Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề cương ôn tập Ngữ Văn 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.18 KB, 19 trang )

TRƯỜNG THPT VŨNG TÀU LỚP 11A3
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN NGỮ VĂN 11 – HKII (2011 – 2012)

A – TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ 1: NGHĨA CỦA CÂU
I. NGHĨA SỰ VIỆC
− Xác định nghĩa sự việc trong câu, bằng cách loại bỏ những từ ngữ tình thái, như:
hình như, có lẽ,
− Chỉ ra chủ thể và từ ngữ biểu hiện.
 Câu biểu hiện hành động/ trạng thái, tính chất, đặc điểm/ quá trình/ tư thế/ sự tồn tại/
quan hệ.
II. NGHĨA TÌNH THÁI
− Xác định từ ngữ tình thái.
 Nghĩa tình thái:
1. Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người nói đối với sự việc được đề cập đến
trong câu:
− Khẳng định tính chân thực của sự việc.
− Phòng đoán sự việc với độ tin cậy cao hoặc với độ tin cậy thấp.
− Đánh giá về mức độ hay số lượng đối với một phương diện nào đó của sự
việc.
− Đánh giá sự việc có thực hay không có thực, đã xảy ra hay chưa xảy ra.
− Khẳng định tính tất yếu, sự cần thiết hay khả năng của sự việc.
2. Tình cảm, thái độ của người nói đối với người nghe
− Tình cảm thân mật, gần gũi.
− Thái độ bực tức, hách dịch.
− Thái độ kính cẩn.
CHỦ ĐỀ 2: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CHÍNH LUẬN
***
Khẳng định một đoạn văn thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận:
1. Các phương tiện diễn đạt:


− Về từ ngữ: chỉ ra những từ ngữ chính trị có trong đoạn văn, như: độc lập, đồng bào,
đa số, thực dân, phát xít, kháng chiến, bình đẳng, tự do,
− Về ngữ pháp: chỉ ra sự logic trong đoạn văn qua các từ ngữ mang tính liên kết như:
đó là, tuy nhiên, do vậy, bởi thế, tuy nhưng, => khẳng định các câu văn trong văn
bản có kết cấu chuẩn mực, mạch lạc.
− Về biện pháp tu từ: chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản: điệp từ,
điệp ngữ, so sánh, ước lệ, tượng trưng, nhân hóa,
2. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận:
− Tính công khai về quan điểm chính trị: khẳng định văn bản đã thể hiện đường lối,
quan điểm của người viết (nói) một cách công khai, dứt khoát, không che giấu, úp
mở. Các từ ngữ được dùng được cân nhắc kĩ càng, thể hiện lập trường và quan điểm
chính trị.
- - 1/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
− Tính chặt chẽ rrong diễn đạt và suy luận: khẳng định đoạn văn có hệ thống luận
điểm chặt chẽ, từng ý, từng câu được phối hợp với nhau một cách hài hòa & mạch
lạc.
− Tính truyền cảm, thuyết phục: thể hiện ở giọng văn hùng hồn, tha thiết, bộc lộ thái
độ của người viết.
B – VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN
CHỦ ĐỀ 1: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Mở đoạn: Giới thiệu chung một cách trực tiếp về vấn đề cần nghị luận
2. Thân đoạn:
− Giải thích về hiện tượng đó.
− Nêu lên thực trạng của hiện tượng.
− Chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng.
− Hậu quả của hiện tượng đó như thế nào (nếu hiện tượng đó là xấu).
− Từ đó, đưa ra giải pháp khắc phục.
− Trong đoạn văn, có thể liên hệ ngoài thực tiễn về một số khía cạnh. Bên cạnh đó, dẫn
chứng phải phù hợp, sinh động, chân thực; số liệu thống kê phải chính xác và mới
nhất.

3. Kết đoạn: Rút ra bài học và liên hệ bản thân.
CHỦ ĐỀ 2: NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ
1. Mở đoạn: Giới thiệu chung về vấn đề cần nghị luận
2. Thân đoạn:
− Giải thích những từ ngữ quan trọng.
− Phân tích những biểu hiện của tư tưởng, đạo lí ấy <=> dùng dẫn chứng để chứng
minh.
− Phê phán những biểu hiện không tốt; ngược lại với tư tưởng, đạo lí đang nghị luận.
− Rút ra ý nghĩa bài học.
3. Kết đoạn: Đánh giá, khẳng định lại tư tưởng, đạo lí.
Liên hệ đến văn học, hoặc gương người tốt việc tốt.
- - 2/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
C – TÁC PHẨM VĂN HỌC. NHỮNG BÀI VĂN THAM KHẢO
CHỦ ĐỀ 1: VỘI VÀNG – XUÂN DIỆU
Đề Bài: Phân tích bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu.
Bài Làm Tham Khảo
Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho
mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy,
tha thiết, bằng cuộc sống say mê và bằng việc “hăm hở” làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu,
sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, và “Thơ duyên” trong
tuyển tập “Thơ thơ” - đứa con đầu lòng mà “ông hoàng thơ tình” đã ban tặng cho nhân gian.
Như một cái chạm tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng
và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nét và
thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm
của hồn của cái "Tôi" trữ tình Xuân Diệu. Trong “Vội vàng”, Xuân Diệu đã tạo ra một khúc
tình si say đắm ngọt ngào thật đến từng hơi thở!
[ ]
Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các
bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đối với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng
yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật

mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi
bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong
khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ
lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì
trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là
nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một niềm say
mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh
liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn
“tắt nắng”, “buộc gió” trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh
vật muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn
níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ, đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là
ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một
tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống
là để tận hưởng và cống hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường
trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh tế nhất
của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình.
Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong “Vội vàng” vừa như một mảnh vườn tình ái,
vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa
như một người tình đầy khêu gợi.
Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình
bơi trong ánh nắng, rung động với bướm, chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si”

- - 3/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra một thiên đường trên
mặt đất. Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dụng thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của
ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để
cảm nhận vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang.
Trong đoạn thơ, điệp ngữ “này đây” được sử dụng năm lần kết hợp với lối kiệt kê khiến
nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo
vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần
tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”,
của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi
giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống
ngồn ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở
hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những “món ăn” có sẵn. Những vẻ đẹp
được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của
Xuân Diệu - cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự
vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được
trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên
lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại
đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái
hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách
ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh,
những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách Xuân Diệu: tuần tháng mật,
đồng nội xanh rì tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân.”
Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng,
tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời,

được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa”
gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại Hy Lạp xưa. Niềm
vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần
và thi sĩ đã sáng tạo nên một câu thơ tuyệt bút: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây
là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống
đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trìu tượng, thuộc
về thời gian “tháng giêng” so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể. Nhưng sao câu thơ Xuân
Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế! Cái mới trong
thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu
thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái
mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều
thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân
sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian:
“tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ” Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi
nó ngắt thành hai câu chứa đựng hai tâm trạng, hai cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng –
vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là “vội vàng một nửa”. Thường thì con
người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ
trung mà đã nuối tiếc, đã vội vàng “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” Vì sao vậy?
Bởi, với Xuân Diệu:
- - 4/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa ”
Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người
xưa đã từng thở dài “xuất thì bất tái lai”. Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống,
coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất
trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối
Mối tương giao màu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn
“chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”.
Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng
hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa
mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: “Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?” Con người hiện đại
sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh
khắc qua là mất đi vĩnh viễn Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi
tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng “chẳng bao giờ nữa ” Câu
cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống
cuống tiếc rẻ, bâng khuâng.
Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời “thơ thơ”
thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một
con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một
cách chân thành. “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - mà vạn vật là muôn đá nam châm.” Từng
làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi
vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi.
Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng “tôi” - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi
sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối

diện với sự sống:
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”
“Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- - 5/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ
“Ta muốn ôm” được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang
rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì - sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là
chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang dứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng
đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê,
cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân Tất thảy đều vồ vập, khát
khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hoà, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với
cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân
Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng với tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho
nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng
về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ.
Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động
từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó
chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những
quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô
nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo “Và non nước, và cây, và cỏ rạng.” Một trạng thái tham lam,
ham hố không có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc

đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy
hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như
con người có hình hài và mang dáng dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ: “
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ
của một trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân -
tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ
này, hình ảnh xuân hồng với từ “cắn” khiến câu thơ thật gợi cảm, xen chút giật mình trước
tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của
Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn. Khát vọng ấy là khát
vọng muốn tận hưởng, cũng có đôi chút cống hiến đối với cuộc sống tươi đẹp này. Sự “vội
vàng” của Xuân Diệu rất đặc biệt, “vội vàng” để níu lấy, để tận hưởng những gì tươi đẹp
nhất ở thời trẻ cuộc đời mỗi con người. Hãy sống hết mình, hãy biết quý trọng thời khắc
tươi trẻ & hạnh phúc nhất ở cuộc đời – Đó là lời giục giã được bộc lộ một cách chân thành
từ nhà thơ Xuân Diệu. Tuy vậy, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, sự “vội vàng” của một
bộ phận giới trẻ không còn mang tính “vội vàng” đúng nghĩa như “vội vàng” của Xuân
Diệu nữa, dường như đã và đang có phần sai lệch!
Với bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu
“Thơ mới”. Mới lạ nhưng táo bạo, độc dáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là
cách cảm nhận cuọc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu.
“Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ
Và là ham muốn mãnh liệt muốn nĩu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh
sắc đất trời “tươi non mơn mởn”. Bài thơ thật sự rất ý nghĩa! Phải chăng trời đất sinh ra thi
sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những
điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu – thơ vội vã với nhịp đập của thời gian.
Lưu ý: Nếu đề bài yêu cầu phân tích một đoạn thơ nào đó thì sau phần mở bài phải trích thơ.
- - 6/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
CHỦ ĐỀ 2: TRÀNG GIANG – HUY CẬN
Đề Bài: Phân tích bài thơ “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận.
Bài Làm Tham Khảo

Từ ngàn xưa, thiên nhiên đã trở thành niềm cảm hứng mãnh liệt khơi nguồn sáng tạo
cho thi nhân. Ta đã từng gặp cảnh bồng lai trong thơ Lý Bạch, một vùng quê mộc mạc, tĩnh
lặng trong thơ Nguyễn Khuyến, cảnh sơn thủy hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi. Đọc “Tràng
giang” của nhà thơ Huy Cận – một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới (1932 –
1945), ta bắt gặp cảnh mênh mông sóng nước; đồng thời ta cảm nhận được cái tôi buồn vời
vợi, thương cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Đây là một bài thơ hay,
tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bài thơ có tựa đề “Tràng giang”, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề “Tràng giang”, có
nghĩa là sông dài, rộng, đồng thời điệp vần ang, góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng
của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu cả bài thơ. Ngay từ
khổ thơ đầu, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng lăn tăn, lô xô nối nhau

chạy tới vô tận. Với động từ gợn, kết hợp với từ láy điệp điệp, từ gợi cảm xúc thì những con
sóng ấy trở thành những con sóng lòng. Đó chính là nỗi buồn đang lan tỏa trong lòng nhà
thơ.
Trên dòng sông gợn sóng điệp điệp, nước song song ấy, là một con thuyền xuôi mái, lững
lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy sự lẻ loi, đơn chiếc của
cảnh vật trong không gian mênh mông của thiên nhiên, của tràng giang dài và rộng vô tận
đến nhường nào! Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài “Tràng giang”, nghệ thuật đối đã
được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm, luật như
cách đối trong thơ cổ: “Sóng – con thuyền”, “buồn điệp điệp – nước song song”. Điều này
làm cho câu thơ thêm uyển chuyển, linh hoạt; mặt khác vẫn phát huy được một trong những
thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật
sử dụng từ láy điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định, tạo nên âm điệu cổ kính.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận; nỗi buồn của con người cũng đầy ắp trong lòng:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
- - 7/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Thuyền và nước vốn đi liền với nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế
mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách thuyền về nước lại, nghe sao
đầy xót xa! Chính vì thế mà gợi lên trong lòng người nỗi sầu trăm ngả. Từ chỉ số nhiều
trăm hô ứng cùng từ chỉ số mấy đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn. Từ nỗi buồn hóa nỗi
sầu, rồi nỗi sầu ấy lan tỏa đi trăm ngả. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ
nhất qua câu thơ đặc sắc:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Đây là một câu thơ rất độc đáo. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với những từ
ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng giữa vũ trụ bao la. Một gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé;
cành khô gợi lên sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống. Lạc mang nỗi sầu vô định, trôi nỗi, bập
bềnh trên mấy dòng nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi đi nơi nào,
hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống
vắng, đơn côi. Nét đẹp cổ điển tả cảnh ngụ tình thật khéo léo, tài hoa của tác giả đã gợi tả
nỗi buồn u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm

thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó, ta
cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện tại rất thú vị của khổ thơ. Đó là cách nói củi khô một cành
thật đặc biệt không chỉ thâu tóm toàn bộ cảm xúc của toàn khổ mà còn hé mở tâm trạng của
nhân vật trữ tình, một niềm đơn côi, lạc lõng; kiếp người nhỏ bé, lẻ loi đang nổi trôi vô định
giữa dòng đời.
Khép lại khổ một, người đọc phần nào đã cảm nhận được nỗi lòng của nhà thơ. Sang khổ
thơ thứ hai, cảnh vật được mở rộng hơn, được điểm thêm bằng các chi tiết cồn nhỏ, gió,
làng xa nhưng vẫn mang một nỗi buồn khó tả:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong Chinh phụ ngâm:
“Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Hai từ lấy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo léo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ
nên một quang cảnh vắng lặng. Lơ thơ gợi sự ít ỏi, bé nhỏ; đìu hiu lại gợi sự quạnh quẽ.
Giữa khung cảnh cồn nhỏ, gió thì đìu hiu, một khung cảnh lạnh lẽo tiêu điều ấy, con người
trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Câu thơ lâu nay
vẫn tồn tại hai cách hiểu, chợ chiều đã vãn nên không còn nghe thấy một âm thanh nào nữa,
cũng có thể là những âm thanh của một buổi chợ chiều đã vãn từ xa nên rất nhỏ. Nhưng dù
theo cách hiểu nào thì âm thanh đó và hình ảnh chợ chiều đã vãn cũng gợi lên một nét buồn.
Đôi mắt trữ tình của nhà thơ đã trải rộng, nhìn lên, nhìn xuống, nhìn xa:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Đây là câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng theo nhiều chiều cao,
rộng, sâu. Ở đây, có cách kết hợp rất độc đáo, không phải cao chót vót mà là sâu chót vót,
từ sâu gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng. Chót vót khắc họa
được chiều cao dường như vô tận. Vì nắng xuống nên khoảng cách giữa dòng sông và bầu
trời càng xa hơn. Không gian càng rộng, càng xa, càng sâu thì cảnh vật càng trở nên vắng
lặng, chỉ có sông dài với bến lẻ loi, cô đơn. Nỗi buồn dường như thấm vào cả không gian.
Con người trở nên nhỏ bé, lẻ loi trước không gian rộng lớn và thấy “lạc loài giữa cái mênh

mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh). Bên cạnh đó, vẻ đẹp cổ điển
của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi, có tác dụng làm cho người
đọc nhận thấy mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc
mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào trong giá lạnh và cô đơn. Nhưng thiên nhiên
đã đáp trả lại sự khao khát ấy bằng những hình ảnh quạnh quẽ, đìu hiu:
- - 8/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh quen thuộc, thường dùng trong thơ
cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời.
Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là hàng nối hàng. Bèo
trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợp ngợp trước cảnh thiên nhiên, để từ đó cõi lòng
càng đau đớn, càng cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là bờ xanh tiếp bãi vàng như
mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường như
không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định không không để phủ định hoàn toàn những kết nối của
con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi
cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay
chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên
nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo léo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
Bút pháp chấm phá với mây cao đùn đùn núi bạc thành lớp lớp đã khiến người đọc tưởng
tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét

đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ
thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ đùn, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ
bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại,
bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Chính vì vậy, hình ảnh cánh chim
xuất hiện nhỏ bé, lẻ loi chao nghiêng trong bóng hoàng hôn là tín hiệu thẩm mĩ trong thơ cổ
điển, nó báo hiệu trời về chiều gợi nỗi buồn xa vắng; nhưng ở đây hình ảnh này còn là biểu
tượng của cái tôi nhỏ bé, cô độc giữa cuộc đời.
Giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Dợn dợn là từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô
ứng cùng cụm từ vời con nước cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của lòng quê.
Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương
đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà Thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi lòng
đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu vần vịnh vào sóng để mà buồn mà nhớ, còn Huy Cận thì
buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi tự nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm
lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua
lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử
dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như mây, sông, cánh chim, và trên hết là cách vận
dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của Thơ Đường.
- - 9/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Vẻ đẹp hiện đại lan tỏa qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như câu sâu
chót vót, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê
hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn

đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được; khác hẳn với cảnh tù
túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất Huy Cận, với vẻ
đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu
quê hương.
- - 10/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
CHỦ ĐỀ 3: ĐÂY THÔN VĨ DẠ – HÀN MẶC TỬ
Đề Bài: Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Bài Làm Tham Khảo
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong
trào Thơ mới (1932 – 1945). Tuy cuộc đời có nhiều đau thương nhưng những tác phẩm của
ông vẫn thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết. Một trong những bài thơ đặc sắc nói lên điều
đó là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, được in trong tập “Thơ Điên”. Bài thơ miêu tả bức tranh
phong cảnh của thôn Vĩ, đồng thời thể hiện nỗi buồn cô đơn, và tấm lòng thiết tha yêu đời
của nhà thơ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc
Tử với cô gái quê ở thôn Vĩ Dạ, đó là Hoàng Thị Kim Cúc. Có thể nói bài thơ này như một
kỳ niệm theo ông đến hết cuộc đời.

Khổ thơ đầu của bài thơ đã miêu tả thiên nhiên, phong cảnh của thôn Vĩ, đồng thời hòa vào
một tình cảm nhớ thương, đằm thắm, bâng khuâng, tiêu biểu cho một nét phong cách thơ
Hàn Mặc Tử:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Vĩ Dạ, một làng cổ nổi tiếng, nơi cố đô Huế nằm bên bờ sông Hương. Cảnh vườn tược xanh
tươi, cây trái bốn mùa, với sông nước con đò và những nếp nhà duyên dáng, thơ mộng Vĩ
Dạ từng gắn liền với những câu hò Mái nhì, Mái đẩy, hò Giã gạo từng làm say đắm lòng
người đã mấy trăm năm qua:
“Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm ai cá nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”
Những tiếng “ai” thân thương trong câu hò xứ Huế ấy đã vọng vào thơ Hàn Mặc Tử, gợi
nên bao ám ảnh, nhớ thương bồi hồi.
Trở lại bài thơ, khổ thơ đầu của bài thơ hiện lên hai chi tiết hòa quyện vào nhau, đó là nét
đẹp của bức tranh phong cảnh và tâm trạng của tác giả.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu thơ đầu tiên có hai cách hiểu nghĩa, vừa là lời trách móc nhẹ nhàng, vừa là lời mời gọi
tha thiết của cô gái. Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng có thể thấy câu thơ chính là niềm
thương nhớ không thể kìm nén của tác giả. Và sự không thể kìm nén đó đã bật lên thành
câu hỏi. Bên cạnh đó, câu thơ này còn bộc lộ sự khéo léo trong cách sử dụng từ ngữ của tác
- - 11/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
giả. Nhà thơ dùng từ “chơi” chứ không dùng từ “thăm”. Từ “chơi” gợi lên sự thân mật, tự
nhiên; còn từ “thăm” chỉ sự khách sáo, xã giao và không quen thuộc. Câu thơ chính là
duyên cớ để nhà thơ trở về thôn Vĩ trong hồi tưởng. Hãy về với thôn Vĩ, một thôn Vĩ tràn
ngập trong ánh nắng ban mai:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp vừa rất thực, vừa rất mộng, với hàng loạt hình ảnh về
“nắng”, “hàng cau”, “vườn” Ấn tượng sâu sắc nhất là cảnh vườn Vĩ Dạ tắm trong ánh
nắng bình minh. Hàn Mặc Tử có ý muốn nhấn mạnh đến hình ảnh “nắng”. “Nắng hàng cau
- nắng mới lên”. “Nắng mới lên” là cái nắng ban mai, nắng tinh khôi, trong trẻo, non tơ, dịu
dàng và sáng bóng; lại được chan hòa trong cây lá ướt đẫm sương đêm nên có sự phản
chiếu long lanh. Điệp từ “nắng” đã có tác dụng làm cho “nắng” như hòa quyện cùng cảnh
vật, cái nắng đặc trưng của miền Trung. Đó là một sự cảm nhận và miêu tả thật tinh tế của
nhà thơ. Hình ảnh “nắng hàng cau” gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Trong muôn vàn cây
lá trong vườn, tác giả đã chỉ chọn “hàng cau” để tả ánh nắng. Phải chăng cau là loài cao
nhất trong vườn nên có thể đón ánh nắng đầu tiên của ban mai dịu nhẹ. Chình vì “nắng mới
lên” cây lá còn ướt đẫm sương đêm nên mới có cảnh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
Câu thơ vừa là một câu hỏi “vườn ai?”, vừa là một lời bình phẩm khen ngợi “mướt quá”,
“xanh như ngọc”. Chữ “mướt” toát lên vẻ đẹp mượt mà, óng ánh, mỡ màng. Khu vườn thôn
Vĩ hiện lên với muôn vàn màu sắc lung linh dưới ánh nắng ban mai, tất cả đang xanh tốt và
tràn đầy sức sống. Sự so sánh ví von “xanh như ngọc” của nhà thơ đã khiến ta liên tưởng tới
một câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
_Thơ Duyên_
Điều này lại một lần nữa thể hiện vẻ đẹp thơ mộng, hữu tình của thôn Vĩ, nơi chứa nhiều kỷ
niệm đẹp đẽ của tác giả. Có thể nói, Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi hư ảo hóa một
khung cảnh rất hiện thực và hiện thực hóa những gì rất hư ảo mà vốn chỉ thấy trong tưởng
tượng.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ thứ tư nổi bật hẳn lên với sự xuất hiện của hình ảnh, bóng dáng con người. Lá trúc
thì mảnh mai, thanh tú. Nhiều cành lá xếp chồng lên nhau, lay nhẹ theo làn gió thoảng
hương mai, dưới ánh nắng sớm, che ngang in bóng như chữ điền trên khuôn mặt người thôn
Vĩ. Hay khuôn mặt của người thôn Vĩ hiền từ, phúc hậu, vuông vắn như chữ điền. Hay cũng
có thể là gương mặt dịu dàng và e ấp của thiếu nữ. Hình ảnh vừa thực, vừa mang ý nghĩa
tượng trưng, có phần hư ảo. Con người chợt xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm

cho cảnh vật sinh động hẳn lên và hình ảnh con người cùng thiên nhiên hòa hợp trong vẻ
đẹp dịu dàng, thơ mộng. Bức tranh quê hương ấy xinh đẹp, tươi tắn, tràn đầy sức sống mơn
mởn và có sức quyến rũ lạ lùng.
Có thể nói, khổ thơ đầu ẩn chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Trong tâm tưởng của nhà thơ, cảnh thôn Vĩ và con người thôn Vĩ hòa quyện với nhau, tạo
thành một miền kỉ niệm lung linh. Và phải là một con người có trí tưởng tượng phong phú
và yêu thôn Vĩ, yêu cảnh vật thì Hàn Mặc Tử mới có thể viết nên những câu thơ trác tuyệt
và ấm lòng đến thế!
Khổ thô thứ hai của bài thơ cho thấy một thế giới rất riêng của Huế. Khi dòng kỷ niệm của
nhà thơ vẫn tiếp tục thì những hình ảnh khác lại ùa về. Đó là dòng sông Hương, là gió và
mây. Có thể nói, Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, với một không
gian nghệ thuật đầy thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “gió theo lối gió”; cũng có
mây, nhưng “mây đường mây”. Gió – mây giờ đây đã đôi đường, đôi ngả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
- - 12/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Bằng cách sử dụng nhịp 4/3 khéo léo với hai vế tiểu đối, câu thơ đã gợi cho người đọc một
không gian tan tác, chia lìa. Chữ “gió” và chữ “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế cho
chúng ta thấy một không gian rộng lớn, thoáng đãng, mênh mông. Cảnh vật giờ đây cũng
mang theo bao nỗi niềm: “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Sông Hương lững lờ trôi êm
đềm, trong tâm tưởng, thi nhân đã dùng phép nhân hóa để hóa thành “dòng nước buồn thiu”
càng thêm mơ hồ, xa vắng. Tâm trạng nhà thơ giờ đây đã thổi hồn vào cảnh vật. Người
buồn, cảnh cũng buồn. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng, chỉ nhìn thấy “hoa bắp lay”. Chữ
“lay” gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hay hoa khẽ lay động, không đủ sức xua
tan đi nỗi buồn của cảnh vật. Hai câu thơ, mười bốn chữ, với thi liệu “gió”, “mây”, “dòng
nước”, “hoa bắp”; gợi lên vẻ đẹp thơ mộng & lãng mạn của cảnh vật; nhưng lạnh lẽo. Nó
như phảng phất nỗi buồn cô đon của nhà thơ trước cuộc đời.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng sông Hương ngày
nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sông trăng” thơ mộng:
‘Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh “sông trăng” và con thuyền chở
trăng trên sông thật mơ hồ, nhưng cũng thật quyến rũ. Hình ảnh hư và thực đã được Hàn
Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế, tài hoa. Dòng nước tắm ánh trăng sáng rực bỗng rùng
mình hóa thành dòng trăng hay ánh trăng tan ra và tuôn chãy thành dòng nước? Ánh trăng
thật lung linh, kì ảo. Hình ảnh “con thuyền chở ánh trăng” lướt nhẹ trên dòng sông trăng đễ
cập bến thời gian cho kịp giờ ân ái là một hình ảnh kì ảo. Những hình ảnh như thế vẫn xuất
hiện thường xuyên trong thơ Hàn Mặc Tử. Đó là những hình ảnh thuộc về một thế giới
khác, một thế giới rất riêng cùa Hàn Mặc Tử. Hai câu thơ cuối trong khổ thơ thứ hai làm
thành câu hỏi: “Thuyền ai đó?” – “Cò chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” gợi sự khắc
khoải, mơ hồ và chờ đợi. Từ “tối nay” không gợi một thời gian cụ thể nào; nhưng nếu
không “kịp” thì có lẽ không còn một tối nào khác nữa. Câu thơ gợi lên sự tuyệt vọng, đau
thương và mất mát. Dường như con người hi vọng kia đang chạy đua với thời gian để giành
lấy tình yêu và sự sống. Câu thơ làm chúng ta nhớ lại cái gấp gáp, vội vàng cùa Xuân Diệu
trong bài thơ “Vội Vàng”. Nhưng Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh này lại khác. Ông không có
cái sức sống mãnh liệt, tràn đầy nhiệt huyết như Xuân Diệu. Ông đang phải chạy đua với
thời gian vì ông biết sự sống của mình không kéo dài. Biết đâu vào tối mai, vầng trăng kia
vụt tắt, con thuyền kia mãi mãi không chở trăng về kịp. Niềm vui, hạnh phúc không đến
được với nhà thơ. Một hình ảnh thơ rất ảo nhưng cũng rất thực. Cái thực chính là hoàn cảnh
đau thương của tác giả. Toàn bộ khung cảnh trong khổ thơ thứ hai là một thế giới ảo. Hồn
thi nhân chìm vào cõi mông lung. Ớ đó có hẹn hò, có nhớ thương, chờ đợi, một niềm hi
vọng và có cả dự cảm chia lìa, có thất vọng ngay trong hi vọng và có cả niềm đau thương
của chính cuộc đời tác giả.
Giọng thơ khắc khoải trong khổ thơ thứ hai trở nên gấp gáp, khẩn thiết trong khổ thơ thứ
ba. Tác giả dần đối diện với chính mình và với thực tại của một bóng giai nhân chỉ có trong
ảo ảnh:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Ở câu thơ đầu của khổ thơ cuối này, tác giả đã sử dụng điệp ngữ: “khách đường xa”, kết
hợp với chữ “mơ” trong câu thơ đầu đã thể hiện nỗi khắc khoải gần như tuyệt vọng. Nhà
thơ đang chìm vào cõi mộng ảo. Bóng giai nhân hiện ra, rồi bất chợt biến thành hư ảo. Hình
ảnh giai nhân trong thơ Hàn Mặc Tử biểu hiện cho sự tinh khiết, trong trắng. Cụm từ “nhìn
không ra” đã phần nào nói lên điều đó. Hình ảnh sương khói mờ trong câu thơ thứ ba:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
- - 13/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Đã cho ta thấy được một không gian hư ảo đang hiện ra và làm mờ bóng người. Bên cạnh
đó, sự xuất hiện của cụm từ “ở đây” làm cho người đọc thú vị. Ở đây có lẽ là Vĩ Dạ của một
thời mộng mơ? Cả bài thơ dồn hết tâm tư vào câu cuối:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu hỏi tu từ mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm tha thiết với cuộc sống. Điệp từ
“ai” bộc lộ tâm trạng bâng khuâng, xót xa. Nhà thơ đã sử dụng tài tình đại từ phiến chỉ “ai”
để mở ra hai ý nghĩa của câu thơ: Không biết tình người xứ Huế dành cho nhà thơ có đậm
đà hay không; hay người xứ Huế có biết tình cảm của nhà thơ hết sức đậm đà tha thiết hay
không? Sự khép lại của câu thơ cuối này cũng đã khẳng định sự trống vắng, nỗi cô đơn
trong tâm hồn nhà thơ.
Bên cạnh thành công của bài thơ mang đậm tính nhân văn này, nghệ thuật cũng là một sự
đóng góp không nhỏ cho thành công ấy. Ngôn ngữ điêu luyện, phép điệp ngữ khéo léo, bút
pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng, hình ảnh hiền hòa & thơ mộng, đã tạo nên một bức
tranh thật đáng yêu về quê hương xứ sở, cũng như hình ảnh của một thi nhân nặng trĩu nỗi
buồn đang hiện ra trong lòng người đọc.
Hàn Mặc Tử đã ra đi khi hãy còn quá trẻ. Thế nhưng dấu ấn thơ Hàn Mặc Tử là dấu
ấn thơ của trái tim nồng nàn, cuồng say, khát vọng yêu và sống. Hàn Mặc Tử trong đởi thơ
của mình đã để lại những tác phẩm hay và thực sự ý nghĩa. Với những hình ảnh biểu hiện
nội tâm sâu sắc, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hay, tiêu biểu cho những tác phẩm ấy. Nó
hiện lên một tình yêu tha thiết và sâu nặng của nhà thơ đối với con người, với quê hương,
với cuộc sống và với tất cả cuộc đời này.
- - 14/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
CHỦ ĐỀ 4: TỪ ẤY – TỐ HỮU

Đề Bài: Phân tích bài thơ “ Từ ấy” của Tố Hữu để thấy được niềm vui sướng,
say mê của người thanh niên khi tìm được lí tưởng sống.
Dàn Bài Tham Khảo
I.Mở bài
- Tố Hữu (1920-2002) , tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở Thừa Thiên Huế.
Xuất thân trong gia đình tiểu tư sản.
- “Từ ấy” ghi nhận kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời CM của nhà thơ: được đứng vào hàng
ngũ của Đảng. Bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của
Tố Hữu, nó là tuyên ngôn về lẽ sống của một người chiến sĩ cách mạng, cũng là tuyên ngôn
nghệ thuật của nhà thơ.
- Bài thơ nằm trong phần “Máu lửa” của tập “ Từ ấy”.
II. Thân bài
Niềm vui sướng say mê khi gặp lí tưởng của Đảng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
- Hai câu đầu được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên của
đời mình. Từ ấy là cai mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và
đời thơ của Tố Hữu, khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong phong trào
thanh niên, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng.
- Bằng những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lí”, “chói qua tim”, Tố Hữu
khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ.
Nguồn sáng ấy không phải là ánh sáng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng, mà là ánh sáng rực rỡ
của một ngày nắng hạ.
- Hơn thế nữa, nguồn sáng ấy còn là “mặt trời”, và là mặt trời khác thường, “mặt trời”
chân lí – một sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa : nếu mặt trời của đời thường
tỏa ánh sáng , hơi ấm và sức sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư
tưởng đúng đắn, lẽ phải, báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Những động từ
“bừng”, “chói” càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù

của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân lí mới của nhận thức, tư
tưởng, tình cảm.
- Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn cùng những hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ
thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản. Đó là một
thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh
rộn rã của tiếng chim hót. Đối với vườn hoa lá ấy còn gì đáng quí hơn ánh sáng mặt trời?
Đối với tâm hồn người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, còn gì đáng quí
hơn khi có một lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt?
- Tố Hữu sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây đón ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng
cộng sản đã làm cho tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, làm cho cuộc
sống con người có ý nghĩa hơn. Nhưng Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống
mới ấy của tâm hồn cũng là vẻ đẹp của sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối
lập với nghệ thuật, trái lại, đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo
mới cho hồn thơ.
Những nhận thức mới về lẽ sống.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
- - 15/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”
- Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống và sự gắn
bó, hài hòa giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người. Với động từ “buộc”
thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn
của “cái tôi” cá nhân để sống chan hòa với mọi người. Với từ “trang trãi” có thể liên
tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn
cảnh của từng con người cụ thể.
- Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình
cảm chung chung mà là tình cảm ái hữu giai cấp. Nhà thơ khẳng định trong mối quan hệ
với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. “Khối đời” là
hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết

chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì mục tiêu chung. Có thể hiểu : khi “cái tôi” chan hòa
trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người
sẽ tăng lên gấp bội.
- Tố Hữu đã đặt minh giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao
khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà
còn bằng tình cảm yêu mến, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng
khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của
quần chúng nhân dân.
Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…”
- Những điệp từ : “là”, cùng với các từ “con”, “em”, “anh” và số từ ước lệ “vạn” nhấn
mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm
nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ.
- Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành
khi nói tới những “kiếp phôi pha” , những em nhỏ “không áo cơm cù bất cù bơ”. Qua
những lời thơ ấy cũng có thể thấy được lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công,
ngang trái trong cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp người phôi pha, những em nhỏ cù bất cù
bơ mà người thanh niên Tố Hữu sẽ hăng say hoạt động cách mạng.
Đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối
quan hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, cần lao.
III. Kết bài
Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp lí tưởng
cộng sản và tác dụng kì diệu đối với cuộc đời nhà thơ.
- - 16/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
CHỦ ĐỀ 5: CHIỀU TỐI – HỒ CHÍ MINH
Đề Bài: Vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh qua bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí
Minh.

Bài Làm Tham Khảo
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người đã đưa con thuyền
Cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ thắng lợi. Đồng thời, Hồ Chí Minh còn là một tác gia
lớn, với nhiều thể loại đa dạng, phong phú: thơ ca, truyện và kí, văn chính luận, Trong đó,
tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù) là một tác phẩm ấn tượng và tiêu biểu nhất
cho hồn thơ của Người. Với 134 bài thơ viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tác
phẩm đã phản ánh chân thực bức tranh nhà tù Tưởng Giới Thạch, bức chân dung tự họa tinh
thần. Trong bức tranh mang nhiều màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại ấy, ta không thể
không nhắc đến bài thơ “Mộ” (Chiều tối), là bài thơ thứ 31 của tập thơ, được viết từ một
chuyến chuyển lao vất vả, đầy gian khổ của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào
cuối thu năm 1942. Bao trùm bài thơ đặc sắc này là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và
ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của Hồ Chí Minh.
Từ xưa đến nay, cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của thi ca. Cảnh chiều tối –
đó là thời khắc cuối cùng của một ngày, khi ấy con người dễ rơi vào trạng thái buồn bã, cô
đơn. Vì vậy, các nhà thơ thường sử dụng đề tài này để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của mình.
Bài thơ “Chiều tối” cũng được viết trong một khung cảnh không gian như thế.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.)
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên, nơi núi rừng lúc chiều tối:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Trong bức tranh thiên nhiên này, ta thấy xuất hiện hai hình ảnh “cánh chim” và “chòm

mây”. Đây là hai hình ảnh rất quen thuộc trong nghệ thuật thơ ca. Nó mang ý niệm của thời
gian. Trước hết, hình ảnh “cánh chim” hiện ra với hoạt động, trạng thái “mỏi mệt”, đang
bay “về rừng, tìm chốn ngủ”. Đó là chi tiết có ý nghĩa ước lệ, tình trạng, báo hiệu một ngày
sắp tàn. Thật vậy, hình ảnh “cánh chim” gợi cho ta liên tưởng đến những câu thơ, câu ca
dao đã từng xuất hiện trong thơ xưa:
“Chim bay về núi tối rồi”
Hay trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Chim bay thoi thóp về rừng”,
Hoặc trong Cảnh chiều hôm của Bà Huyện Thanh Quan:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”
Và trong Tràng giang của nhà thơ Huy Cận:
“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
Khi ánh sáng mất đi, màn đêm buông dần theo cánh chim sa xuống. Hình ảnh này thường
gắn với không gian siêu hình. Thế nhưng, hình ảnh trong thơ Bác được gợi lên có trạng
thái, có nơi có chốn. Có lẽ đó chính là sự ấm áp, được Bác cảm nhận một cách tinh tế qua
trạng thái bên ngoài lẫn bên trong. Ta dễ dàng nhận ra sự đồng cảm của Bác trong câu thơ
- - 17/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
đầu tiên này. Cánh chim sau một ngày kiếm ăn, bay ròng rã giờ đây đã mỏi mệt. Và người
tù cũng vậy, phải chuyển lao trong thời gian “gà gáy một lần đêm chửa tan”. Phải chuyển
lao trong hoàn cảnh trên người đầy gông, đầy xiềng xích vô cùng khó khăn và gian truân
như vậy, chắc chắn Bác rất mệt và thực sự không có từ ngữ nào có thể nào diễn tả được sự
mệt nhọc của Bác. Thế nhưng, qua sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm, giao hòa với thiên
nhiên, chúng ta đã thấy được ý chí vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của Bác. Bên cạnh
đó, câu thơ còn bộc lộ sự tài tình khi sử dùng bút pháp lấy không gian diễn tả thời gian của
Bác. Đúng như vậy, khi cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ thì cũng là lúc thời gian đang
dần về xế chiều. Tiếp đến là hình ảnh “chòm mây”, một hình ảnh cũng khá nổi bật trong
câu thơ. So với phần phiên âm, phần dịch thơ đã dịch chưa thật sự sát nghĩa. “Cô” trong cô
vân, cô phàm: “Cô vân độc khử nhạc”, “Cô phàm viễn ảnh bích không tận”. Ở đây, “cô
vân” có nghĩa là đám mây lẻ loi, được miêu tả qua từ láy “mạn mạn”, tạo cho người đọc
một sự di chuyển chầm chậm, lững lờ. Nhà thơ Thôi Hiệu cũng đã từng viết:

“Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay”
_Hoàng Hạc Lâu_
Hay trong “Thu điếu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Hình ảnh đám mây trong thơ Thôi Hiệu và Nguyễn Khuyến gợi lên sự vô hình, hư không,
vĩnh viễn. Nhưng đám mây trong thơ Bác lại giống như con người; đang lẻ loi, cô đơn nơi
đất khách quê người. Đồng thời hình ảnh ấy vẽ ra trước mắt chúng ta một không gian cao
rộng, thoáng đãng. Như vậy, qua hai hình ảnh này, ta thấy được một bức tranh thiên nhiên
đẹp nhưng thấm đượm nỗi buồn. Chỉ bằng vài nét chấm phá, Hồ Chí Minh đã miêu tả một
bức tranh như thế; chỉ gợi chứ không tả; chỉ cốt ghi lấy linh hồn của cảnh vật. Bên cạnh đó,
hình ảnh “cánh chim” ở trạng thái động, mang trạng thái giống con người. Bút pháp tả cảnh
ngụ tình đã được tác giả sử dụng rất linh hoạt. Còn đám mây, với sự tĩnh lặng và âm u của
núi rừng đã thật sự hiện lên rõ nét qua bút pháp lấy động tả tĩnh. Có thể nói, qua hai câu thơ
của tác phẩm, vẻ đẹp tâm hồn của Bác được biểu hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết,
một phong thái ung dung, tự đại. Điều này chứng tỏ rằng Bác phải là một người có ý chí và
nghị lực vượt qua mọi gian khổ thì mới có thể hòa mình vào cùng thiên nhiên, cùng cảnh
vật. Người thi sĩ cách mạng Hồ Chí Minh đã mở ra một hướng vận động rất hiện đại trong
tư tưởng, tình cảm: hướng về sự sống và hạnh phúc con người tuy bản thân đang là một lữ
tù nơi đất khách.
Tiếp nối mạch thơ, nếu như hai câu thơ đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng lúc
chiều về thì hai câu thơ cuối là sự nhịp nhàng chuyển động của bức tranh cuộc sống:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.)
Trong bức tranh chiều tối hiện lên hình ảnh con người: “sơn thôn thiếu nữ”. Trong thơ xưa,
người phụ nữ là một hình ảnh khá quen thuộc nhưng hoặc là người phụ nữ thượng lưu &
khuê các, hoặc là những người bất hạnh, đáng thương. “Sơn thôn thiếu nữ” trong câu thơ
của Bác là một người lao động với vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn đang trong tư thế lao động
với công việc “xay ngô” – một công việc hết sức vất vả và nặng nhọc. Hình ảnh “sơn thôn

thiếu nữ” được đặt ở vị trí trung tâm của bài thơ khiến cho bức tranh thiên nhiên trở thành
bức tranh đời sống, sinh hoạt của con người. Hình ảnh cô gái xay ngô trở thành chủ thể của
bức tranh. Thiên nhiên lui về phía sau, làm nền cho con người khiến bức tranh toàn cảnh trở
nên gần gũi, khỏe khoắn và ấm áp. Đây là sự vận động của hình tượng thơ phản ánh sự vận
động của tâm hồn nhà thơ. Về mặt nghệ thuật, dường như tác giả không chỉ ghi lại hiện
thực khách quan nhưng điệp ngữ liên hoàn: “ma bao túc – bao túc ma” nối dòng thơ thứ ba
với dòng thơ thứ tư tạo sự nối âm nhịp nhàng như diễn tả vòng quay của chiếc cối xay ngô.
- - 18/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại
Nhịp quay ấy cũng chính là nhịp điệu lao động, là hơi thở của sự sống. Vòng quay ấy còn
bao hàm ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Đó là vòng quay của thời gian. Khi
vòng xoay của chiếc cối xay ngô dừng lại, công việc lao động của một ngày kết thúc thì
cũng là lúc trời tối. Hình ảnh lò than rực hồng chính là điểm nổi bật nhất, điểm ngời sáng
trong thơ. Chữ “hồng” là điểm hội tụ, là trung tâm tỏa sức ấm nóng ra toàn bài. Chữ “hồng”
kết thúc bài thơ tự nhiên, giản dị mà hết sức bất ngờ. Bất ngờ và thú vị, độc đáo ở chỗ Bác
đã dùng ánh lửa hồng của bếp lửa để gián tiếp miêu tả trời tối (lấy sáng tả tối), vì trời tối
mới có thể nhìn thấy rõ bếp lửa hồng. Trong nguyên tác không hề có chữ “tối” mà vẫn miêu
tả được trời tối. Hơn nữa, ta còn cảm thấy bước đi của thời gian từ chiều sang tối. Bản dịch
thơ đã thêm câu thơ thứ ba một chữ “tối” tưởng như vô thưởng vô phạt, nhưng đã phá vỡ
kết cấu chặt chẽ, bất ngờ trong sự vận động của hình tượng thơ.
Bài thơ không kết thúc trong cảnh màn đêm bao phủ mà kết thúc bằng hình ảnh ngọn lửa
hồng ấm áp bừng sáng. Hình tượng thơ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã vận động hướng về phía
ánh sáng. Ánh sáng ấy lan tỏa ra từ bếp lửa, từ cuộc sống bình dị của người lao động và
được chiếu rọi dưới ánh sáng của Hồ Chí Minh, ánh sáng của niềm tin, lòng lạc quan tạo
nên vẻ đẹp lãng mạn cách mạng cho bài thơ.
Mộ (Chiều tối) là bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng Hồ Chí Minh và phong cách nghệ
thuật thơ Người. Đúng là Người chỉ dùng “vài nét bút lông” mà đã “phác họa nên những
điều vô giá” (Bu – ra – den, người dịch Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh ra tiếng Pháp).
“Vài nét bút lông” chính là bút pháp nghệ thuật cổ điển phương Đông. Điều vô giá nhất qua
bài thơ này là Người đã dạy chúng ta dù trong bất kì hoàn cảnh nào, vẫn không gục ngã,
vẫn hướng tới sự sống, ánh sáng và tương lai.

//=HẾT=//
CHÚC BẠN THI TỐT!
- - 19/19- - Biên soạn: Ngô Thành Đại

×