Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Quyền tác giả và quyền liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.51 KB, 9 trang )

A. Lý thuyết
Hệ thống các quy định về quyền tác giả bảo vệ quyền của những người sang tạo
và chủ sở hữu các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhằm khuyến khích các
hoạt động sang tạo, phục vụ nhu cầu hươngt thụ văn hóa cũng như các nhu cầu khác
của đông đảo công chúng. Bên cạnh những tác phẩm mà công chúng có thể tự tiếp
nhận, hưởng thụ, có một bộ phận tác phẩm chỉ có thể được truyền tải đến công chúng
thông qua một đội ngũ trung gian, đó là những người biểu diễn, nhà sản suất bản ghi
âm, ghi hình và tổ chức phát thanh, truyền hình.
Hoạt động sử dụng tác phẩm của những người này mang tính chất hoàn toàn khác
với việc công chúng sử dụng. Đó là hoạt động mang tính chất chuyên nghiệp, có kỹ
năng, có tính sáng tạo và có mục đích lợi nhuận để phổ biến đến công chúng. Để thực
hiện hoạt động này họ phải đầu tư trí tuệ, tiền bạc. Vì vậy, họ - những người hỗ trợ
tích cực cho việc đưa tác phẩm đến với công chúng cũng cần được sự bảo vệ thỏa đáng
về pháp luật. Và các quy định của pháp luật để bảo vệ những quyền lợi đó của họ được
gọi là “quyền liên quan”.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền liên quan đến quyền tác giả được
quy định trong Phần thứ hai “Quyền tác giả và quyền liên quan” trong Luật Sở hữu trí
tuệ.
B. Hai vụ việc tranh chấp quyền liên quan đến quyền tác giả
I. Vụ việc thứ nhất
1. Diễn biến vụ tranh chấp
Theo báo điện tử Pháp luật TPHCM, mới đây, ca sĩ Mỹ Tâm đã yêu cầu nhiều
công ty viễn thông và hàng chục mạng nhạc số không được kinh doanh các bản nhạc
chuông, nhạc chờ có sử dụng các bài hát do ca sĩ thể hiện hoặc phải trả ca sĩ tiền về
quyền liên quan.
1
Về yêu cầu này, một số công ty cho rằng họ không phải trả tiền cho người biểu
diễn mà chỉ trả cho hãng sản xuất băng đĩa và họ đã trả qua Hiệp hội Công nghiệp ghi
âm Việt Nam (RIAV).
Mỹ Tâm khẳng định chưa bao giờ ký hợp đồng chuyển giao quyền của người
biểu diễn cho bất cứ hãng băng đĩa nào. Vì vậy, việc một số hãng băng đĩa nói rằng họ


có quyền sở hữu các cuộc biểu diễn của ca sĩ là sai pháp luật.
Các hãng băng đĩa liên quan trong vụ việc này và RIAV lại cho rằng, căn cứ vào
điều 29.1 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT), toàn bộ các bản ghi âm/ghi hình này thuộc
quyền sở hữu của các nhà sản xuất, còn Mỹ Tâm chỉ có các quyền nhân thân, vì các
bản ghi âm/ghi hình đều do họ đầu tư, ca sĩ chỉ biểu diễn để ghi âm/ghi hình và đã
nhận đủ tiền thù lao.
Vậy thực tế ai đúng ai sai? Pháp luật Việt Nam nên bảo vệ cho bên nào? Chúng ta
cần phân tích để làm rõ vấn đề, đây là một trong những tranh chấp xảy ra tương đối
nhiều ở các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
2. Các chủ thể
Người biểu diễn: Mỹ Tâm
Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình: các hãng băng đĩa liên quan và Hiệp hội Công
nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV).
- Đối tượng: bản nhạc chuông, nhạc chờ do ca sỹ Mỹ Tâm thể hiện.
3. Phân tích và phương hướng giải quyết của nhóm
Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ thì quyền của người biểu diễn gồm có
quyền nhân thân và quyền tài sản. Khi xác định người biểu diễn được hưởng các quyền
nào trong các quyền nói trên thì phải căn cứ vào tư cách chủ thể đối với cuộc biểu
diễn. Khoản 1 Điều 29 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “ Người biểu diễn đồng thời là
2
chủ đầu tư thì có các quyền nhân thân và các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn;
trong trường hợp người biểu diễn không đồng thời là chủ đầu tư thì người biểu diễn có
các quyền nhân thân và chủ đầu tư có các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn”. Và
khoản 2 Điều 44 quy định: “ Tổ chức, cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ
sở vật chất – kỹ thuật của mình để thực hiện cuộc biểu diễn thì chủ sở hữu đối với
cuộc biểu diễn đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, người biểu diễn có
thể mang một trong hai tư cách: hoặc là chủ sở hữu quyền liên quan hoặc là chỉ mang
tư cách người biểu diễn. Nếu người biểu diễn tự mình đầu tư tài chính và cơ sở thực
hiện cuộc biểu diễn thì họ là người biểu diễn đồng thời là chủ sở hữu quyền liên quan
đối với cuộc biểu diễn đó; khi đó họ có tất cả các quyền nhân thân và quyền tài sản.

Nếu do người khác đầu tư tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật để thực hiện cuộc biểu diễn
đó thì chủ sở hữu quyền liên quan là tổ chức, cá nhân đầu tư; khi đó người biểu diễn
chỉ có các quyền nhân thân.
Trong trường hợp này, Mỹ Tâm là người biểu diễn được các nhà sản xuất( hội
viên RIAV) mời đến để biểu diễn để ghi âm, ghi hình và đã nhận đủ tiền thù lao; và nhà
sản xuất đầu tư toàn bộ. Có thể xác định tư cách của Mỹ Tâm chỉ là người biểu diễn,
không phải là chủ sở hữu quyền liên quan cuộc biểu diễn. Các nhà sản xuất (hội viên
RIAV) mới là chủ sở hữu quyền liên quan. Cho nên Mỹ Tâm chỉ có các quyền nhân
thân, không có các quyền tài sản. Quyền tài sản thuộc về chủ sở hữu quyền liên quan
cuộc biểu diễn- nhà sản xuất.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật SHTT: “ Tổ chức. cá nhâ sử
dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất- kỹ thuật của mình để sản xuất bản
ghi âm, ghi hình là chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó, trừ trường hợp có thoả
thuận khác”. Như vậy, có thể xảy ra hai khả năng:
- Nếu nhà sản xuất ghi âm, ghi hình là người đầu tư tài chính, cơ sở kỹ thuật để
sản xuất bản ghi thì họ sẽ là chủ sở hữu bản ghi đó.
3
- Trường hợp tổ chức sản xuất băng đĩa được người khác thuê để ghi âm, ghi hình
thì người trả tiền thuê là chủ sở hữu bản ghi đó.
Ở đây các nhà sản xuất ( hội viên RIAV) là người đầu tư tài chính, cơ sở kỹ thuật
để sản xuất bản ghi nên là chủ sở hữu đối với bản ghi đó. Nên RIAV là chủ sở hữu
quyền liên quan có các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. RIAV- nhà sản xuất bản
ghi âm ghi hình, được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm, ghi hình của mình được
phân phối đến công chúng (theo Điểm 2 Điều 30) và được chuyển nhượng quyền liên
quan. Theo Khoản 1 Điều 45 thì:
“1. Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác
giả, chủ sở hữu quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền quy định
tại khoản 3 Điều 19, Điều 20, khoản 3 Điều 29, Điều 30 và Điều 31 của Luật này cho tổ
chức, cá nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan”.
Và Theo Khoản 4 Điều 47 thì “ tổ chức, cá nhân được chuyển quyền sử dụng

quyền tác giả, quyền liên quan có thể chuyển quyền sử dụng cho tổ chức, cá nhân khác
nếu được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan”
Khi RIAV chuyển nhượng quyền sử dụng quyền liên quan cho các công ty viễn
thông và nhà mạng thì các công ty viễn thông và nhà mạng có quyền sử dụng bản ghi
âm, ghi hình mà không phải trả tiền cho ca sỹ Mỹ Tâm. Như vậy, trong vụ việc trên
RIAV và các hãng băng đĩa liên quan có quyền sở hữu đối với toàn bộ các bản ghi âm,
ghi hình này, còn Mỹ Tâm chỉ có quyền nhân thân vì các bản ghi âm, ghi hình đều do
họ đầu tư, ca sĩ chỉ biểu diễn để ghi âm, ghi hình và đã nhận đủ tiền thù lao.
Bởi những lẽ trên, theo nhóm chúng tôi, việc công ty TNHH thương mại Mỹ Tâm
gửi thông báo cho các đối tác của RIAV( các công ty viễn thông và nhà mạng) đòi
thanh toán tiền cho ca sỹ Mỹ Tâm mà họ đã ký hợp đồng với RIAV khai thác kinh
4
doanh các bản ghi âm do ca sỹ mỹ tâm thực hiện biểu diễn là không đủ cơ sở pháp lý.
Do đó các công ty viễn thông và nhà mạng không phải trả tiền cho Mỹ Tâm.
II. Vụ việc thứ hai
1. Diễn biến vụ tranh chấp
- Năm 2008, Công ty Ảnh Vương đã nộp đơn kiện Công ty Phượng Tùng ra
TAND TP.HCM vì cho rằng “đối thủ” đã xâm phạm đến quyền phát sóng độc quyền,
làm thiệt hại 100% tiền mua bản quyền của mình. Tuy nhiên, đeo được một thời gian,
nguyên đơn đã rút yêu cầu…
- Trước đó nguyên đơn(Công ty Ảnh Vương ) có trình bày như sau :
+ Công ty đã mua quyền phát hành bộ phim Hoàng Phi Hồng và Dì Thập Tam từ
Công ty San Yang (Mỹ). Vì thế, từ năm 2005 đến 2010, công ty được độc quyền phát
hành phim trên truyền hình ở Việt Nam.
+ Đến đầu năm 2008, San Yang giao giấy chứng nhận bản quyền, chuyển hai bộ
phim trên cho Ảnh Vương để phát sóng trên Đài PT-TH Bình Dương… Tiếp đó, sau
khi đã nhận ủy thác nhập khẩu của Ảnh Vương, Trung tâm Dịch vụ PT-TH Bình
Dương đã nhập khẩu 40 đĩa phim này từ San Yang.
+ Nhưng trong khi Ảnh Vương đang làm thủ tục xin giấy phép phổ biến phim thì
Phượng Tùng lại cung cấp hai bộ này cho đài TH Bắc Giang, Bắc Ninh phát sóng vào

tháng 7, tháng 8-2008.
+Ảnh Vương liền khởi kiện, yêu cầu ngay lập tức đình chỉ phát sóng hai bộ phim
trên hai đài Bắc Ninh, Bắc Giang, đồng thời buộc Phượng Tùng bồi thường hơn 800
triệu đồng cho các khoản mua bản quyền, tổn thất cơ hội kinh doanh…
+ Ít lâu sau, Ảnh Vương lại cho rằng tháng 9-2008, Phượng Tùng tiếp tục xâm
phạm khi cho phát phim Đấu Sỹ Thiên Vương trên các đài Hà Nội 2, Hậu Giang, Kiên
Giang. Từ đó, Ảnh Vương thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, buộc Phượng Tùng bồi
thường gần 125 triệu đồng vi phạm quyền phát sóng bộ phim Hoàng Phi Hồng... Riêng
với vụ Đấu Sỹ Thiên Vương, Phượng Tùng phải bồi thường gần 700 triệu đồng. Tổng
cộng hai khoản là hơn 800 triệu đồng.
5

×