Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích Hai đứa trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.07 KB, 13 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN LỚP 11 HỌC KÌ I
a. “Hai đứa trẻ” - Thạch Lam
* Giá trị nội dung:
+ Giá trị hiện thức:
- Tác phẩm là bức tranh sinh động, chân thực về đời sống đói khát, cơ cực, quẩn quanh, bế tắc của người nông
dân phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
+ Giá trị nhân đạo:
- Truyện thể hiện sự đồng cảm, xót thương, chia sẻ của nhà văn đối với những kiếp người nghèo khổ, đói khát
của người dân phố huyện trong xã hội cũ.
- Nhà văn ca ngợi những vẻ đẹp bình dị trong tâm hồn những con người lao động.
- Nhà văn phát hiện và trân trọng những khao khát đổi đời, hi vọng vào cuộc sống tốt đẹp trong tương lai của
những kiếp người khốn khổ, lụi tàn.
* Nghệ thuật:
- Tác phẩm miêu tả bức tranh phố huyện nghèo theo trình tự thời gian tuyến tính: Chiều xuống, đêm về và lúc
chuyến tàu đi qua. Toàn bộ bức tranh phố huyện được nhìn qua tâm trạng của Liên – cô bé đảm đang, tốt bụng
với một tâm hồn đa cảm, từ đó thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam khi viết về thân phận con
người.
- Vận dụng thủ pháp đối lập, tương phản, đi sâu vào những cảm xúc mơ hồ, mong manh để miêu tả những diễn
biến nội tâm tinh tế, sâu sắc của nhân vật.
- Truyện không có cốt truyện nhưng vẫn hấp dẫn bởi Thạch Lam đã khéo léo chọn lọc chi tiết, hình ảnh tương
ứng, hài hòa ngoại cảnh với tâm trạng.
- Miêu tả tâm lí nhân vật một cách tinh tế.
- Truyện đan cài hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, trữ tình. Ngôn ngữ linh hoạt, nhẹ nhàng, đằm thắm, đậm
chất thơ.
b. “Chữ người tử tù” - Nguyễn Tuân
* Giá trị nội dung:
- Thông qua vẻ đẹp khí phách, tài hoa, tấm lòng của Huấn Cao, Nguyễn Tuân ngợi ca cái tài, cái tâm; đề cao
cái đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời. Ông kín đáo bày tỏ, gửi gắm tình yêu quê hương đất nước qua mẫu
nhân vật tài hoa, anh hùng. Lòng yêu nước của ông gắn liền với việc trân trọng, gìn giữ những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc (Nghệ thuật viết thư pháp).
* Giá trị nghệ thuật:


- Tình huống truyện độc đáo: Huấn cao là người tử tù nhưng lại đai diện cho thiên lương, là người nghệ sĩ ban
phát cái đẹp.Viên quản ngục là người đại diện cho chính quyền nhưng lại nhận được cái đẹp từ tay người tử tù.
Họ đã gặp nhau trong một hoàn cảnh oái oăm – nhà ngục. Sự gặp nhau của họ có thể xem là một cuộc tri ngộ
tri âm tri kỉ giữa những con người có tâm hồn nghệ sĩ, khao khát nghệ thuật chân chính. Chọn tình huống này,
Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật quản ngục trước sự lựa chọn có tính xung đột gay gắt: làm tròn bổn phận thì phải
chà đạp lên tấc lòng tri kỉ; hoặc trọn tình tri kỉ thì quay lưng về phía triều đình. Quản ngục hành động theo
hướng nào, tư tưởng của truyện sẽ nghiêng theo hướng ấy. Theo cách thứ nhất, chiến thắng sẽ thuộc về sự tầm
thường, đê tiện. Còn theo cách thứ hai thì cái đẹp sẽ chiến thắng. Quản ngục đã chọn cách thức hai và tất nhiên
Huấn Cao đã mở lòng ra để đón thêm một tri kỉ, tri âm của mình. Tình huống truyện đã làm nổi bật tính cách
của Huấn Cao, viên quản ngục và chủ đề tác phẩm cũng từ đó mà được sáng rõ.
- Cảnh cho chữ: Đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi cảnh cho chữ không diễn ra nơi thư phòng
sang trọng mà trong căn ngục thất tăm tối, chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Người tử tù ngày mai phải ra pháp
trường chịu án tử hình. Trong nhà tù đang có một sự đảo lộn vị trí: Người tử tù lại được kính trọng, ngưỡng mộ
còn kẻ cai tù thì “khúm núm”, “run run”; tù nhân răn dạy cai ngục, cai ngục vái lạy tù nhân. Qua cảnh cho chữ,
Nguyễn Tuân đã chứng minh: Ánh sáng chiến thắng bóng tối, cái đẹp chiến thắng sự xấu xa, nhơ bẩn, cái thiên
lương chiến thắng tội ác. Đây chính là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái nhân cách cao thượng của con người.
- Tạo không kí cổ xưa cho tác phẩm và nghệ thuật đối lập (bóng tối – ánh sáng, cái thiện – cái ác, cái cao cả -
cái thấp hèn, cái đẹp – sự tầm thường, đê tiện …).
c. “Chí Phèo” - Nam Cao
*Giá trị nội dung:
+ Giá trị hiện thực:
- Tác phẩm phản ánh mâu thuẫn gay gắt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đó là
mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị và nhất là mâu thuẫn giữa nông dân lao động bị áp bức với địa chủ,
tay sai độc ác, tàn bạo.
- Tác phẩm phán ánh chân thực, sinh động số phận bi thảm của người nông dân bị đẩy vào con đường lưu
manh hóa và quay lại chống trả bằng con đường lưu manh, cuối cùng phải chết đau đớn, vật vã trên ngưỡng
cửa trở về với cuộc đời lương thiện.
+ Giá trị nhân đạo:
- Tố cáo bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến vô nhân tính biến con người thành quỉ
nhưng lại ngăn chặn không cho những con quỉ ấy quay trở về làm người lương thiện.

- Cảm thương sâu sắc nỗi thống khổ của người nông dân trong xã hội cũ vô nhân tính thối nát.
- Phát hiện, tin tưởng, khẳng định khát vọng sống, bản chất lương thiện của con người ngay cả khi họ bị hủy
hoại cả nhân tính lẫn nhân hình.
* Giá trị nghệ thuật:
- Tác phẩm chứng tỏ tài năng bậc thầy của Nam Cao trong việc miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật.
- Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình (Chí Phèo, Bá Kiến là những
điển hình nghệ thuật bất hủ vừa mang bản chất xã hội vừa có tính cụ thể sinh động).
- Câu văn giàu tính triết lý sâu sắc.
- Ngôn ngữ tự nhiên, sống động, có tính chất đa giọng (có khi giọng tác giả, có khi nhập vai sử dụng giọng
nhân vật), ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm.
- Kết cấu theo kiểu vòng tròn (kết cấu tâm lí).
ĐỀ : Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng
tên của Nam Cao để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo của tác phẩm.
Với Chí Phèo, Nam Cao đã xuât hiện trong văn học như một tác giả tiêu biểu nhất của văn học hiện thực phê
phán 1940 -1945, thời kỳ mới đầy thử thách với dòng văn học đó. Cũng như các cây bút lớp trước, Nam Cao
đặc biệt quan tâm thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những người nghừo bị áp bức bóc lột đương thời.
Có điều, trong cảm hứng “vạch khổ” hcugn của mọi nhà văn
hiện thực, ngòi bút Nam cao có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân
vật Chí Phèo - một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam – đã thể hiện đầy đủ cái nhìn mới
mẻ ,độc đáo, có chiều sâu cua Nam Cao trong việc thể hiện nỗi khổ của người cố nông.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc căm dìu, cả đời
không hề biết đến bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở…Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ
hoang, trong chiếc váy chụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này đến đi ở cho nhà nọ, đến hai mươi
tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu…
Đó là cuộc đời khốn khổ của một kể thuộc hạng “cùng đơn cả dân cùng” ở nông thôn trước cách mạng.
Nhưng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo được ngòi bút Nam Cao tập trung thể hiện không phải ở những cái đó
mà ở chỗ khác: người nông dân cùng hơn cả dân cùng ấy không được sống ngay cả một cuộc đời nghèo khổ
nhưng lương thiện của mình, mà anh đã bị những thế lực đen tối cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn để trở
thành một con quỷ dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, đầy ấn

tượng: Chí Phèo say rượu, vừa đi vừa chửi. Nhưng phải đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo, có cái gì
như sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể được. Trong
cơn say đến mất cả lí trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận thấm thía “nông nỗi” của thân phận mình: đó là
cái cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người. Hắn thèm
được người ta chửi vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp, đối thoại, chửi lại hắn tức là còn thừa nhận
hắn là người. Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ là “sự im lặng đáng sợ”. Chí Phèo vẫn có một mình trong
sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!
Thực ra đâu phải Chí Phèo vốn là kẻ lưu manh, nát rượu. Khi còn trai trẻ, anh canh điền nàh Bá Kiến ấy đã
áo ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lơn để làm vốn
liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm, tức là mơ ước một cuộc sống hạnh phúc hết sức bình dị bằng lao
động. Khi ấy, tuy còn rất trẻ trung, anh cũng phân biệt tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa khi bị gọi
lên bóp chân cho cái bà ba “quỷ quái”, anh chỉ thấy được nhục chứ không yêu đương gì! Nhưng bản chất
lương thiện, trong tróng ấy của anh bị hủy hoại. Lão cường hào cào già Bá Kiến vì ghen tuông vu vơ đã cho
giải Chí lên huyện rồi sau đó phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí
lương thiện, vô tội để thả ra một anh Chí Phèo hung ác, lưu manh, tức là đã biến một người lao động lương
thiện thành một con quỷ dữ. Trở về làng Vũ Đại đầy bọn cường hào độc ác “ăn thịt người không tanh” đó, nều
Chí Phèo hiền lành nhìn nhục thì càng bị đạp giúi xuống, không ngóc đầu lên được. Hắn sống thì phải gây gổ,
cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy, Chí Phèo tìm rượu. Thế là
Chí Phèo luôn luôn say, và hắn say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chính xã hội ấy đã vằm
nát bộ mặt con người, cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi
người, là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu người dân làng…và thế là hắn không còn được
mọi người coi là người nữa, ai cũng tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. Qua việc miêu tả hình tượng Chí Phèo,
Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa: người lao động
lương thiện bị xã hội đẩy vào chỗ cũng đã quay lại chống trả bằng con đường lưu manh để tồn tại. Trước Chí
Phèo, làng Vũ Đại đã có chuyện Năm Thọ, rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo, hiện tượng ấy chắc gì đã chấm
dứt. Chi tiết kết thúc truyện (nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và bỗng thấy thoáng hiện
cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng không người qua lại…, có nhiều ý nghĩa: rất có thể, từ cái lò gạch
cũ bỏ không, lại có một “Chí Phèo con”ra đời để nối nghiệp bố Điều chắc chắn là chừng nào còn bọn cường
hào ức hiếp dân lành, không cho họ được sống, thì chừng đó còn những người lao động phải rơi vào con đường
lưu manh để giành lấy miếng ăn, tức là bị hủy diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Truyện

Chí Phèo cho thấy cái qui luật tàn bạo đó trong xã hội cũ.
Tình trạng lưu manh hóa của Chí Phèo là một biểu hiện nỗi đau khôn cùng của con người sinh ra là người
mà không được làm người. Có điều, khi Chí Phèo hầu như tê liệt về ý thức sống, sống mù tói trong kiếp sống
không còn là người thì anh không cảm nhận rõ rệt nỗi đau thân phận bi đát đó của mình. Nhưng đến khi bản
chất người lao động lương thiện trong Chí Phèo trở về, Chí Phèo bỗng thềm vô hanh được hòa với mọi người.
Bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt, Chí Phèo mới thật sự rơi vào một bi kịch đau đớn trong tâm hồn và dẫn đến thảm
kịch.
Trong một cơn say rượu, cảm thấy bức rứt, ngứa ngáy da thịt, Chí Phèo đã gặp Thị Nởvà đã xông tới người
đàn bà xấu xí đó một cách rất … Chí Phèo. Nhưng điều kì diệu là, nếu như lúc đầu, thị Nở chỉ khơi dậy bản
năng sinh vật của gã đàn ông say rượu Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và tình yêu thương
mộc mạc, chân thành cua thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong anh. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh
của linh hồn trong Chí Phèo sau lần gặp với thị nở là đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ. Sáng hôm ấy, sau khi tỉnh
dậy. Chí Phèo thấy lòng bâng khuâng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài
gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười của những người đàn bà đi chợ về…những âm thanh bình thường quen thuộc
ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và lay động sâu xa tâm hồn. Cuộc gặp gỡ Thị Nở như một tia chớp
trong cuộc đời tối tăm dằng dặt của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng của số phận mình. Tình yêu thương
đã thức tỉnh anh, và linh hồn của anh bấy lâu nay đã bán cho quỷ để đổi lấy miếng ăn thì giờ anh đã trở về.
Anh bỗng thẫy “Thèm” lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Tức là anh vô cùng khao khát được
mọi người nhận anh trở lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của
thị Nở đã mở đường cho anh Chí Phèo trở lại làm người. Câu trả lời của thị Nở đã quyết định số phận của anh.
Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở
không cho phép cháu bà đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn
của bà ta cũng là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ
mất rồi. Hôm nay, linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra.
Thế là Chí Phèo lại rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Khi hiểu ra rằng xã hội dứt khóat cự tuyệt mình.
Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn, tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống…nhưng càng uống càng tỉnh ra để thấm
thía nỗi đau vô hanh của thân phận mình. Rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức cho đến khi uống say mêm và lại xách
dao ra đi, lại vừa đi vừa chửi…như mọi lần. Nhưng lại khác hẳn mọi lần, trong cơn đau tuyệt vọng, Chí Phèo
càng thấm thía tội ác của kẻ thù và tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Anh đến trước mặt
Bá Kiến, đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó, anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây, ý thức

về nhân phẩm đã trở về, anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như thú vật được nữa, nhưgn xã hội không
cho anh sống cuộc sống của con người! Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời,
khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu tươi của mình, chết trong
niềm đau thương tột cùng vì nỗi khát khao mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm người đã không trở
thành hiện thực. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo “Ai cho tao lương thiện” là câu hỏi chất chứ phẫn uất, đau
đớn, còn làm ray rứt người đọc đên hôm nay.
Câu hỏi ấy đã cô đúc cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm một cách sâu sắc và thắm thía.
Làm thế nào để con người được sống của con người trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy?
Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã
hội lớn lao và đưa Chí Phèo lên những tác phẩm hay nhất có giá trị nhất trong văn học hiện đại.
ĐỀ : Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo (truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao) từ
buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy rõ bi kịch của nhân vật này.
1. Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, cũng là của
văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 - 1945. Ở đó nhà văn đã miêu tả rất thành công tâm lý của nhiều
nhân vật, đặc biệt là diễn biến tâm lý nhân vật Chí Phèo (từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc
đời).
2. Diễn biến trong tâm lý nhân vật Chí Phèo ở đoạn này khá phức tạp nhưng có lô-gích, đúng quy luật tâm lý.
Đó là một quá trình tự thức tỉnh để hy vọng, tuyệt vọng và để báo thù.
2.1. Diễn biến ấy có thể tóm lược như sau: từ sự thức tỉnh những cảm xúc thông thường của con người (nỗi
buồn mơ hồ với bao nhiêu rung động sâu xa của những cảm giác, cảm xúc thuộc về con người) đến nỗi sợ cô
đơn, nỗi khát khao trở về với xã hội bằng phẳng, thân thiện với mọi người. Nỗi khát khao ấy càng tha thiết khi
Chí Phèo bưng bát cháo hành và nhận được những chăm sóc mộc mạc mà tình tứ chân thành của Thị Nở, nhận
ra hương vị cháo cũng là hương vị của hạnh phúc, tình yêu. Nhưng rồi Chí Phèo bị Thị Nở từ chối phũ phàng,
Chí Phèo bấy giờ mới nhận ra số phận bi đát và bi kịch đau đớn của mình. Càng đau đớn càng uất hận. Hắn vác
dao đi trả thù.
2.2. Việc Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát là theo tâm lý giải tỏa bế tắc, trả thù của kẻ cố cùng (bị cự tuyệt quyền
làm người) liều thân. Thoạt đầu, có thể Chí Phèo hành động theo sự thúc đẩy bản năng, hoặc theo tiếng gọi hay
sự mách bảo của tiềm thức. Nhưng về sau, khi đã giáp mặt Bá Kiến, Chí Phèo đã hành động trong một trạng
thái rất tỉnh táo: nhận thức đúng ai là kẻ đã đẩy mình đến tình trạng bi đát (cả đến người cuối cùng ở làng Vũ
Đại có thể sống thân thiện với Chí Phèo là Thị Nở cũng từ chối Chí Phèo thì không còn gì bi đát hơn). Đó cũng

là tình trạng tuyệt vọng cùng cực. Chí Phèo đã hành động vừa rất u tối, bản năng, vừa rất sáng suốt, tỉnh táo.
2.3. Xét về một mặt nào đó, chính sự từ chối của Thị Nở đã kéo Chí Phèo về với thực tại và nhận ra kẻ thù của
mình trước hết vẫn là Bá Kiến. Trong truyện, Nam Cao kể Chí Phèo 3 lần đến nhà Bá Kiến lần nào cũng mang
theo hung khí (một cái vỏ chai hoặc một con dao). Nghĩa là mâu thuẫn Chí Phèo - Bá Kiến là mâu thuẫn không
thể điều hòa, trước sau gì cũng bùng nổ thành án mạng.
3.Sự miêu tả thành công diễn biến tâm lý nhân vật Chí Phèo trong đoạn cuối tác phẩm như vừa phân tích, một
mặt thể hiện cái nhìn hiện thực sắc sảo của Nam Cao, mặt khác cũng thể hiện một tinh thần nhân đạo sâu sắc
và cảm động của tác giả.
Khái quát :- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm (0,5 đ)
- Diến biến tâm trạng Chí Phèo (4,5 đ)
* Quá trình thức tỉnh (3đ)
+ Sau đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo tỉnh rượu, lần đầu tiên hắn hoàn toàn tỉnh táo sau khi ở tù về, lần đầu tiên
hắn nghe thấy những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh …
+ Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai … Lần đầu tiên hắn tỉnh táo
nhận ra tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.
+ Thị Nở mang nồi cháo hành vào. Chí ngạc nhiên, xúc động … Chí cảm nhận thấy tình người ấm áp và hạnh
phúc lứa đôi lần đầu tiên có được.
+ Bản tính hiền lành lương thiện trong Chí trở về, Chí mong muốn qua Thị Nở hòa nhập với mọi người,
chấm dứt đoạn đời thú vật.
* Tình thế bi kịch và cái chết của Chí Phèo
+ Bị bà cô ngăn cản, Thị Nở khước từ đề nghị của Chí Phèo, Chí lâm vào tình thế bi kịch: Chí không thể
hòa nhập với xã hội loài người, đến với cuộc đời lương thiện
Chí không thể trở lại đoạn đời thú vật trước đây vì lương tâm đã trở về.
+ Chí tuyệt vọng hoàn toàn, trong cơn tuyệt vọng bế tắc khi ý thức được nỗi đau thân phận, Chí xách dao ra
đi.
Tuy say, Chí vẫn tỉnh táo nhận ra kẻ thù của đời mình, kẻ đã cướp đi cả nhân hình, nhân tính. Chí giết chết
Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Đó là đỉnh cao sự thức tỉnh của Chí Phèo.
- Qua sự thức tỉnh của Chí Phèo có thể thấy được giá trị nhân đạo mới mẻ của tác phẩm:
Nam Cao đã phát hiện phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi tưởng như họ đã bị xã hội thực dân
nửa phong kiến tàn ác biến thành thú dữ.

+ Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp, xã hội tàn ác dẫu có ra sức hủy diệt thì nó
vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo.
+ Khi gặp Thị Nở cảm nhận được tình người ấm áp tình yêu chân thành mộc mạc của Thị, cùng với trận ốm
khiến Chí tỉnh rượu, bản chất ấy có cơ hội được hồi sinh và nó đã hồi sinh.
Bằng con mắt tình thương, Nam Cao đã nhận ra điều mà cả dân làng Vũ Đại không thấy được. Định kiến đã
vô tình biến họ trở thành những kẻ vô tâm, mù quáng. Cái chết của Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt ngay cả khi
đã chết của Chí cũng là một cách để Nam Cao thức tỉnh tình người trong mỗi chúng ta.
Đê: Vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân
Khái quát:
nhỡn liên tài của quản ngục.
Qua lời khuyên chân thành d- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao
+ Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ
Qua lời nói, thái độ ngưỡng mộ, cảm phục của thầy trò quản ngục về tài viết chữ của ông Huấn, qua sự tự ý
thức của ông Huấn …
+ Vẻ đẹp khí phách hiên ngang
Qua thái độ coi thường cái chết, coi thường quyền uy, danh lợi, bình tĩnh ung dung trong những ngày tháng
cuối cùng của cuộc đời. Chú ý phân tích một số chi tiết: rỗ gông, lời nói của Huấn Cao với thấy thơ lại, thái độ
khi đối diện với quản ngục …
+ Vẻ đẹp của nhân cách trong sáng, cao cả
Qua sự biến đổi trong thái độ với quản ngục. Trước: coi thường, cao ngạo xem quản ngục là một kẻ tiểu
nhân. Sau khi hiểu rõ tấm lòng quản ngục, Huấn Cao vui lòng cho chữ, đáp ứng sở nguyện, băn khoăn khi suýt
phụ một tấm lòng trong thiên hạ, cảm phục tấm lòng biệt ành cho quản ngục
+ Ba vẻ đẹp kết tinh trong cảnh cho chữ cuối truyện
- Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, một vẻ đẹp được lí tưởng hóa, thể hiện tập
trung quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân (cái tài đi đôi với cái tâm, cái đẹp luôn gắn liền với cái thiện)
-
Bài làm:
Vang bóng một thời

của Nguyễn Tuân là tác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Trong
Vang
bóng một thời
truyện ngắn
Chữ người tử tù
có một giá trị lớn lao, nổi bật. Ai đã từng đọc
Chữ người tử tù
đều rung
động cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến
mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao .Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là
tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất.
Huấn Cao là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn,
vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một
cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn của Nguyễn triều, dám
đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội phong kiến thối nát. Phải chăng, Nguyễn
Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quá lên một hìnhtượng Huấn
Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian
khổ, coi khinh cái chết.
Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp
của hình tượng Huấn Cao trước hết phải nhắc đến cái tài. Huấn Cao là một người nổi tiếng vè thư pháp. Trong thị hiếu
thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì thư pháp là cả một nghệ thuật cao quý, là biểu hiện cho tâm
hồn và tri thức, là vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật
báu mà con người khát khao, thèm muốn.
Ngoài ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện
một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến
mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một
trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong
cái xã hội PK bóc lột người, nhân tài như lá mùa thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du đã
từng viết về Từ Hải-một anh hùng thời cổ:


Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn
Song vị hùm thiêng Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao vẫn kiên cừơng, bất khuất, vẫn dũng khí.
Do đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước
cường quyền, trước một cái chết treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết
sức trân trọng cái tâm của Huấn Cao. Bởi
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Nguyễn Du)
.
Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đày sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ phong cách tức là
con người đã được thể hiện rất rõ ở đây.
Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với
vua, một lòng một dạ theo triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh
nhung hoa áo gấm, thà làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị bát, bị kết
án tử hình nhưng ông vẫn không hề tỏ thái độ run sợ, không mảy may tiếc nuối, hối hận.
Huấn Cao- ngôi sao Hôm chính vị ấy- bước vào ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách ung dung. Trong con
mắt của bọ lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái
độ của ông vẫn ngang tàn, lạnh lùng. Huấn Cao ung dung, lãnh đạm trước mạt bọn lính, không thèm chấp mấy lời đe
doạ. Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, coi như mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý
mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang
đó không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái nhìn của kẻ dám làm dám chịu.
Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt cuả quản ngục:
Ngươi hỏi ta muốn gì?Ta chỉ muốn có một
điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây
.
Con người khuấy nước chọc trời chẳng biết nể sợ ai.Trong đời trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ,
nhất sinh không vì
vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ
, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài
bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ này làm sao lung lay được ông hay vì quyền uy
mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ khinh đời,
ngang tàn đó phải chăng làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Huấn Cao đã mang đến chốn lao tù này một ánh

sáng ký ảo, huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào
quang toả sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của chốn đề lao.
Huấn Cao-vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một con người có trài tim
nhân hậu. Khi biết thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động.
Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn mới mà suýt
nữa ông đã đánh mất:
Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người thầy quản đay
lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữ ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
Sự biệt đãi bằng vật chất
và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng. Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích
cao quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ của Huấn
Cao đối với quản ngục không phải là sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế với mình, mà là sự trân trọng, cảm đọng
trước một nhân cách Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp mà vẫn giữ được thiên
lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp.
Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp nhân
cách Huấn Cao. ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, một cảnh
tượng đầy kịch tính diễn ra, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là một buồng tối
chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng
phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch tinh
khôi.
Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền văn minh, văn hóa. Đó còn là
sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện
và cái trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính tạo hình với trình độ nghệ
thuật điêu luyện, gần như đạt đến sự hoàn mĩ.
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực, bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật nghiêm
trang, thật thiêng liêng này, Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái
xấu xa, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào cho ra đời những nét chữ tuyệt tác. Ở đây không
còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn
nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về chân lý của cái đẹp. Ngôi sao – Huấn Cao đang tỏa sáng, làm bừng tỉnh cái
không gian u tối, phá vỡ caí màn đem ngự trị ngàn đời ở đây, đem đến nơi đây một vẻ đẹp khác thường. Giờ phút này,

tại nơi đây, sức mạnh của cái đẹp và chân lý đã được khẳng định.
Sức mạnh ấy không khất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không
giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự nguyện đi theo
nó để hướng tới cái CHÂN -THIỆN - MỸ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây caí đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái
xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người(Đôxtôiepxki). Cái đẹp đăng quan, cái xâú xa đã phải
chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con
người. Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp để cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi
vào cõi vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc hoạ bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên ngang
hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.
Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của Huấn Cao hay của là của chính Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện
không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quan cảm
đọng vái người tù một cái và rưng rưng:
Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.
Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự
do về tâm hồn. Hay nói khac đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh
lịch sử đang đày rẫy những cái xấu xa ,tội lỗi, biểu tượng cho Thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện
thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, đẻ vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm
giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.
Dựng lên hình tượng với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm
cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính
kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói Chữ
người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp
tuyệt vơì của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mài vang bóng
trong bạn đọc nhiều thời.
Đề bài : Phân tích cảnh cho chữ trong “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
Bài làm:
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn
Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất
của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tac của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu
tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận

như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là
cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm.ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì
viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do
vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn ,chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên
những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã rãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong
truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm
đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những
nơi có không gian đẹp, thoáng đãng , yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn
chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người
tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn
Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “ một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc
“dậm tô nét chữ trên tấm lụa trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm
chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô
hào , răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát
cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao-người có tài viết chữ nhanh ,
đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại-những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật
đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình( Huấn Cao) và một bên là những người thực thi
pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là
tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba
con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong
đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động
theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền
lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên
thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ
một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối

tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác
phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện
đầy ấn tượng.
Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có
thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái
đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho
chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ
thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức
chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của
thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “ vái người tù một vái, chắp tay nói một câu
mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một
nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái
thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường.
Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên
những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của
con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân- thiện-mĩ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là
nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng
nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp
nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến
về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ
thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người
tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái
thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng
đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người.
Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài
hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai
một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng
hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối
chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù
cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét:
từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không
khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã
“phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn học cổ
nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)
Cảnh cho chữ trong “ Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng , sáng tạo và tư tưởng độc đáo của
Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài
hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung
cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù
cuộc đờicó đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.
Đề: Phân tích tâm trạng chị em Liên đêm đêm cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua
phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ - Thạch Lam.
Hai đứa là trẻ một trong những truyện ngắn thường được nhắc tới nhiều nhất của Thạch Lam. Hình ảnh
chuyến tàu đêm chạy qua một phố huyện nghèo thời trước đã được Thạch Lam miêu tả rất khéo léo, đã
nổi lên thành một hình ảnh đầy ý nghĩa, bộc lộ chủ đề của tác phẩm.
Trước hết, bối cảnh cho chuyến tàu đêm xuất hiện là cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, đáng thương nơi
phố huyện. Thạch Lam đã chọn được thời điểm để làm nổi bật những tính chất ấy. Truyện bắt đầu từ
tiếng trống thu không dội xuống phố huyện, từng tiếng, từng tiếng mỏi mòn, giữa lúc trên bầu trời, ánh
ngày đang dần nhường chỗ cho bóng hoàng hôn, phương tây đỏ rực lên như lửa báo hiệu một ngày đang
tắt. Đêm tối sẽ đem tới cho phố huyện những gì? Chỉ có bóng tối, sự im lặng, mà tiếng ếch nhái ngoài
đồng, tiếng muỗi kêu trong nhà, lại khiến cho nó càng trở nên vắng lặng, hoang vu, buồn bã hơn.
Thế ra, giữa thế kỷ hai mươi, thế kỷ của những đô thị đầy ấp ánh sáng, vẫn có những miền đất, nhiều
miền đất, sống trong sự tăm tối của cuộc sống hàng trăm, hàng ngàn năm về trước như vậy đấy.
Phiên chợ chiều đã vãn, những ồn ào tấp nập của buổi chợ đã tan đi, để lại phố huyện với thực chất của
nó: cái nghèo nàn, cái tiêu điều xơ xác. Những đứa trẻ con lom khom tìm kiếm trên cái nền chợ xơ xác
ấy, giữa những rác rưởi mà phiên chợ bỏ lại, mong tìm được chút gì đỡ cho cuộc sống. Thật là một chi tiết
đầy ý nghĩa và rất gợi cảm về cái nghèo.

Rồi đêm xuống. Cuộc sống có xôn xao động đậy được chút nào chăng? Quả cũng có xôn xao một chút
đấy, nhưng không vì thế mà vẻ nghèo, vẻ buồn của cuộc sống lại bớt đi. Bắt đầu là ngôi hàng nước của
con chị Tí, với chiếc võng con, vài ba cái bát, một điếu hút thuốc lào bày ra rồi lại thu vào vì vắng
khách. Tiếp đến là gánh phở có ngọn lửa bập bùng của bác Siêu, cũng vắng khách vì đó là thứ quá xa xỉ
(phở mà trở thành xa xí phẩm, thật là một nhận xét hóm hỉnh và đầy xót xa của Thạch Lam!).
Chính giữa cảnh tiêu điều như vậy của phố huyện, Thạch Lam đã miêu tả tâm trạng khắc khoải chờ đợi
chuyến tàu của hai chị em cô bé Liên. Đó là hai đứa trẻ đã từng có những ngày sống ở một nơi không đến
nỗi nghèo khổ và tối tăm như thế. Với chúng, nhất là với bé Liên, nơi ấy Hà Nội luôn đọng lại như một kỷ
niệm xa xôi và mơ hồ nhưng bao giờ cũng êm đềm, đẹp đẽ và rực rỡ ánh sáng. Còn giờ đây, nơi phố
huyện, cuộc sống của chúng thiếu hẳn ánh sáng và niềm vui. Ngày nào cũng giống hệt ngày nào, chúng
chờ bán cho người ta nhưng món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi: một bao diêm, một cuộn chỉ, mấy
bánh xà phòng Chiều chiều, trong bóng chập choạng của hoàng hôn và trong tiếng muỗi vo ve, hai chị
em cặm cụi kiểm đếm số tiền bé nhỏ bán được trong ngày. Chi tiết về chiếc chõng tre cũ, sắp gãy được
Thạch Lam đưa vào đây thật là đầy ý nghĩa: cuộc sống của hai đứa trẻ mới lớn lên sao mà đã sớm già
nua tàn tạ! Cả chi tiết bà lão hơi điên đến mua rượu uống, cũng gợi lên bao nỗi buồn. Cái thế giới mà các
em Liên và An tiếp cận ngày này qua ngày khác chỉ có thế. Đây là niềm vui, biết lấy gì mà hy vọng?
May mắn thay, hai đứa trẻ đã tìm được chút niềm vui để mong đợi. Mỗi đêm chuyến tàu từ Hà Nội sẽ
đi qua phố huyện trong mấy phút. Mỗi đêm, hai đứa trẻ lại chờ đợi chuyến tàu. Hẳn các em đã chờ đợi nó
qua suốt một ngày buồn tẻ của mình. Nhưng nỗi đợi chờ bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều đổ xuống.
Rồi trong đêm tối, những ngọn đèn thắp lên ở đằng kia, bóng hai mẹ con chị Tí trên đường, ngọn lửa bập
bùng của gánh phở bác Siêu, tiếng hát của vợ chồng bác xẩm mù Với các em, đó là những cái mốc
điểm bước đi của thời gian đang cho các em xích gần lại với chuyến tàu. Mỗi đêm, chỉ có một chuyến tàu
đi qua phố huyện. Các em không thể bỏ lỡ nó. Bởi thế, đã buồn ngủ ríu cả mắt, An và Liên vẫn cố chống
lại cơn buồn ngủ. Cho đến khi, vì chờ đợi quá lâu trong cái không khí buồn tẻ của phố huyện, bé An
không thể thức được nữa. “Em gối đầu lên tay chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với: “Tàu đến chị
đánh thức em dậy nhé!”. Thật là một cảnh chờ đợi thiết tha như mọi sự chờ đợi thiết tha ở trên đời!.
Trên phố huyện ấy, giữa tâm trạng chờ đợi ấy của hai đứa trẻ, chuyến tàu đêm được Thạch Lam miêu
tả tỉ mỉ và trang trọng làm sao! Chuyến tàu được báo trước từ xa, với hình ảnh hai ba người cầm đèn lồng
lung lay các bóng dài, vẻ xôn xao của những người chờ tàu, rồi ngọn lửa xanh biếc sát mặt đất như ma
trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Chuyến tàu đã

đến cùng với tiếng còi đã rít lên. Đoàn tàu vụt qua trước mặt. Bé An đã thức dậy và tâm hồn cả hai đứa
trẻ đều bị cuốn hút bởi chuyến tàu. Các toa đèn đều sáng trưng những toa hạng trên sang trọng, lố nhố
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Đoàn tàu đã đi qua nhưng tâm hồn chị em Liên thì
vẫn gửi hút theo nó mãi, nhìn nó để lại trong đêm tối những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt cái
chấm nhỏ của chiếc đèn xanh xa xa mãi rồi đi khuất sau rặng tre. Giờ đây, sự tương phản giữa hình
ảnh đoàn tàu với cuộc sống nơi phố huyện càng trở nên rõ rệt trong tâm trí của đứa trẻ: đêm tối vẫn bao
bọc xung quanh, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
Đọc xong truyện Hai đứa trẻ, người đọc không thể không ngẫm nghĩ về ý nghĩa sâu xa của hình ảnh
chuyến tàu đêm mà Thạch Lam đã cố tình miêu tả nó để làm nổi lên thật rõ cuộc sống buồn tẻ đáng
thương của hai chị em Liên? Với các em, chuyến tàu ấy là tất cả niềm vui và hi vọng. Đó là Hà Nội trong
quá khứ êm đềm xa xôi. Đó là niềm vui duy nhất để giải toả cho tâm trí sau một ngày mệt mỏi, đơn điệu
và buồn chán. Đó là âm thanh, ánh sáng, vẻ lấp lánh, của một cuộc đời mà các em hi vọng, một cuộc đời
khác, hoàn toàn không giống với cuộc đời nghèo nàn và tẻ nhạt nơi đây. Có lẽ, qua truyện ngắn này,
Thạch Lam đã muốn nói với chúng ta: có những cuộc đời mới đáng thương sao, có những ước mơ bé nhỏ,
tội nghiệp nhưng chân thành tha thiết và cảm động làm sao! Nhưng dẫu sao, sự chờ đợi của các em cũng
cho chúng ta một bài học: trong cuộc đời, phải biết vượt lên cái tẻ nhạt, cái vô vị hàng ngày để mà hi
vọng, vì còn có hi vọng, dẫu cho hi vọng rất nhỏ bé, thì mới có thể còn gọi là sống.
Hai đứa trẻ không thuộc loại truyện hấp dẫn người đọc vì sự ly kỳ hay gay cấn của cốt truyện. Sức
mạnh và sức sống của nó nằm trong vấn đề mà nó đặt ra và cả trong thái độ của Thạch Lam đối với cuộc
sống: một thái độ ấp iu đầy lòng nhân ái. Chính thái độ ấy cũng ảnh hưởng đến cách viết của Thạch Lam:
tỉ mỉ và trân trọng. Truyện tuy hơi buồn nhưng nó giúp cho con người thêm yêu thương con người.
Phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong không gian phố huyện (Hai đứa trẻ -
Thạch Lam)
Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn Việt Nam 1930 - 1945 như một làn "gió đầu mùa" tinh khiết, êm nhẹ.
Người đọc văn Thạch Lam cảm nhận được một tình người đằm thắm trong một giọng văn tha thiết. Cái đẹp
tự lan toả, "tiềm tàng trong mọi vật bình thường" khiến cho "lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn".
Thạch Lam đã khơi gợi ánh sáng cho những tâm hồn từ ngay những mảng đời chìm trong bóng tối.Truyện
ngắn Hai đứa trẻ - câu chuyện về hai chị em ở phố huyện nghèo - như một bài thơ thấm đẫm tình người. Thế
giới trẻ thơ gợi lại cho mỗi chúng ta những rung động êm đềm mà sâu sắc, mở ra những suy tư về thân phận
con người.

Trong văn xuôi Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, có lẽ khó ai tìm ra được những nét đẹp tiềm ẩn
trong cái bình thường giỏi như Thạch Lam. Các nhà văn Tự lực Văn đoàn, những anh em của Thạch Lam
cũng hay nói về cảnh nhà quê, người nhà quê nhưng đã tước đi vẻ hồn nhiên tươi tắn chân thực của cuộc
sống ấy, thay vào đó là những cái nhìn có phần xa lạ, kẻ cả, đôi chút khinh miệt. Có lẽ, trong số anh em họ
Nguyễn Tường, Thạch Lam là người sống sâu nặng hơn cả với kí ức tuổi thơ của mình. Trong tâm tư của nhà
văn, phố huyện Cẩm Giàng (Hưng Yên) và người chị tần tảo đã trở thành chuỗi kỉ niệm đẹp đẽ nhất, khiến
cho ông khi viết về hình ảnh phố huyện vẫn còn vẹn nguyên những ấn tượng sâu đậm của tuổi thơ. Hai chị
em Liên và An chính là những gì Thạch Lam yêu mến, gắn bó thuở thiếu thời.
Người đọc không thể nào quên ấn tượng về một không gian phố huyện chuyển dần vào bóng đêm. Những
âm thanh của một ngày sắp tắt cùng với một phương tây cháy rực gieo vào lòng người nỗi buồn mơ hồ. Một
phiên chợ chiều tàn, dăm đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ vương vãi xung quanh chợ không chỉ đánh động
tình thương củacô bé Liên đầy lòng trắc ẩn mà còn khiến chúng ta cũng bồi hồi vì những nét thân thuộc của
quê hương, một "mủi riêng của đất, của quê hương này". Tài năng của Thạch Lam đã giúp chúng ta nhận ra
cái hồn quê hương dìu dịu thấm vào từng cảnh vật và những sinh hoạt ban đêm của những con người phố
huyện. Tất cả những gì nhà văn mô tả đều hết sức bình thường trong một câu chuyện không có cốt truyện.
Khung cảnh và những con người đều như hướng vào một chủ đích của nhà văn: khắc hoạ những nét bình dị,
lặng lẽ trong một không khí xã hội đang chìm trong bóng đêm dày đặc của cuộc sống quẩn quanh không lối
thoát.
Những nhân vật phố huyện: mẹ con chị Tý với hàng nước, bác Siêu bán phở, gia đình bác Xẩm từng ấy
nhân vật đã làm nên cái đặc trưng của phố huyện. Đó là những con người đang lầm lũi trong cuộc mưu sinh,
tâm trạng lúc nào cũng lo toan và nhẫn nhịn. Họ cùng chờ đợi, không phải là những người khách mà chính là
đang mòn mỏi hy vọng . Những cuộc đời trong bóng tối ấy, cũng giống như không gian phố huyện kia, dày
đặc tăm tối nhưng vẫn loé lên ánh sáng của một thế giớ khác, một thứ ánh sáng mong manh nhưng không hề
lịm tắt.
Không phải ngẫu nhiên nhà văn đã miêu tả cuộc sống phố huyện gắn với ba thời điểm nối tiếp: hoàng hôn
- tối - khuya. Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu.
Ánh đỏ rực của buổi hoàng hôn dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống
của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn những dư vị của bóng tối. Đó là thời điểm bắt đầu
những lo toan của thế giới người lớn nên "bóng tối ngập đầy dần" đôi mắt Liên. Liên đã chứng kiến những
con người "đi lần vào bóng tối", "từ từ đi vào bóng đêm" và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những

bóng đời chập chờn ánh sáng ngọn đèn, bếp lửa. Ánh sáng của thực tại chỉ còn là "nguồn sáng" xa lạ của
những vì sao trên trời. Là những "khe sáng", "quầng sáng", "hột sáng" mong manh của những con người cùng
sống nơi phố huyện nghèo. Sự sống như ẩn mình trong ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được những ám
ảnh bóng tối. Nó chỉ đánh thức những hoài niệm tuổi thơ. Những ngày tháng êm đềm của chị em Liên khi
cảnh nhà chưa sa sút. "Vùng sáng rực và lấp lánh" của quá khứ là một tương phản để cắt nghĩa cho tâm trạng
của Liên: "Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa". Đó là sự chấp nhận, là thực tế đáng buồn mà
Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của hai đứa trẻ. Hoàn cảnh không cho phép hai chị em Liên - An được
sống bình thường như bao đứa trẻ khác, tuổi thơ của những đứa trẻ con nhà nghèo không có ánh sáng, đang
cằn cỗi dần cùng bóng tối. Phải chăng vì vậy mà cô bé Liên dễ động lòng trắc ẩn trước "mấy đứa trẻ con nhà
nghèo", còn An dù thèm nhập bọn cùng đám trẻ con chơi đùa, nhưng nhớ lời mẹ dặn nên đành ngồi im. Cảnh
nghèo dễ khiến tạo ra mặc cảm, dù cho là những đứa trẻ. Thạch Lam dường như không muốn để cho những
cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận những con người nghèo khổ, bằng thái độ trân trọng, ông đã nâng đỡ
cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc ánh sáng mong
manh nhất: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày
của họ"
"Một cái gì tươi sáng hơn", bản thân họ cũng không hề biết trước, chỉ là những trông ngóng mơ hồ. Nhà văn
không thể chỉ ra "con đường sáng" cho những con người nghèo khổ ấy. Có lẽ, ông cũng không mơ hồ, ảo
tưởng như những cây bút Tự lực Văn đoàn khác như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo để mong chờ một
thay đổi theo khuynh hướng cải lương, một tình thương bố thí nửa vời. Ông cũng không trông chờ nhiều vào
hoạt động của "Hội Ánh sáng" do các anh em của ông tổ chức sẽ cải thiện cuộc sống dân nghèo. Bằng trực
giác và sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sĩ giàu yêu thương, Thạch Lam đã phát hiện những nội lực để vươn
lên của con người từ chính nền cuộc sống nghèo khổ. Ông đã diễn giải sâu sắc bằng hình tượng chuyến tàu
đêm ngang qua phố huyện.
Chuyến tàu ấy là hoạt động cuối cùng về đêm của phố huyện, là dịp cuối cùng để cho những người bán
hàng đêm như chị em Liên mong "may ra còn có một vài người mua". Nhưng vượt lên cuộc sống thường nhật
mà nỗi thất vọng lớn hơn niềm hy vọng, là sự háo hức trông đợi chuyến tàu "mang ánh sáng của một thế giới
khác đi qua" để con người không đánh mất niềm tin vào sự sống . Vì vậy Thạch Lam đã dành những câu văn
thật tinh tế để diễn tả cảm giác đợichờ ở Liên và An. Đặc biệt, cô bé Liên đã chiếm được nhiều cảm tình ở
người đọc. Không chỉ vì Liên là người chị lớn đảm đang, tay hòm chìa khoá của mẹ, vì dẫu cho cô bé Liên có
tự hào về chiếc chìa khoá đeo vào chiếc dây xà tích bạc thì điều ấy chỉ làm người đọc buồn và thương cảm cho

một cô bé sớm già trước tuổi. Điều mà Thạch Lam làm cho người đọc yêu mến nhân vật chính là khoảnh khắc
ông giúp phát hiện vẻ đẹp giàu nữ tính của nhân vật: "Liên khẽ quạt cho em, vuốt lại mái tóc tơ ( ) Qua kẽ lá
của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp
nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có
những cvảm giác mơ hồ không hiểu". Đây là trang văn đậm chất thơ, đem đến sự ngọt ngào của tình cảm nhà
văn dành cho Liên, tạo ra cảm xúc đồng điệu ở người đọc. Một cô bé giàu mộng mơ, ắt hẳng không thể để
tâm hồn ngập dần trong bóng tối. Đó là tiền đề để Liên có thể cảm nhận ánh sáng chuyến tàu đêm khác hẳng
mọi người: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực,vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã
đem một chút thế giới khác đi qua". Ánh sáng rực rỡ của con tàu mang hình ảnh chứa đựng khát vọng về
tương lai, đánh thức sức sống mãnh liệt của tâm hồn Liên. Không phải một lần Liên đón nhận ánh sáng ấy mà
đêm nào cô cũng được sống trong những giờ phút mơ tưởng này. Mơ ước lãng mạn bao giờ cũng là cơ sở của
hành động. Thạch Lam đã đem đến một thông điệp giàu ý nghĩa về con người, tạo nên giá trị nhân văn của
tác phẩm: hãy tin tưởng và trân trọng khát vọng của con người, dẫu thực tại còn đầy bóng tối như không gian
phố huyện nghèo kia, nhưng con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hướng về ánh sáng. Cảm quan lãng
mạn không cho phép nhà văn đi xa hơn, nhưng cũng giúp cho người đọc thêm yêu mến những con người
nghèo khổ đầy hy vọng.
Từ tình cảm dành cho những con người bé nhỏ, Thạch Lam còn làm sống dậy những tình cảm gắn bó với
quê hương, mảnh đất và con người bình dị mà thân thương. Có thể xem đó là một khía cạnh kháccủa tâm hồn
nhân ái Thạch Lam. Ông nói về những cảm nhận của hai chị em cũng là phát hiện về mối quan hệ gắn kết
giữa con người với mảnh đất. Dường như những hương vị bình thường, mùi đất, mùi chợ cũng là một
phương diện của tâm hồn hai đứa trẻ, cũng là sự tha thiết trìu mến của nhà văn hướng về vùng đất Cẩm
Giàng từng lưu dấu tuổi thơ. Những chi tiết bình thường nhất nơi phố huyện còn lan toả cảm giác ấm áp ân
tình của Thạch Lam đến tận bây giờ. Bóng tối mênh mông là miền đời không thể lãng quên và không được
phép lãng quên, bởi ở đó có những con người mà nhà văn thương mến nhất.
Huyền Kiêu, một người bạn của Thạch Lam đã rất có lí khi cho rằng "Thạch Lam là một người Việt Nam
thành thực nhất", có lẽ bởi nhà văn đã yêu cuộc sống và những con người nghèo khổ qua những trang văn
thấm đượm tình người, những trang văn "rất nhiều Thạch Lam trong đó". Độ chân cảm từ những trang văn
Thạch Lam sẽ còn làm cho nhiều thế hệ người đọc còn bồi hồi xúc động./.
Nêu cảm nhận về bức tranh phố huyện trong tác phẩm "hai đứa tr ẻ"?
Bài làm:

Nếu như các nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất ,tronh
sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng.Dưới con mắt của ông , đời không chỉ có tình
yêu mãnh liệt đến quên cả trời đất ,quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau .Ngòi bút Thạch Lam
hoà cùng cuộc sống ,lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức
tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực ,lẩn
quẩn của con người.
Bức tranh đời sống phố huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cảnh chờ tầu của chị em
Liên và mọi người.Toàn bộ bức tranh là bóng tối ,bóng tối lan toả ,bao trùm lên cảnh vật ,tạo nên bầu
không khí nặng nề ,u uất.Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một mầu đen xám xịt .Bóng tối ở rặng tre
,bóng tối ở góc quán ,bóngtối ở ánh sáng lập loè của đom đóm. Tất cả ,tất cả đều chìm vào bóng tối
.Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm , đè nặng lại
càng trở nên côi cút ,lẻ loi đến tội nghiệp . Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng vào lúc
nửa đêm .Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách .Hàng phở của bác Siêu lặng
lẽ lăn bánh Những hình ảnh lẻ loi , đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng
tối dày đặc ,lan toả đang dần đẻ lên cuộc sống của họ -những con người mà số lượng có thể đếm được
trên đầu ngón tay “mấy chú” , “mấy người” .Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im lặng
đã thống trị trên cõi người .Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng , uất ức đén kỳ lạ. Không gian bị thu
hẹp còn vài mảnh đời nho nhỏ .Không khí nặng nề như dồn nén bao nhiêu uất nghẹn của kiếp người
.Bửctanh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.
Nhưng Thạch Lam -người nghệ sĩ của tâm hồn ấy ,không dừng lại ở khắc hoạ bóng tối.Bóng tối đã đáng
sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn .Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo . Đó
là gia đình chị em Liên ở do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên;là gia đình bác
Xẩm ;là gánh hàng chị Tý ;là quán phở của bác Siêu Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp
lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào.Cả một sự tẻ nhạt đén kinh khủng hiện ra .Chỉ qua một chi tiết
nhơ:Chị em Liên không ngoái lại cũng biết tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi ,nhìn đốm sáng xanh lúc
ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu .Dường như bao năm ,bao tháng rồi họ chỉ một
công việc lặp đi lặp lại đó.Một công việc nhàm chán ,tẻ nhạt như chính cuộc đời họ.Nhưng sự việc ấy làm
cho cuộc sống của họ thêm tù túng ,ngột ngạt ,không có lối thoát ,không biết đi đâu . Đối với họ,tương lai
dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn,quẫn bách .Trước mắt họ ,tương lai đã khép kín cánh cửa.
Họ không hy vọng điều gì ,không ngóng đợi ai .Hiện tại chỉ là những nghèo khó,cơ cực ,tù túng cùng

những công việc nhàm chán .Bức tranh ấy xoay lên nỗi đau trong tâm hồn độc giả ,bật lên thành những
tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.
Tất cả những hành động ,sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán.Duy
chỉ có con tàu tuy vẫn lặp lại nhưng không nhàm chán . Con tàu là hiện thân của ước vọng ,của tương lai
đối với mọi người .Ho tìm kiếm với con tàu ,chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một
cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu .Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu
không khí vốn u uất lặng nề, với ánh sáng chói lọi ,rực rrỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối
tăm như cũ .Với chị em Liên ,con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở
Hà Nội ,là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai.Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm
bớt sự bế tắc tù túng của cuộc sống để lại ước mơ - một ước mơ hết sức tội nghiwpj cho mõi con người
Nếu như nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn đã xa rời thực tại ,thi vị hoá cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn
chặt với ngòi bút với đời sống ,dù ông là thành viên củ cốt của văn đàn ấy.Nếu đồng nghiệp của ông ca
ngợi tình yêu khi say đắm ,khi đâu đớn ,lúc xô bờ (Hồn bướm mơ tiên, trăng sáng ,tình tuyệt vọng )thì
Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm của tâm hồn con
người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau.Với phong cách vừa lãng mạn ,vừa hiện thực ,ngòi bút Thạch
Lam thực sự xuất xắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ ,cùng nỗi đau âm thầm ,nhẹ nhàng
nhưng khi sắp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột ,cười ra nước
mắt của Nguyễn Công Hoan ,không phải là cái xót xa đến tận xương tuỷ như Nam Cao nhưng những
trang văn nhẹ nhàng ,tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là
cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng ,ngột ngạt đương thời , đem đến cho người đọc những tình cảm
thương xót đầy tính nhân bản.
Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng ,nhưng với quan
niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn :Văn chương không phải là một cách để thoát ly hay lãng quên ,mà
trái lại ,văn chương “phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”,là tiếng kêu thương thoát ra từ
những kiếp lầm than ,khổ cực ,Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù
điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×