Tổng kết kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong giảng dạy môn địa lí lớp 7 Trương Hoài Phong
PHẦN 1:ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giữa con người và môi trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Từ khi
con người xuất hiện trên trái đất mối quan hệ đó là mối quan hệ hòa thuận.
Cùng với sự tiến bộ của xã hội loài người và theo thời gian dân số ngày một
tăng lên, nhu cầu của con người ngày càng phức tạp hơn. Cùng với sự hiểu biết
về môi trường không đầy đủ khiến cho mối quan hệ này trở nên “mâu thuẫn”.
Đầu thế kỷ XX, hàng loạt các sự cố về môi trường: Hiệu ứng nhà kính,
thủng tầng ô zôn, ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu toàn cầu ... Tình hình
đó đã đặt toàn nhân loại đứng trước một thảm họa môi trường được dự báo
trước, để khắc phục thảm họa đó nhiều cuộc hội thảo, hội nghị ở tầm cỡ quốc tế
đã diễn ra:
- Từ ngày mồng 5 đến ngày 16 tháng 6 năm 1972 Hội nghị Quốc tế về môi
trường và con người được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển).
- Từ ngày 13 đến ngày 22 tháng 10 năm 1975, IEEP đã tổ chức hội thảo Quốc
tế về giáo dục môi trường (GDMT) tại Bêôgrat.
- Tháng 11 – 1976 hội thảo môi trường ở châu Á được tổ chức tại Băng Cốc
(Thái Lan).
- Ngày 14 đến ngày 26 tháng 10 năm 1977 hội nghị quốc tế về GDMT được tổ
chức tại Tbilisi ( Gru dia ).
- Từ ngày 17 đến ngày 21 tháng 8 năm 1987 UNESCO và UNEP tổ chức hội
nghị Quốc tế về GDMT tại Matxcơva.
Tất cả những kì hội nghị, hội thảo trên mặc dù diễn ra trong khoảng thời
gian khác nhau nhưng đều có một điểm chung là nhấn mạnh mối quan hệ giữa
con người và sinh quyển trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục.
GDMT đã vượt ra khỏi biên giới chính trị, tư tưởng của các quốc gia trên thế
giới. Để bảo vê cái nôi sinh thành của mình, con người phải thực hiện hàng loạt
các vấn đề, trong đó có vấn đề GDMT.Cũng vì thế, ngày mùng 5 tháng 6 hàng
năm trở thành “Ngày môi trường thế giới”.
Ở nước ta ngày 15/11/2004 Bộ chính trị đã ra nghị quyết 41/NQ-TƯ về
bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nghị quyết đã xác định: “Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề
sống còn của nhân loại; là yếu tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống
của nhân dân, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”.
Một trong những giải pháp hàng đầu, đó là: Thường xuyên giáo dục, tuyên
truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần chúng, bảo vệ môi
trường. Việc giáo dục môi trường ở nhà trường phổ thông là một quá trình nhận
thức giúp các em hiểu biết về thiên nhiên và môi trường, từ đó giáo dục cho các
1
Tổng kết kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong giảng dạy môn địa lí lớp 7 Trương Hoài Phong
em ý thức quan tâm thường xuyên đến môi trường, dần dần hình thành ở các em
lòng yêu thích tôn trọng thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống, phong cảnh đẹp,
các di tích văn hoá lịch sử của đất nước.
Thực tế trong những năm giảng dạy cũng như dự giờ đồng nghiệp ở
trường THCS Thị Trấn Cái Bè và một số giờ dạy của đồng nghiệp ở các trường
khác trong huyện, tôi đã nhận thấy ý thức bảo vệ môi trường của đa số học sinh
chưa cao. Bên cạnh đó còn có tình trạng học sinh cho rằng bảo vệ môi trường là
trách nhiệm của chính quyền hoặc của người lớn.Thực trạng đó cho thấy công
tác GDMT còn rất hạn chế.
Từ những thực tế trên, với cương vị là một giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy bộ môn Địa Lí tôi rất băn khoăn là làm thế nào để tích hợp giáo dục môi
trường vào giảng dạy có hiệu quả, mang tính giáo dục cao, phù hợp với từng
khối lớp, từng đối tượng học sinh, gây được sự hứng thú học tập của học sinh,
nhưng lại không làm mất đi đặc trưng riêng của môn học. Từ suy nghĩ trên nên
tôi đã quyết định chọn và viết chuyên đề: “Giải pháp tích hợp giáo dục bảo vệ
môi trường vào giảng dạy một số bài Địa Lí 7 đạt hiệu quả”
Đã có không ít những tác giả đã đưa ra vấn đề này ở nhiều tác phẩm với
nhiều góc độ khác nhau:
- Lê Thông, Nguyễn Hữu Dũng trong cuốn “ Dân số môi trường và tài
nguyên “, Nhà xuất bản giáo dục – 2000.
- Tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Phi Hạnh, Đặng Văn Đức trong
cuốn “Giáo dục môi trường qua môn Địa Lí ở trường phổ thông”, Nhà xuất
bản Hà Nội – 2003.
- Tác giả Nguyễn Đình Khoa trong cuốn “Môi trường sống và con người”,
Nhà xuất bản Hà Nội – 1987.
Ngoài ra còn nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề môi trường ở nhiều góc
độ khác nhau.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả là hết sức to lớn. Song những vấn đề
đó được đề cập ở phạm vi rộng lớn và mang tính bao quát. Qua bài viết này, đối
tượng được lựa chọn là học sinh trường THCS Thị trấn Cái Bè với nhiệm vụ
chính là tìm hiểu thực trạng nhận thức bảo vệ môi trường của học sinh khối lớp
7. Đồng thời tìm hiểu những nguyên nhân và đưa ra những biện pháp cụ thể để
khắc phục thực trạng đó, thông qua những biện pháp tích hợp GDMT vào bài
giảng.
2
Tổng kết kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong giảng dạy môn địa lí lớp 7 Trương Hoài Phong
PHẦN 2:
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VẬN DỤNG.
A/ ĐẶC ĐIỂM VỀ MÔI TRƯỜNG:
1.1: Khái niệm về môi trường:
Khái niệm về “môi trường” là một khái niệm phức tạp có phạm vi rộng
lớn. Với bài tổng kết kinh nghiệm này chỉ nêu ra một số khái niệm ở những góc
độ dễ hiểu nhất. Theo nghĩa rộng nhất thì:” Môi trường là tổng hợp các điều
kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hay một sự kiện ”. Theo nghĩa
đen:“ Môi trường là một vùng vật lí và sinh học xung quanh loài người có mối
quan hệ chặt chẽ với con người”.
1.2: Các loại môi trường:
- Môi trường khí quyển.
- Môi trường nước.
- Môi trường đất.
- Môi trường sinh học.
- Môi trường đô thị.
B/ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG QUA MÔN ĐỊA LÍ LỚP 7.
1:Khái niệm về giáo dục:
Khái niệm giáo dục được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng: “Giáo dục bao
gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ thống các tác động sư phạm khác
diễn ra trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà trường cũng như trong gia đình
và ngoài xã hội”. Còn theo nghĩa hẹp:“ Giáo dục được hiểu như là quá trình
tác động tới thế hệ trẻ về mặt đạo đức tư tưởng và hành vi... nhằm hình thành
niềm tin, lí tưởng, động cơ, tinh cảm, thái độ và những thói quen hành vi cư
xử đúng đắn trong xã hội”.
2: Khái niệm GDMT:
Theo hội nghị GDMT ở Tbilisi, 1977:
“GDMT là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục. Nó nên được tập
trung vào những vấn đề thực tiễn và mang tính chất liên thông. Nó nên nhằm vào
xây dựng giá trị, đóng góp vào sự nghiệp phồn vinh của cộng đồng và liên quan
đến sự sống của nhân loại, ảnh hưởng của nó nên ở thời gian khởi đầu của
người học và liên quan đến môi trưởng của họ trong hoạt động. Nó nên được
hướng dẫn ở cả các môn học hiện tại và tương lai có liên quan”.
3: Các phương pháp GDMT:
- Phương pháp giảng thuật.
- Phương pháp giảng giải.
- Phương pháp đàm thoại.
.- Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan.
- Phương pháp thí nghiệm.
- Phương pháp gạn lọc các giá trị.
- Phương pháp thảo luận.
3
Tổng kết kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong giảng dạy môn địa lí lớp 7 Trương Hoài Phong
- Phương pháp đóng vai.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống.
- Phương pháp thực địa.
- Phương pháp động não.
Trên đây là những phương pháp cụ thể để thực hiện mục đích cuối cùng
là GDMT cho học sinh trên địa bàn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Thực trạng GDMT ở nhà trường:
Ngay từ năm 1960 vấn đề bảo vệ môi trường đã được đặt ra nghiêm túc
và đã được nghiên cứu để tích hợp vào chương trình dạy học ở các trường
THCS nhưng với mức độ còn hạn chế. Đầu thập kỉ 80 nội dung GDMT đã
được tích hợp vào chương trình giảng dạy các môn có nhiều khả năng tích
hợp, trong đó môn Địa Lí được coi là phù hợp nhất. Tuy nhiên chương trình
GDMT ở trường THCS nói riêng và các cấp bập học khác nói chung chưa
thống nhất. Các phương pháp GDMT còn nặng về cung cấp kiến thức hơn là
hình thành thái độ cảm xúc, hành vi quan tâm đến môi trường và vì môi
trường cho học sinh.
Thực trạng ý thức về môi trường của học sinh trường THCS Thị trấn Cái
Bè:
Mặc dù là một ngôi trường đóng chân trên địa bàn có mặt bằng dân trí
khá cao, nhưng ý thức về môi trường của các em còn ở mức độ mơ hồ.
Chẳng hạn như “ Không vào rừng chặt phá bừa bãi những cây gỗ lớn” là đã
bảo vệ môi trường, nhưng bên cạnh đó còn có rất nhiều vấn đề gần gũi như
bảo vệ khuôn viên trường học, đường làng ngõ xóm, trồng nhiều cây xanh...
đó là chưa kể nhìn ở góc độ xa hơn là thực trạng đốt rừng tự nhiên lấy đất
trồng hoa màu mà không đi đôi với công tác bảo vệ rừng và trồng thêm nhiều
rừng mới ...
Để nắm rõ về mức độ cụ thể bài tổng kết kinh nghiệm đã tiến hành điều
tra với một loạt các câu hỏi trắc nghiệm được tiến hành trên 100 học sinh kết
quả thu được như sau:
Lớp 7A % 7B % 7C %
Sĩ số lớp 35 100 32 100 33 100
Số lượng học sinh trả lời chưa
đạt
20 57,2 19 59,3 18 54,5
Số lượng học sinh trả lời đạt 15 42,8 13 40,7 15 45,5
Đây chỉ là những câu trắc nghiệm đơn giản nhưng tỉ lệ học sinh trả lời đúng
còn thấp. Qua đó chứng tỏ ý thức về môi trường của học sinh còn thấp.
CHƯƠNG 3: NHUYÊN NHÂN HẠN CHẾ TRONG Ý THỨC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG CỦA HỌC SINH VÀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC.
4
Tổng kết kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong giảng dạy môn địa lí lớp 7 Trương Hoài Phong
I/ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ TRONG Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA
HỌC SINH:
* Với học sinh: Khi đưa ra câu hỏi “ Em chưa thực sự tham gia vào
công tác bảo vệ môi trường là do đâu ? ”. Hầu hết đều có chung một câu trả
lời “ Em chẳng biết tham gia như thế nào, ai hướng dẫn”.Như vậy nhìn từ
phía học sinh nguyên nhân là do các em chưa hiểu được là phải làm gì để bảo
vệ môi trường, còn mơ hồ trong nhận thức, còn thờ ơ trước những thay đổi
theo chiều hướng tiêu cực của môi trường và quá quen với những phong tục
tập quán lạc hậu đã có từ lâu, dẫn đến ý thức về bảo vệ môi trường còn hạn
chế.
* Với nhà trường và các cấp có trách nhiêm: Chưa thật sự quan tâm,
giáo dục các em ý thức được rằng: môi trường ngày càng xấu đi và sự suy
giảm của các nguồn tài nguyên là một thực tế đang được báo động khẩn. Nhà
trường và các cấp chính quyền địa cũng chưa hề có những hướng dẫn cho các
em những việc cần làm cụ thể để bảo vệ môi trường.
II/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GDMT KHẮC PHỤC THỰC TRẠNG VỀ
MÔI TRƯỜNG Ở ĐỊA PHƯƠNG:
A./ BƯỚC CHUẨN BỊ:
.1: Mục tiêu và nội dung đề ra:
Công việc này tùy thuộc vào nội dung cụ thể của bài học đó. Nếu như bài
học tập trung vào phát triển các giá trị, quan điểm thì phương pháp đóng vai và
thảo luận là thích hợp. Còn nội dung dạy về môi trường trong quá khứ thì
phương pháp thực địa lại có hiệu quả hơn.
2: Đặc điểm của người học:
Đây là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp giảng dạy. Với học
sinh THCS khi dạy giáo viên có thể sử dụng các mô hình, mẫu vật. Với đặc
điểm mà bài tổng kết tiến hành người học chủ yếu là HS lớp 7do đó quá trình
giảng dạy thường diễn ra ở mức độ thấp hơn. Dù ở lứa tuổi nào đi nữa học sinh
cũng sẽ cảm thấy được cổ vũ nếu có sự tham gia của giáo viên trong quá trình
học tập.
3: Nguồn tài liệu:
Với giáo viên: Ngoài sách giáo khoa còn có sách giáo viên, bản đồ nên
sưu tầm một số tranh ảnh liên quan nơi học sinh đang sinh sống.
Với học sinh sách giáo khoa là nguồn tài liệu chính cùng với tập bản đồ
học sinh chủ động chuẩn bị ở nhà.
.4: Vai trò của nhà trường và địa phương:
Là một phần học đặc biệt, để tiết dạy có ý nghĩa thiết thực trong hoạt
động ngoại khóa nhà trường tạo điều kiện trong việc lựa chọn thời gian, phòng
học và chỉ đạo.
5
Tổng kết kinh nghiệm tích hợp giáo dục môi trường trong giảng dạy môn địa lí lớp 7 Trương Hoài Phong
Địa phương là một tiêu điểm để lựa chọn, thiết kế và thực hiện các bài
học liên quan đến nhu cầu và điều kiện sống, ngoài ra kinh nghiệm của nhân
dân cũng có tác dụng rất lớn.
B/PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GDMT TRONG ĐỊA LÝ 7:
I/ Hoạt đông nội khóa:
1: Phương pháp giảng thuật:
Với phương pháp này nặng về mô tả sự vật hiện tượng, bằng lời nói truyền
cảm giáo viên giáo dục cho học sinh lòng yêu thiên nhiên và có ý thức về môi
trường.
Ví dụ: Bài 9 “ Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở đới nóng ” – Địa lí 7.
Quan sát hình: 9.4, giáo viên giới thiệu nội dung của mỗi bức hình A, B, C, D.
Đặt câu hỏi “ Em hãy nêu quá trình thoái hóa đất do đốt rừng làm nương rẫy ở
đới nóng ?”.
Hình A B C D
Nội dung. Rừng nguyên
sinh.
Cây bụi . Trảng cỏ. Đất bạc
màu.
.2: Phương pháp giảng giải:
Chủ yếu của phương pháp này là dùng lời nói, để giải thích các vấn đề vạch ra
bản chất của mối quan hệ và nguyên nhân của chúng.
Ví dụ: “Khi dạy bài dân số và sức ép dân số tới tài nguyên môi trường ở đới
nóng”_ Địa lí 7. Nói đến hiện tượng cạn kiệt tài nguyên cần phải hình thành các
khái niệm:Tài nguyên phục hồi là tài nguyên có khả năng trở lại bình thường
nếu biết cách khai thác, bảo vệ( Tài nguyên rừng, tài nguyên đất ...). Còn tài
nguyên không phục hồi là tài nguyên được hình thành trong thời gian dài và
không có khả năng phục hồi ( Tài nguyên khoáng sản năng lượng, khoáng sản
kim lọai ...).
3: Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp này thường được sử dụng nhiều trong giảng dạy, với những câu
hỏi giả định “ Sẽ ra sao, nếu như, chẳng hạn như...”.
Ví dụ: Khi dạy bài“ Ô nhiễm môi trường ở đới ôn hòa”-Địa lí 7.
Cho học sinh quan sát hình: 17.3 “ Thủy triều đen ”, giáo viên sử dụng
phương pháp vây quanh “ Nguyên nhân - hậu quả ”. Ta có thể hình thành sơ
đồ như sau:
6
Không có hoạt
động công nghiệp
Cần nguồn năng
lượng mới
Hình thành công
nghiệp khác
Cần nguồn năng
lượng mới
ít ô nhiễm
Công việc
mới
ít ô
nhiễm