có thể lên tới
hàng trăm ngàn thậm chí triệu loài. Các loài vi khuẩn cũng được biết rất ít.

Chỉ có khoảng 4000 loài vi khuẩn được các nhà vi sinh vật biết đến do
những khó khăn trong việc nuôi cấy và định loại. Việc lấy mẫu khó khăn
đã cản trở chúng ta nghiên cứu tìm hiểu về số lượng các loài trong đại
dương. Đại dương có lẽ là nơi có tính đa dạng lớn nhất. Một ngành động
vật mới, ngành Loricefera lần đầu tiên phát hiện vào năm 1983 nhờ vào
các mẫu vật thu được ở đáy biển sâu và không nghi ngờ gì là sẽ có nhiều
loài hơn nữa sẽ được phát hiện.
Các quần xã sinh vật mới sẽ còn được khám phá thường các quần
xã này nằm trong các vùng hẻo lánh nơi mà con người khó tới gần được.
7
Các kỹ thuật thăm dò chuyên biệt, đặc biệt ở các vùng biển sâu và các
vùng trời các rừng nhiệt đới đã khám phá ra các cấu trúc quần xã khác
thường.
Các quần xã động vật khác nhau, đặc biệt là côn trùng, thích ứng
cuộc sống dưới tán lá tầng cao của rừng rậm nhiệt đới, hiếm khi chúng
thích nghi được với điều kiện sống ở trên mặt đất.
Một vùng rừng mưa miền núi hẻo lánh nằm giữa Việt Nam và Lào
vừa mới được các nhà sinh học khảo sát trong thời gian gần đây. Tại đây
họ đã phát hiện được một số loài thú mới cho khoa học đó là Mang lớn
(Megamuntiacus vuquangensis), Sao La (Pseudoryx nghetinhensis),
Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) và Mang lá (Muntiacus
rooseveltorum).
Trên phạm vi toàn thế giới còn cần rất nhiều nổ lực để có thể hoàn
thiện được danh mục đầy đủ các loài. Mỗi năm các nhà phân loại trên thế
giới mô tả được khoảng 11.000 loài, và như vậy, để có thể mô tả hết các
loài trên thế giới (ước tính 10 đến 30 triệu loài) dự kiến phải tốn từ 750
năm đến 2.570 năm, trong khi đó có nhiều loài đã bị tuyệt chủng trước khi
chúng được mô tả và đặt tên.
2.1.2.2. Đa dạng di truyền
Đa dạng di truyền bao gồm các thành phần các mã di truyền cấu

trúc nên cơ thể sinh vật (nucleotides, genes, chromosomes) và sự sai khác
về di truyền giữa các cá thể trong một quần thể và giữa các quần thể với
nhau.
8
Hình 2: Đa dạng di truyền của loài Keo má trắng Platycercus eximius (ở
Úc) thể hiện qua màu sắc và đốm thân. Sơ đồ còn chỉ ra các vùng phân bố
của chúng (Nguồn: Richard B Primack).
Đa dạng di truyền trong nội bộ loài thường là kết quả của tập tính
sinh sản của các cá thể trong quần thể. Một quần thể là một nhóm các cá
thể giao phối với nhau và sản sinh ra con cái hữu thụ. Một loài có thể có
một hay vài quần thể khác nhau. Một quần thể có thể chỉ gồm một số ít cá
thể hay có thể có hàng triệu cá thể.
Các cá thể trong một quần thể thường rất khác nhau về mặt di
truyền. Sự đa dạng về bộ gen có được do các cá thể có các gen khác nhau,
gen là một đơn vị di truyền cùng với những nhiễm sắc thể được đặc trưng
bởi những protein đặc biệt. Các dạng khác nhau của gen được gọi là allen
và những sự khác biệt nảy sinh qua đột biến, là những sự thay đổi xảy ra
trong DNA, đơn vị cấu thành nhiễm sắc thể của cá thể. Sự khác biệt của
các allen trong gen có thể ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh lý của các
cá thể một cách khác nhau.
9
Sự sai khác di truyền tăng lên khi con cái nhận được đầy đủ tổ hợp
gen và nhiễm sắc thể của bố mẹ trong quá trình tái tổ hợp gen xảy ra trong
quá trình sinh sản hữu tính. Gen được trao đổi giữa các nhiễm sắc thể
trong quá trình giảm phân và tổ hợp mới được tạo thành khi nhiễm sắc thể
từ bố mẹ kết hợp để tạo nên một tổ hợp thống nhất cho con cái.
Tổng số các sắp xếp của gen và allen trong quần thể được coi là
quỹ gen (gene pool), trong khi một tổ hợp nào đấy của gen và allen trong
bất kỳ cá thể nào thì được gọi là kiểu di truyền (genotype). Kiểu hình
(phenotype) của một cá thể nói lên các đặc điểm về hình thái, sinh lý, sinh

hoá là kết quả của biểu hiện kiểu gen trong một môi trường nhất định.
Sai khác di truyền cho phép các cá thể thích ứng với những thay
đổi của môi trường. Nhìn chung, các loài quí hiếm phân bố hẹp ít có sự đa
dạng di truyền hơn các loài có phân bố rộng và kết quả là chúng dễ bị
tuyệt chủng hơn khi điều kiện môi trường thay đổi.
2.1.2.3. Đa dạng quần xã và hệ sinh thái
Đa dạng về hệ sinh thái là thước đo sự phong phú về sinh cảnh, nơi
ở, tổ sinh thái và các hệ sinh thái ở các cấp độ khác nhau. Sự đa dạng này
được phản ảnh quan trọng nhất bởi sự đa dạng về sinh cảnh, các quần xã
sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh quyển. Chẳng hạn như sự
phân bố của các loài sinh vật theo không gian khác nhau, nghĩa là đặc
trưng cho từng sinh cảnh khác nhau. Rừng nhiệt đới thường xanh đã phân
thành nhiều tầng và các thuỷ vực cũng phân thành các tầng nước khác
nhau về thuỷ lý, thuỷ hoá để sử dụng tối ưu năng lượng của hệ sinh thái và
tạo cho tính đa dạng sinh học càng cao.
Môi trường vật lý, đặc biệt là vòng tuần hoàn năm của nhiệt độ và
lượng mưa, ảnh hưởng đến cấu trúc và đặc điểm của quần xã sinh vật,
quyết định địa điểm đó sẽ là rừng, đồng cỏ, sa mạc hay đất ngập nước.
Quần xã sinh vật cũng có thể biến đổi tính chất vật lý của hệ sinh thái. Ví
dụ, trong một hệ sinh thái trên cạn, tốc độ gió, độ ẩm, nhiệt độ và tính chất
đất đai có thể bị ảnh hưởng do cây cối và các động vật sống tại đó.
Trong một quần xã sinh vật, mỗi loài sử dụng một nhóm tài
nguyên nhất định, tạo thành tổ sinh thái của loài đó. Tổ sinh thái cho một
loài thực vật có thể bao gồm loại đất mà loài đó sống, lượng ánh sáng mặt
trời và độ ẩm mà loài đó cần, kiểu hệ thống thụ phấn và cơ chế phát tán
của hạt, Tổ sinh thái của một loài động vật có thể bao gồm kiểu nơi sinh
10
Nguồn: Botanical society of America
sống của loài, biên độ nhiệt độ mà loài đó có thể sống được, các loại thức ăn
và lượng nước mà chúng cần, Bất cứ thành phần nào của tổ sinh thái đều

là nguồn tài nguyên có giới hạn và do đó có ảnh hưởng đến giới hạn kích
thước của quần thể.
Các hệ sinh thái trong sinh quyển tồn tại ở hai môi trường có sự
khác biệt về các đặc tính lý hoá và sinh học. Đó là môi trường trên cạn và
môi trường dưới nước. Các hệ sinh thái trên cạn được đặc trưng bởi các
quần hệ thực vật, chiếm sinh khối lớn và gắn liền với khí hậu địa phương,
do đó tên của quần xã cảnh quan vùng địa lý gọi là khu sinh học (biome),
thường là tên của quần hệ thực vật ở đấy. Khu sinh học là một hệ sinh thái
lớn, đặc trưng bởi kiểu khí hậu đặc thù, bao gồm các loài động vật sống
trong quần hệ thực vật, thích ứng tốt với môi trường tự nhiên. Nhìn chung
trên lục địa đã hình thành các biom chính như sau:
Đài nguyên hay đồng rêu (Tundra)
Đồng rêu
bao quanh bắc cực
và vành đai phần bắc
của lục địa Âu Á,
Bắc Mỹ, chiếm
khoảng 20% diện
tích trái đất. Đây là
một vùng nhiều đầm
lầy giá lạnh, băng
tuyết với nhiều đụn
rêu rãi rác. Mùa
đông dài khắc
nghiệt, mùa hè ngắn.
Số loài thực vật rất
ít, chủ yếu là rêu, địa
y và cỏ bông lau,
phong lùn và liễu miền cực. Động vật đặc trưng là hươu tuần lộc, hươu
kéo xe, thỏ, có sói Bắc cực, gấu trắng Bắc cực, chim cánh cụt,…Nhiều

loài chim sống thành từng bầy lớn, chúng di cư xuống vùng vĩ độ thấp để
tránh rét mùa đông.
11
Nguồn: Botanical society of America
Rừng mưa nhiệt đới (Tropical rain forests)
Xuất hiện ở
vùng gần xích đạo. Khí
hậu luôn ấm (từ 20 đến
25
0
C) lượng mưa dồi
dào (ít nhất 1900
mm/năm). Rừng mưa là
một biome có độ giàu
có nhất, cả về độ đa
dạng và tổng sinh khối.
Rừng mưa nhiệt đới có
cấu trúc phức tạp, với
nhiều cấp độ của đời
sống. Hơn một nửa các
dạng sống trên cạn xuất
hiện trong biom này.
Trong khi nhiều
động vật sống trên mặt
đất, thì hầu hết các
động vật rừng mưa
nhiệt đới có đời sống
trên các cây gỗ. Các
động vật đó trải qua
toàn bộ đời sống của

chúng trên tán rừng.
Các loại côn trùng ở các rừng mưa nhiệt đới rất phong phú và phần lớn
trong số chúng là chưa được xác định.
Mối là đặc trưng cho sự phân hủy của chu trình dinh dưỡng của gỗ.
Chim có xu hướng màu sắc sáng, thường tạo cho chúng tìm kiếm thức ăn
như các loài sâu ngoại lai. Bò sát và lưỡng thê xuất hiện nhiều. Khỉ hầu
(Lemurs), Cu li (sloths), và khỉ (monkeys) ăn các loài trái cây trong rừng
mưa nhiệt đới. Nhóm loài ăn thịt lớn nhất là nhóm mèo. Sự xâm chiếm và
phá hủy nơi ở đang là nguy cơ cho các loài động vật, thực vật ở đây.
Một vài rừng nhiệt đới ở Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Phi, Trung và
Nam Mỹ có tính mùa và các cây ở đó rụng lá vào mùa khô.
12
Rừng ôn đới (temperate forests)
Sinh cảnh rừng ôn đới xuất hiện ở miền đông của Bắc Mỹ, Đông
Á, và nhiều nước Châu Âu. Lượng mưa nhiều từ 750-1500 mm. Sự phát
triển theo mùa được xác định rõ ràng giữa 140 đến 300 ngày. Các loài
thực vật ưu thế bao gồm sồi, thích, và những cây gỗ lớn lá rụng khác. Cây
gỗ của rừng lá rụng có tán lá rộng, trong đó chúng rụng đi vào mùa thu và
mọc trở lại vào mùa xuân. Mật độ tán lá cho phép sự phát triển tốt cho các
tầng cây bụi ở bên dưới, một tầng cây thảo, và sau đó thường được bao
phủ bởi rêu và dương xỉ. Sự sắp xếp bên dưới này đã cung cấp nhiều nơi ở
cho nhiều loại côn trùng và chim. Các rừng lá rụng ngoài ra còn chứa
nhiều thành phần của họ gậm nhấm, trong đó chúng cấp thức ăn cho linh
miêu, chó sói, và cáo (foxes). Ngoài ra vùng này là nơi ở của nai và gấu
đen. Mùa Đông ở đây không lạnh như ở rừng phương bắc, vì vậy mà
nhiều loài bò sát và lưỡng thê có khả năng sống sót.
13
Nguồn: Botanical society of America
Đồng cỏ
(Grasslands)

Các đồng cỏ xuất hiện trong vùng nhiệt đới và ôn đới với lượng
mưa thấp hay mùa khô kéo dài. Các đồng cỏ xuất hiện ở Mỹ, Châu Phi,
Châu Á, và Úc. Đất ở vùng này rất dày và phì nhiêu, vì vậy rất phù hợp
cho nông nghiệp. Các đồng cỏ hoàn toàn không có cây gỗ, và có thể cung
cấp lượng cỏ lớn cho các loài động vật ăn cỏ. Các đồng cỏ tự nhiên đã
từng bao phủ hơn 40% bề mặt trái đất.
Hầu hết các đồng cỏ ngày nay được sử dụng cho phát triển mùa
màng, đặc biệt lúa mỳ và ngô. Các loài cỏ là thực vật chiếm ưu thế, trong
khi đó động vật ăn cỏ và các loài đào hang là động vật chiếm ưu thế.
Các đồng cỏ ôn đới bao gồm các thảo nguyên ở Nga, Các đồng
hoang ở Nam Mỹ, và các đồng cỏ (prairies) ở Bắc Mỹ. Đời sống của động
vật bao gồm chuột, chó đồng, thỏ, và các động vật khác sử dụng nhóm này
làm thức ăn. Các đồng cỏ chứa một lượng cỏ lớn cho trâu bò và loài linh
dương sừng dài, nhưng với những hoạt động của con người, một lượng lớn
đồng cỏ đã bị suy thoái.
Vùng cây bụi thấp (savanna) là một dạng đồng cỏ của nhiệt đới
nhưng có một vài cây gỗ. Savanna chứa nhiều loài động vật ăn cỏ nhất
(linh dương sừng dài, ngựa vằn, linh dương đầu bò và một số các loài
khác). Môi trường ở đây cung cấp một quần thể lớn các loài ăn thịt như sư
tử, báo ghepa (cheetahs), linh cẩu, và báo (leopards). Các thực vật nhỏ hơn
14
Nguồn: Botanical society of America
Nguồn: Botanical society of America
không bị tiêu thụ bởi các loài ăn cỏ, chúng bị tấn công bởi mối và các loài
phân hủy khác.
Cây bụi (Shrubland, Chaparral)
Sinh cảnh cây bụi
được ưu thế bởi các cây bụi
nhưng lá nhỏ có màu xanh
đậm thường có màng dày,

biểu bì có sáp, và thân dưới
đất dày vì vậy có thể chống
chịu vào mùa hè khô và hay
cháy. Một số loài cây lá tiêu
giảm và phát triển thành
gai. Các vùng cây bụi xuất
hiện một phần ở Nam Mỹ,
phía Tây Úc, miền trung
Chile, và xung quanh biển
Địa Trung Hải. Cây bụi dày
đặc ở California, ở đó mùa hè nóng và rất khô, được gọi là chaparral. Loại
cây bụi ở Địa Trung Hải thiếu một tầng dưới và có lớp mùn rác ở bề mặt
đất do vậy cũng rất dễ cháy. Hạt của nhiều loài có đòi hỏi về sức nóng và
hoạt động tạo sẹo do lửa để kích thích sự nảy mầm. Khu hệ động vật rất
khác nhau giữa các vùng trong biome này và thường có tính đặc hữu.
Sa mạc (Deserts)
Các
sa
mạc
được
đặc
trưng
bởi
điều
kiện
khô

biên
độ
15

Nguồn: Botanical society of America
nhiệt lớn. Không khí khô dẫn đến biên độ nhiệt độ rộng vào ban ngày.
Hoang mạc khác nhau nhiều phụ thuộc vào lượng mưa, khoảng dưới 250
mm/năm. Một số hoang mạc khô đến nổi không có một loài thực vật nào
có thể sống được. Ví dụ sa mạc Naomid ở Châu Phi, sa mạc Atacama-
Sechura ở Chi lê và Pêru.
Các loài cây trong sinh cảnh này đã phát sinh một loạt các thích
nghi để lấy nước và chống chịu với điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt. Như
cây có rể sâu để hút nước, lá biến thành gai nhọn,… Số loài động vật ít,
động vật có xương sống cở lớn như lạc đà một bướu, linh dương, báo, sư
tử,… Các loài gậm nhấm trong đất (chuột túi và chuột đàn) rất phong phú.
Hầu hết các loài chim là chim chạy. Trong số các loài sâu bọ cánh cứng,
họ Tenebrinidae chiếm ưu thế và là những loài đặc trưng của sa mạc. Sự
thích ứng của động vật với đời sống hoang mạc rất rõ, biểu hiện ở những
đặc điểm chống khô nóng. Ngoài ra có hiện tượng di cư theo mùa, ngủ hè
hay dự trữ thức ăn, sinh sản đồng loạt vào thời kỳ có độ ẩm cao.
Rừng lá kim (Taiga, Boreal Forest)
Rừng lá kim phân bố rộng ở hầu hết các vùng phía Bắc của Bắc Âu
và Bắc Mỹ. Ngoài ra, rừng này còn có vành đai xuất hiện ở một vài nơi
khác, ở đó có các tên gọi khác nhau: khi nó ở gần các đỉnh núi gọi là rừng
lá kim ở núi; và rừng mưa ôn đới dọc theo bờ biến Thái Bình Dương cho
đến Nam California. Lượng mưa thấp khoảng 100 đến 400 mm/năm và có
mùa sinh trưởng ngắn. Mùa đông lạnh và ngắn, trong khi đó mùa hè có xu
16
hướng ấm. Rừng lá kim đặc trưng bởi các loài cây thẳng như Vân sam,
Lãnh sam, Thiết sam và Thông. Các loài cây gỗ này có lá và vỏ bảo vệ
dày, cũng như lá có dạng kim có thể chịu đựng trọng lượng của tuyết tích
tụ lại. Các khu rừng lá kim hạn chế với các loài cây tầng thấp, và bề mặt
đất được bao phủ bởi một lớp rêu và địa y. Thông, Tùng-bách, cây Dương
đỏ, cây Phong và cây Phi lao là những loài cây phổ biến; chó sói, gấu Mỹ

và tuần lộc là các loài động vật phổ biến. Tính ưu thế của một số loài được
thể hiện rõ ràng, nhưng tính đa dạng thấp khi so sánh với các khu sinh
quyển ôn đới và nhiệt đới.
Các khu sinh học ở nước
Môi trường nước ít khắc nghiệt hơn so với môi trường trên cạn.
Các sinh vật thuỷ sinh bơi lội trong nước nhờ vào lực đẩy của nước và
không phải đối phó với tình trạng khô hạn. Các chất dinh dưỡng hoà tan
chi phối sự phân bố của các sinh vật. Các khu sinh học ở nước được chia
thành khu sinh học nước ngọt và khu sinh học biển.
Khu sinh học biển:
Khu sinh học biển chứa nhiều muối hoà tan hơn khu sinh học nước
ngọt. Có hai phân hạng trong khu sinh học này đó là quần xã sống đáy và
quần xã sống trong tầng nước. Theo độ sâu, quần xã sống đáy được chia
thành vùng ven bờ và vùng sâu. Quần xã sống trong tầng nước được chia
thành quần xã sống trôi nổi và quần xã tự bơi. Tầng nước từ 200 mét trở
lên có ánh sáng xâm nhập vào được gọi là tầng giàu dinh dưỡng.
Khu sinh học nước ngọt:
Khu sinh học nước ngọt được chia thành 2 vùng là khu sinh học
nước chảy và khu sinh học nước đứng. Nước trong các thuỷ vực nước ngọt
lớn thường có sự phân tầng nhiệt độ. Ở một số hồ lớn vùng ôn đới thường
có hiện tượng chu chuyển nước theo mùa, nhờ đó các chất dinh dưỡng
được đưa từ tầng sâu lên tầng mặt, giúp cho sự phát triển của các sinh vật
nổi trong hồ.
2.2. Vai trò của đa dạng sinh học
2.2.1. Những giá trị kinh tế trực tiếp
2.2.1.1. Giá trị cho tiêu thụ:
Bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày như củi
đốt và các loại sản phẩm khác cho các mục tiêu sử dụng như tiêu dùng cho
17
gia đình và không xuất hiện ở thị trường trong nước và quốc tế. Những sản

phẩm này không đóng góp gì vào giá trị GDP vì chúng không được bán
cũng như không được mua.
Những nghiên cứu về những xã hội truyền thống tại các nước đang
phát triển cho thấy cộng đồng cư dân bản địa khai thác, sử dụng nguồn tài
nguyên xung quanh như củi đun, rau cỏ, hoa quả, thịt cá, dược phẩm và
nguyên vật liệu xây dựng. Ví dụ 80% dân số trên thế giới vẫn dựa vào
những dược phẩm mang tính truyền thống lấy từ các loài động vật, thực
vật để sử dụng để sơ cứu ban đầu khi họ bị nhiễm bệnh. Trên 5.000 loài
được dùng cho mục đích chửa bệnh ở Trung Quốc, Việt Nam và khoảng
2.000 loài được dùng tại vùng hạ lưu sông Amazon.
Một trong những nhu cầu không thể thiếu được của con người là
protein, nguồn này có thể kiếm được bằng săn bắn các loài động vật hoang
dã để lấy thịt. Trên toàn thế giới, 100 triệu tấn cá, chủ yếu là các loài
hoang dã bị đánh bắt mỗi năm. Phần lớn số cá này được sử dụng ngay tại
địa phương
2.2.1.2. Giá trị sử dụng cho sản xuất:
Là giá bán cho các sản phẩm thu lượm được từ thiên nhiên trên thị
trường trong nước và ngoài nước. Sản phẩm này được định giá theo các
phương pháp kinh tế tiêu chuẩn và giá được định là giá mua tại gốc,
thường dưới dạng sơ chế hay nguyên liệu. Ví dụ, hàng năm tiền thu mua
vỏ quế ở Việt Nam khoảng 1 triệu đôla, còn tiền bán các loại thuốc chế
biến từ vỏ quế khoảng 2,5 triệu đôla. Tại thời điểm hiện nay, gỗ là một
trong những sản phẩm bị khai thác nhiều nhất từ rừng tự nhiên với giá trị
lớn hơn 100 tỷ đôla mỗi năm. Những sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ còn
có động vật hoang dã, hoa quả, nhựa, dầu, mây và các loại cây thuốc.
Giá trị sử dụng cho sản xuất lớn nhất của nhiều loài là khả năng
của các loài đó cung cấp những nguyên vật liệu cho công nghiệp, nông
nghiệp và là cơ sở để cải tiến cho các giống cây trồng trong nông nghiệp.
Sự phát triển các giống mới có thể mang lại những kết quả kinh tế to lớn.
Ví dụ, việc phát hiện một loài cây lưu niên có họ hàng với ngô tại Tây

Mehicô đáng giá hàng tỷ đôla vì nó lai tạo giống ngô có thể trồng nhiều
năm mà không cần gieo trồng hàng năm nữa. Những loài hoang dã có thể
có thể dùng như những tác nhân phòng trừ sinh học.
18
Thế giới tự nhiên là nguồn vô tận cung cấp những nguồn loại dược
phẩm mới. 25% các đơn thuốc ở Mỹ có sử dụng các chế phẩm được điều
chế từ cây, cỏ
2.2.2. Những giá trị kinh tế gián tiếp
Những giá trị kinh tế gián tiếp là những khía cạnh khác của đa
dạng sinh học như các quá trình xảy ra trong môi trường và các chức năng
của hệ sinh thái là những mối lợi không thể đo đếm được và nhiều khi là
vô giá. Do những lợi ích này không phải là hàng hoá hay là dịch vụ, nên
thường không được tính đến trong quá trình tính toán giá trị GDP của
quốc gia. Tuy vậy, chúng có vai trò rất quan trọng trong công việc duy trì
những sản phẩm tự nhiên mà nền kinh tế của các nước đó phụ thuộc. Nếu
như các hệ sinh thái tự nhiên không còn khả năng cung cấp những lợi ích
như vậy thì phải tìm những nguồn tài nguyên thay thế khác thường đắt
hơn nhiều.
2.2.2.1. Giá trị sử dụng không cho tiêu thụ:
Các quần xã sinh vật mang lại hàng loạt các hình thức dịch vụ môi
trường mà không bị tiêu thụ trong quá trình sử dụng. Giá trị không tiêu thụ
này đôi khi có thể tính toán dễ dàng như trong trường hợp giá trị của
những loài côn trùng thụ phấn cho cây trồng. Sự xác định những giá trị
dịch vụ sinh thái khác có thể còn khó hơn nhất là trên phạm vi toàn cầu.
Sau đây là một phần các lợi nhuận do đa dạng sinh học mang lại nhưng
thường không được tính trong các bảng báo cáo đánh giá tác động môi
trường hay trong các tính toán GDP.
Khả năng sản xuất của hệ sinh thái: khoảng 40% sức sản xuất của
hệ sinh thái trên cạn phục vụ cho cuộc sống của con người. Tương tự như
vậy, ở những vùng cửa sông, dãi ven biển là nơi những thực vật thuỷ sinh

và tảo phát triển mạnh, chúng là mắt xích đầu tiên của hàng loạt chuỗi
thức ăn tạo thành các hải sản như trai, sò, tôm cua,
Bảo vệ tài nguyên đất và nước: các quần xã sinh vật có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ rừng đầu nguồn, những hệ sinh thái vùng
đệm, phòng chống lũ lụt và hạn hán cũng như việc duy trì chất lượng
nước.
19
Điều hoà khí hậu: quần xã thực vật có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc điều hoà khí hậu địa phương, khí hậu vùng và ngay cả khí hậu
toàn cầu.
Phân huỷ các chất thải: các quần xã sinh vật có khả năng phân huỷ
các chất ô nhiễm như kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải sinh
hoạt khác đang ngày càng gia tăng do các hoạt động của con người.
Những mối quan hệ giữa các loài: nhiều loài có giá trị được con
người khai thác, nhưng để tồn tại, các loài này lại phụ thuộc rất nhiều vào
các loài hoang dã khác. Nếu những loài hoang dã đó mất đi, sẽ dẫn đến
việc mất mát cả những loài có giá trị kinh tế to lớn. Một trong những quan
hệ có ý nghĩa kinh tế lớn lao nhất trong các quần xã sinh vật là mối quan
hệ giữa cây rừng, cây trồng và các sinh vật phân giải sống trong đất, phân
huỷ các chất hữu cơ, cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng.
Nghỉ ngơi và du lịch sinh thái: mục đích chính của các hoạt động
nghỉ ngơi là việc hưởng thụ mà không làm ảnh hưởng đến thiên nhiên thông
qua những hoạt động như đi thám hiểm, chụp ảnh, quan sát chim, thú, câu
cá. Du lịch sinh thái là một ngành du lịch không khói đang dần dần lớn
mạnh tại nhiều nước đang phát triển, nó mang lại khoảng 12 tỷ đôla năm
trên toàn thế giới. Trước đây khi tình hình xã hội còn ổn định, Ruanda đã
biến ngành du lịch xem khỉ đột (Gorilla) trở thành ngành công nghiệp thu
được lợi nhuận ngoại tệ đứng thứ ba so với các ngành khác. Đầu những năm
1970, người ta ước tính rằng mỗi con sư tử ở Vườn Quốc gia Amboseli của
Kenia có thể mang lại 27.000 đôla/năm từ khách du lịch, còn đàn voi mang

lại trị giá 610.000 đôla/năm.
Giá trị giáo dục và khoa học: nhiều sách giáo khoa đã biên soạn,
nhiều chương trình vô tuyến và phim ảnh đã được xây dựng về chủ đề bảo
tồn thiên nhiên với mục đích giáo dục và giải trí. Một số lượng lớn các nhà
khoa học chuyên ngành và những người yêu thích sinh thái học đã tham
gia các hoạt động quan sát, tìm hiểu thiên nhiên. Các hoạt động này mang
lại lợi nhuận kinh tế cho khu vực nơi họ tiến hành nghiên cứu khảo sát;
nhưng giá trị thực sự không chỉ có vậy mà còn là khả năng nâng cao kiến
thức, tăng cường tính giáo dục và tăng cường vốn sống cho con người.
Quan trắc môi trường: những loài đặc biệt nhạy cảm với những
chất độc có thể trở thành hệ thống chỉ thị báo động rất sớm cho những
quan trắc hiện trạng môi trường. Một số loài có thể được dùng như những
công cụ thay thế máy móc quan trắc đắt tiền. Một trong những loài có tính
20
chất chỉ thị cao là địa y sống trên đá hấp thụ những hoá chất trong nước
mưa và những chất gây ô nhiễm trong không khí. Thành phần của quần xã
địa y có thể dùng như chỉ thị sinh học về mức độ ô nhiễm không khí. Các
loài động vật thân mềm như trai sò sống ở các hệ sinh thái thuỷ sinh có thể
là những sinh vật chỉ thị hữu hiệu cho quan trắc môi trường.
2.2.2.2. Giá trị lựa chọn
Giá trị lựa chọn của một loài là tiềm năng của chúng để cung cấp
lợi ích kinh tế cho xã hội loài người trong tương lai. Do những nhu cầu
của xã hội luôn thay đổi, nên phải có một giải pháp nào đó để bảo đảm an
toàn. Một trong những giải pháp đó là phải dựa vào những loài động, thực
vật trước đây chưa được khai thác. Những chuyên gia về côn trùng tìm
kiếm những loài côn trùng có thể sử dụng như các tác nhân phòng trừ sinh
học; các nhà vi sinh vật học tìm kiếm những loài vi khuẩn có thể trợ giúp
cho các quá trình nâng cao năng suất sản xuất; các nhà động vật học lựa
chọn các loài có thể sản xuất nhiều protein; các cơ quan y tế. chăm sóc sức
khỏe và các công ty dược phẩm đang có những nổ lực rất lớn để tìm kiếm

các loài có thể cung cấp những hợp chất phòng chống và chữa bệnh cho
con người.
2.2.2.3. Giá trị tồn tại
Nhiều người trên thế giới đã biết tôn trọng cuộc sống hoang dã và
tìm cách bảo vệ chúng. Con người có nhu cầu được tham quan nơi sinh
sống của một loài đặc biệt và được nhìn thấy nó trong thiên nhiên hoang
dã bằng chính mắt mình. Các loài như gấu trúc, sư tử, voi và rất nhiều loài
chim khác lại càng đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của con người. Giá trị tồn
tại như thế luôn luôn gắn liền với các quần xã sinh vật của những khu rừng
mưa nhiệt đới, các rạn san hô và những khu vực có phong cảnh đẹp. Kinh
phí để bảo vệ đa dạng sinh học, nhất là tại các nước đang phát triển lên tới
hàng triệu nếu không nói là cả tỷ đô la mỗi năm. Số tiền này cũng nói lên
tầm quan trọng của giá trị tồn tại của các loài và các quần xã.
2.2.2.4. Những khía cạnh mang tính đạo đức
Dựa trên những ý tưởng về đạo đức, vấn đề bảo tồn tất cả các loài
được đặt ra mà không tính đến giá trị kinh tế của chúng. Những khẳng
định sau đây là rất quan trọng cho sinh học bảo tồn vì chúng đưa ra những
21
nguyên nhân tại sao chúng ta phải bảo vệ sự tồn tại của tất cả các loài
trong đó có những loài có giá trị kinh tế không cao.
Mỗi một loài đều có quyền tồn tại: tất cả các loài đều có quyền tồn
tại. Trên cơ sở đó, sự tồn tại của các loài phải được bảo đảm mà không cần
tính đến sự phong phú hay đơn độc hoặc có tầm quan trong đối với con
người hay không. Tất cả các loài là một phần của tạo hoá và đều có quyền
được tồn tại như con người ở trên trái đất này. Con người không những
không có quyền làm hại các loài khác mà còn có trách nhiệm bảo vệ sự
tồn tại của chúng.
Tất cả các loài đều quan hệ với nhau: giữa các loài có một quan hệ
chằng chịt và phức tạp, là một phần của các quần xã tự nhiên. Việc mất
mát của một loài sẽ có ảnh hưởng đến các thành viên khác trong quần xã.

Cho nên, chúng ta ý thức được sự cần thiết bảo tồn các loài, bảo tồn đa
dạng sinh học cũng chính là bảo vệ mình. Khi thế giới tự nhiên đạt được
sự phồn thịnh, cuộc sống của con người cũng được phồn thịnh và bền
vững.
Con người phải sống trong một giới hạn sinh thái như các loài khác:
tất cả các loài trên thế giới bị giới hạn bởi khả năng sức tải của môi trường
sống. Mỗi một loài sử dụng nguồn tài nguyên trong môi trường để tồn tại và
số loài sẽ bị suy giảm khi những nguồn tài nguyên này bị huỷ hoại và cạn kiệt
đi. Con người phải hành động rất thận trọng để hạn chế những ảnh hưởng có
hại gây ra cho môi trường tự nhiên. Những ảnh hưởng tiêu cực không chỉ gây
hại đối với các loài mà còn gây hại đến chính bản thân con người.
Con người phải chịu trách nhiệm như những người quản lý trái
đất: nếu như chúng ta làm tổn hại đến những nguồn tài nguyên thiên nhiên
trên trái đất và làm cho các loài bị đe dọa tuyệt chủng thì những thế hệ tiếp
theo sẽ phải trả giá bằng một cuộc sống có chất lượng thấp. Do vậy, con
người ngày nay phải biết sử dụng các nguồn tài nguyên một cách khôn
ngoan, tránh gây tác hại cho các loài và các quần xã sinh vật.
Sự tôn trọng cuộc sống con người và sự đa dạng văn hoá phải
được đặt ngang tầm với sự tôn trong đa dạng sinh học: việc đánh giá cao
giá trị đa dạng văn hoá và thế giới tự nhiên làm cho con người biết tôn
trọng hơn đối với tất cả sự sống phong phú và phức tạp của nó. Những cố
gắng đem lại hoà bình cho toàn thể các dân tộc trên thế giới và chấm dứt
tình trạng nghèo khó, bạo lực và phân biệt chủng tộc sẽ mang lại lợi ích
cho loài người và cho cả đa dạng sinh học. Những hành động bạo lực
22
trong xã hội loài người là một trong những hình thức khốc liệt tàn phá đa
dạng sinh học.
Thiên nhiên có những giá trị tinh thần và thẩm mỹ vượt xa giá trị
kinh tế của nó: trong lịch sử, những nhà sáng lập ra tôn giáo, những nhà
thơ, nhà văn, những nghệ sĩ và nhạc sĩ đã thể hiện những cảm hứng do họ

nhận được từ thiên nhiên. Đối với nhiều người, để có được những cảm
hứng như thế họ cần phải sống với một môi trường thiên nhiên hoang sơ,
chưa bị tác động bởi con người. Hầu như ai cũng hào hứng và thích thú
khi được chiêm ngưỡng thế giới nguyên khai hoang dã và những phong
cảnh đẹp. Nhiều người coi trái đất như là một sản phẩm kỳ diệu của tạo
hoá với những điều linh thiêng cần được tôn trọng theo phong cách riêng.
Đa dạng sinh học là cốt lõi đế xác định nguồn gốc sự sống: hai
trong số những huyền thoại chính của thế giới triết học và khoa học là sự
sống được hình thành như thế nào và tại sao lại có sự đa dạng sinh học
như ngày nay. Hàng ngàn chuyên gia sinh học tìm hiểu, nghiên cứu những
vấn đề này và ngày càng đang tiến dần đến câu trả lời. Tuy vậy khi các
loài bị tuyệt chủng có nghĩa là mất đi những mắt xích quan trọng và huyền
thoại đó khó tìm được lời giải.
23

×