Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ- thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Mộc Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.65 KB, 68 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mở đầu
Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên một yêu cầu tất yếu, cấp
bách đối với Việt Nam. Thời gian qua, nước ta đã tích cực chuẩn bị để tham gia ngày
càng sâu rộng hơn vào tiến trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như gia nhập ASEAN
năm 1995, APEC năm 1998, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ năm
2000. Mốc quan trọng nhất để đánh giá mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới là khi
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Để
làm được việc đó, chúng ta phải chấp nhận các luật chơi nêu trong tất cả các Hiệp định
đa phương của WTO, trong đó có Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ GATS
(General Agreement on Trade in Servicies).
Thương mại dịch vụ là lĩnh vực kinh tế rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Thương mại dịch vụ phát triển phong phú, đa dạng phụ thuộc vào sự
phát triển của nền kinh tế, trình độ phát triển khoa học công nghệ và tri thức của con
người trong xã hội. Điều này có thể thấy rõ ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ,
EU, Nhật Bản các ngành dịch vụ chiếm tới 70-80% GDP, còn đối với các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam, tỷ lệ này dừng ở mức 30-40%, ở các nước kém phát
triển tỷ lệ này thường ở mức trên dưới 10%. Xét trên bình diện thương mại toàn cầu,
theo báo cáo của WTO, các giao dịch thương mại dịch vụ chiếm xấp xỉ 50% tổng giá trị
thương mại toàn cầu. Bởi vậy, WTO đã đưa thương mại là một trong các nội dung đàm
phán quan trọng được điều chỉnh bằng một văn kiện pháp lý riêng rẽ - Hiệp định GATS,
trong đó có đưa ra các nguyên tắc quốc tế chung để điều chỉnh hoạt động thương mại
dịch vụ trên phạm vi toàn cầu.
Để bắt kịp với xu thế hội nhập trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã là
thành viên WTO thì việc không ngừng hoàn thiện các quy định pháp lý về thương mại
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dịch vụ là một vấn đề cấp bách.Thương mại dịch vụ gồm nhiều ngành nghề khác nhau,
tác động tới nhiều đối tượng khác nhau. Ví dụ như hoạt động trang trí nội thất, hoạt
động thiết kế, tư vấn, môi giới… Trong đó,tư vấn thiết kế trang trí nội thất là một trong
những hoạt động hiện nay đang được các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm. Đặc


biệt là khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì hoạt động này càng
được chú trọng quan tâm hơn. Nắm bắt được điều đó, các nhà làm luật không ngừng
hoàn thiện quy định pháp lý về hoạt động dịch vụ, đặc biệt là vấn đề giao kết, thực hiện
hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ trong từng lĩnh vực cụ thể.
Bài báo cáo: “chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ- thực tiễn áp dụng tại công ty
TNHH Mộc Dũng” một phần khái quát về hợp đồng dịch vụ nói chung và những kết
quả và khó khăn khi áp dụng tại công ty. Nội dung bài báo cáo gồm 3 phần:
- Phần 1: Cơ sở lý luận về hợp đồng dịch vụ. Trong phần này chú trọng đến ba vấn
đề:
+ Hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
+ Khái quát hợp đồng kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ
+ Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất
- Phần 2: Thực tiễn áp dụng hợp đồng dịch vụ tại công ty TNHH Mộc Dũng. Phần
này chủ yếu tìm hiểu một cách khái quát về công ty TNHH Mộc Dũng, cụ thể những
vấn đề như: tổng quan về công ty TNHH Mộc Dũng, tình hình và phương hướng hoạt
động của công ty, tình hình thực hiện hợp đồng dịch vụ tại công ty.
- Phần 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giao kết và thực
hiện hợp đồng dịch vụ tại công ty TNHH Mộc Dũng.
Bài báo cáo đã phần nào khái quát được tình hình áp dụng pháp luật vào hoạt động
của công ty. Tuy nhiên, nội dung còn nhiều thiếu sót, rất mong sự góp ý, chỉ bảo của các
thầy cô cùng các bạn.
Chương I. Cơ sở lý luận về hợp đồng dịch vụ
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I. Hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
1. Sự cần thiết của hợp đồng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
Theo điều 3 Luật thương mại, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc

nhằm thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội.
Trong đó, hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương
mại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương
nhân với các bên có liên quan. Theo quy định của pháp luật, thì hành vi thương mại gồm
các hành vi: mua bán hàng hóa; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; ủy thác
mua bán hàng hóa; đại lý mua bán hàng hóa; gia công trong thương mại; đấu giá hàng
hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giao nhận hàng hóa; dịch vụ giám định hàng hóa;
khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bài giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm
thương mại.
Hoạt động dịch vụ là loại hoạt động kinh tế rất quan trọng trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Bên cạnh việc thường xuyên tham gia vào các hợp đồng mua bán, các
doanh nghiệp luôn chú trọng tham gia vào các quan hệ để bảo đảm cung ứng những điều
kiện cần thiết cho sản xuất, vận tải, áp dụng tiến bộ KH-KT và công nghệ mới, tăng
năng suất lao động, cải tiến các dây chuyền sản xuất và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt xã
hội.
Trong thương mại truyền thống thì hoạt động mua bán hàng hóa chiếm vị trí chủ
yếu và quan trọng. Nhưng ngày nay, hoạt động dịch vụ cũng chiếm một vị trí đáng kể và
nó có xu hướng ngày càng gia tăng. Nhiều tổ chức, cá nhân có uy tín trong lĩnh vực cung
ứng dịch vụ thương mại đã khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Và ngành
dịch vụ đã ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Cụ thể:
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảng 1: Tỷ lệ tăng trưởng và mức độ đóng góp cho tăng trưởng GDP của
các lĩnh vực kinh tế giai đoạn 1995-2001
(Tỉ lệ : %)
Tỉ lệ tăng trưởng GDP
(1995-2001)
Đóng góp cho tăng
trưởng GDP

Tỉ trọng trong GDP
1995 2001
Nông nghiệp 4.2 17.3 26.2 23.3
Công nghiệp 10.2 54.1 29.9 37.7
Công nghiệp
chế tạo
11.5 30.9 15.5 20.1
Dịch vụ 4.1 28.6 43.8 40.0
GDP 6.1 100.0 100.0 100.0
Như vậy, thực chất của hoạt động dịch vụ là loại hoạt động kinh doanh lấy công
làm lãi. Nó không tạo ra sản phẩm mới như hoạt động sản xuất và cũng không phải là
hoạt động phân phối lưu thông như trong kinh doanh thương mại. Hoạt động dịch vụ
nhằm cung ứng các điều kiện vật chất kỹ thuật để đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất
kinh doanh và sinh hoạt xã hội như: bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, nhà cửa, tàu
thuyền, may đo quần áo, các công tác vảo hiểm, công tác kiểm dịch, hướng dẫn triển
khai áp dụng các tiến bộ KH-KT vào sản xuất, lập các chương trình, phân tích tính toán,
xử lý số liệu, thử nghiệm, kiểm nghiệm sản phẩm, biên soạn tài liệu, hướng dẫn kỹ thuật
nghiệp vụ. Đây là những hoạt động dịch vụ đang được phát triển mạnh trong đời sống
kinh tế xã hội của nước ta.
Luật thương mại năm 1997 quy định dịch vụ thương mại gồm những dịch vụ gắn
với việc mua bán hàng hóa. Cụ thể gồm dịch vụ giao nhận hàng hóa và dịch vụ giám
định hàng hóa. Trong đó, dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó
người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức việc vận chuyển,
lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng
cho người nhận theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch
vụ giao nhận khác (gọi chung là khách hàng). Và người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.

Còn giám định hàng hóa là hành vi thương mại do một tổ chức giám định độc lập thực
hiện để xác định tình trạng thực tế của hàng hóa theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức.
Luật thương mại năm 2005 thì quy định cụ thể hơn. Trong đó, hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Theo đó,
cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, trong đó một bên (sau đây gọi là bên cung
ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử
dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch
vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Như vậy, cung ứng dịch vụ là một hoạt động
thương mại do đó chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại và pháp luật có liên quan.
2. Yêu cầu của hợp đồng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
Qua khái niệm về hoạt động cung ứng dịch vụ ở trên cho thấy, hoạt động cung ứng
dịch vụ là một hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc nhằm thực
hiện các chính sách kinh tế xã hội. Mỗi doanh nghiệp có những phương thức kinh doanh
với những ngành nghề kinh doanh khác nhau. Tuy nhiên mục đích cuối cùng vẫn là lợi
nhuận. Lợi nhuận là kết quả mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Theo quan điểm trước đây thì chỉ có hoạt động mua bán hàng hóa mới đem lại
lợi nhuận cao, hoạt động cung ứng dịch vụ tuy đã xuất hiện xong nhìn chung ít được
quan tâm tới. Tuy nhiên cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế đặc biệt là trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì hoạt động cung ứng dịch vụ ngày càng
khẳng định được vai trò của nó trong nền kinh tế.
Do vậy, mục đích của hoạt động cung ứng dịch vụ là tạo ra lợi nhuận. Để đem lại
lợi nhuận cao trong lĩnh vực này thì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng
dịch vụ cần đảm bảo các yêu cầu:
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Tuân thủ các quy định của pháp luật về hoạt động cung ứng dịch vụ. Cụ thể, các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cần nắm vững các quy định về việc giao kết,

thực hiện các hợp đồng dịch vụ trong các văn bản có liên quan. Đặc biệt là phải luôn cập
nhập thường xuyên các văn bản mới quy định về vấn đề này. Trong quá trình thực hiện
cần chú ý tuân thủ các quy định này. Và chọn những ngành nghề kinh doanh không trái
pháp luật.
- Hoạt động cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại, do đó việc tạo lợi nhuận
trong lĩnh vực này cũng phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, cá nhân, tổ chức khác.
Không xâm phạm lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
khác. Không vì lợi ích của chính mình mà xâm phạm lợi ích của Nhà nước.
- Hoạt động cung ứng dịch vụ phải bảo đảm việc cung ứng kịp thời các nhu cầu cần
thiết cho xã hội. Trong quá trình hội nhập kinh tế như hiện nay, yêu cầu các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cần chú ý tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, để tạo
ra những hoạt động dịch vụ không ngừng đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước.
II. Khái quát hợp đồng kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ
1 Khái niệm, đặc điểm
Trong đời sống xã hội, nhu cầu giao lưu trao đổi buôn bán gọi chung là giao dịch
dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan và để điều chỉnh cũng như bảo đảm tính hiệu
lực của các giao dịch đó, pháp luật về hợp đồng ra đời và ngày càng chứng tỏ được vai
trò đặc biệt quan trọng của mình. Có thể nói, pháp luật về hợp đồng là một trong những
chế định lâu đời nhất liên quan đến hoạt động kinh doanh, thương mại, dân sự. Nếu như
sự an toàn của con người, tài sản được bảo đảm trên cơ sở những quy định trong Bộ
Luật hình sự thì sự an toàn và trật tự trong thế giới kinh doanh lại phụ thuộc vào hợp
đồng. Không những chế định hợp đồng là một công cụ pháp lý mà qua đó nhu cầu trao
đổi, giao lưu của người được thực thi và bảo đảm, giúp cho luồng lưu thông hàng hóa,
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội và nền kinh tế. Do vậy, hợp đồng ngày
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
càng được xác lập một cách phổ biến hơn, thường xuyên hơn và trở thành một phần
quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Trong nền kinh tế thị trường sản phẩm được làm ra để trao đổi mua bán do đó mà

hợp đồng không những là công cụ mà còn là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch
của các chủ thể kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ phù hợp với
thị trường. Qua đây, các nhà sản xuất kinh doanh có căn cứ để xây dựng kế hoạch sản
xuất kinh doanh cho đơn vị mình. Đó là mục tiêu đầu vào, nơi tiêu thụ sản phẩm đầu ra,
chất lượng, số lượng, giá thành,….sự thỏa thuận đó đảm bảo sự bình đẳng thực sự của
các bên, thể hiện ý chí nguyện vọng của họ.
Hợp đồng ra đời từ rất lâu và nó được tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như
khế ước, thỏa thuận… Tuy nhiên, hợp đồng trong hoạt động kinh tế được quy định một
cách cụ thể lần đầu tiên trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989. Theo đó, hợp
đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên giao kết về
việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ- kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh với sự
quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của
mình.
Tuy Pháp lệnh hợp đồng đã quy định cụ thể về hợp đồng kinh tế tạo điều kiện mở
rộng các loại hình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, Pháp lệnh còn nhiều điểm bất cập
như việc quy định hạn chế chủ thể của hợp đồng hay hình thức của hợp đồng. Điều này
cũng hạn chế việc giao kết hợp đồng kinh tế trong thời gian này. Trong Pháp lệnh này thì
hợp đồng cung ứng dịch vụ chưa được quy định một cách cụ thể, mà chủ yếu quy định
một cách chung chung là hợp đồng kinh tế.
Hoạt động cung ứng dịch vụ ngày càng được chú trọng hơn và bắt đầu được các
nhà làm luật chú ý đến và đưa vào từng quy định cụ thể trong luật.
Trong đó, Luật thương mại là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác
xã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân; phát triển thị trường hàng hóa dịch vụ thương
mại trên các vùng của đất nước; mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài; góp phần

tích lũy nhằm thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh.
Để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Trong đó, các quy định về hoạt động thương mại cũng không ngừng
được hoàn thiện hơn, phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và với xu hướng hội nhập.
Cụ thể, Bộ Luật dân sự 2005 ra đời thay thế Bộ Luật dân sự 1995, Luật thương mại năm
2005 ra đời thay thế luật thương mại năm 1997. Với hai bộ luật mới này, hoạt động
thương mại được quy định một cách cụ thể hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân,
tổ chức trong việc giao kết hợp đồng.
Theo điều 518 Bộ Luật dân sự 2005 thì, hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên
thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Như vậy, hợp đồng dịch vụ có các đặc điểm:
Thứ nhất, các bên trong quan hệ hợp đồng dịch vụ có địa vị pháp lý bình đẳng với
nhau. Việc bảo đảm bình đẳng giữa các bên là một điều kiện kiên quyết để hình thành
hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng dịch vụ luôn thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên bình đẳng với
nhau.Đó là sự thỏa thuận về việc thực hiện một công việc nào đó của một bên đối với
bên kia. Quá trình hình thành hợp đồng là quá trình các bên bàn bạc, thương lượng để đi
đến thỏa thuận. Quá trình này, các bên được tự do bày tỏ ý chí để đi đến hợp đồng. Hợp
đồng thể hiện trung thành ý chí của các bên.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hình thức của hợp đồng được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác
lập bằng hành vi cụ thể tức là ghi nhận lại các điều mà các bên đã thỏa thuận.
Thứ ba, các bên trong hợp đồng dịch vụ luôn có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất
định. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng do các bên thỏa thuận mà ra. Tuy nhiên, quyền
và nghĩa vụ đó phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội, và được pháp luật công nhận

và bảo vệ,
Cụ thể, chủ thể của hợp đồng dịch vụ là người cung ứng dịch vụ (người cung ứng)
và người thuê dịch vụ (khách hàng). Trong đó, khách hàng có nghĩa vụ cung cấp các
thông tin và tài liệu cần thiết và trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng. Khách hàng cũng có
quyền yêu cầu bên cung ứng thực hiện công việc theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
Bên cung ứng phải có nghĩa vụ thực hiện đúng theo thỏa thuận, giữ bí mật và báo
cáo về việc không đầy đủ thông tin, tài liệu cho khách hàng trong việc thực hiện hợp
đồng. Nếu vi phạm phải bồi thường thiệt hại. Bên cung ứng có quyền yêu cầu khách
hàng cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết, yêu cầu khách hàng trả tiền dịch vụ theo
đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa hợp đồng dịch vụ và hợp đồng mua bán chính là
đặc điểm của đối tượng hợp đồng. Trong hợp đồng mua bán đối tượng của nó là hàng
hoá, còn trong hợp đồng dịch vụ đối tượng là một hoạt động cung ứng những nhu cầu
nhất định, là một công việc cụ thể do các chủ thể hợp đồng xác định theo những yêu cầu
của bên đạt dịch vụ.
2. Phân loại hợp đồng dịch vụ
Đây là một loại hợp đồng kinh tế đặc thù. Việc giao kết và thực hiện các hợp đồng
dịch vụ phải theo những nguyên tắc, những quy định chung của pháp luật. Nhưng do
mỗi loại hợp đồng dịch vụ có đặc điểm riêng, vì vậy căn cứ vào đối tượng của hợp đồng
có thể chia hợp đồng dịch vụ thành những loại như:
- Hợp đồng dịch vụ thu công (sửa chữa, vận chuyển….)
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Hợp đồng dịch vụ bảo hiểm
- Hợp đồng dịch vụ cho thuê, mướn tài sản
- Hợp đồng dịch vụ kiểm dịch
- Hợp đồng dịch vụ khoa học kỹ thuật
- Hợp đồng dịch vụ tư vấn, thiết kế
Nhà nước có những quy định cụ thể điều chỉnh các hoạt động dịch vụ chuyên biệt,

nhưng nói chung việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ phải tuân theo những quy
định chung của pháp luật và các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng kinh
tế nói chung và hợp đồng dịch vụ nói riêng.
Ngày nay, lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất đang được các doanh nghiệp
cùng cá nhân, tổ chức chú ý tới. Tuy trong Luật thương mại 2005 và Bộ Luật dân sự
2005 chưa có quy định cụ thể về hợp đồng dịch vụ tư vấn thiết kế, xong cùng với xu thế
phát triển của nền kinh tế thì lĩnh vực tư vấn thiết kế trang trí nội thất đang là một nhu
cầu không thể thiếu của mọi gia đình và các công trình lớn nhỏ.
III. Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất
1. Hoạt động tư vấn, thiết kế trang trí nội thất
Ngày nay có rất nhiều hoạt động dịch vụ khác nhau như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ
thiết kế, dịch vụ giám định, dịch vụ thuê, cho thuê…Tuỳ từng đặc điểm của doanh
nghiệp mà có kinh doanh những ngành dịch vụ tương ứng.
Như trên đã nói, hoạt động dịch vụ là một ngành đang được các doanh nghiệp chú
ý tới. Trong những ngành dịch vụ đó có lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất. Trước
đây, lĩnh vực này chưa được chú ý tới, vì với mỗi một công trình xây dựng, việc trang
trí nội thất trở thành một khâu nhỏ trong quá trình xây dựng nên không được mọi người
chú ý. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, với việc mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, các doanh nghiệp đã nhận thấy điểm mạnh trong ngành nghề này, và nhận thấy
ngành nghề này sẽ ngày càng phát triển. Bởi nhu cầu của con người lúc này không phải
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
là ăn no mặc ấm như ngày xưa, mà nhu cầu chủ yếu của con người là làm đẹp. Không
những làm đẹp cho chính họ mà còn làm đẹp cho những vật dụng xung quanh ngôi nhà
của họ.
Đáp ứng được yêu cầu đó, cùng với sự học hỏi của các nước đi trước, các doanh
nghiệp Việt Nam đã chú trọng hơn và phát triển tới ngành nghề kinh doanh này. Và một
số doanh nghiệp đã thành công trong lĩnh vực này như: công ty Hoà Phát, công ty Xuân
Hoà, Công ty Mộc Dũng…

2. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang
trí nội thất
Theo khoản 1 điều 3 Luật thương mại 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Trong đó, cung ứng dịch vụ
là một hoạt động thương mại mà một bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên
khác và nhận thanh toán, bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng
dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Như vậy, hoạt động cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại do đó chịu sự
điều chỉnh của Luật thương mại và pháp luật có liên quan. Tùy từng lĩnh vực cụ thể như
dịch vụ tư vấn, dịch vụ thiết kế, dịch vụ giám định…chịu sự điều chỉnh của các quy định
cụ thể khác nhau.
Họat động tư vấn thiết kế trang trí nội thất là một loại dịch vụ hiện đang phổ biến
và đang được các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm. Trong luật không có quy
định cụ thể về hoạt động tư vấn thiết kế trang trí nội thất, xong nhìn chung đây là một
hoạt động dịch vụ do đó chịu sự điều chỉnh như hoạt động dịch vụ.
Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn thiết kế trang trí nội thất, cụ thể chịu sự
điều chỉnh của Luật thương mại 2005 và Bộ Luật dân sự 2005 Trường hợp Điều ước
quốc tế là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của
Luật thương mại, Bộ Luật dân sự thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế. Các bên
trong giao dịch có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập
quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó
không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Như vậy, hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn thiết kế trang trí nội thất chịu sự
điều chỉnh của Luật thương mại, Bộ Luật dân sự, Điều ước quốc tế và tập quán thương
mại quốc tế có liên quan.

3. Chế độ giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế
trang trí nội thất
3.1Giao kết
Việc ký kết hợp đồng phải được xem xét trên các khía cạnh: nguyên tắc giao kết,
căn cứ giao kết, chủ thể của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, hình thức và mục đích
của hợp đồng, nội dung hợp đồng. Cụ thể:
• Nguyên tắc giao kết hợp đồng
Nguyên tắc giao kết hợp đồng đó là những tư tưởng chỉ đạo được quán triệt trong
những quy phạm pháp luật về hợp đồng, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể trong
khi tiến hành ký kết hợp đồng. Trong nền kinh tế thị trường, việc giao kết hợp đồng, về
nguyên tắc không còn là kỷ luật của nhà nước, là nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan và
các đơn vị kinh tế nữa. Đó là quyền tự do hợp đồng, một trong những nội dung quan
trọng của quyền tự do kinh doanh.
Theo điều 389 Bộ Luật dân sự, thì việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ các nguyên
tắc: tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái phápluật, đạo đức xã hội; Tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
• Căn cứ giao kết hợp đồng
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Căn cứ để giao kết hợp đồng đó là: theo định hướng kế hoạch của nhà nước, các
chính sách chế độ, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành; căn cứ theo nhu cầu thị
trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng; căn cứ vào khả năng phát triển sản
xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của đơn vị mình; căn cứ vào tính hợp pháp
của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo đảm về tài sản của các bên cùng ký
kết hợp đồng.
• Chủ thể của hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng là các bên tham gia quan hệ hợp đồng bình đẳng, tự
nguyện thỏa thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ với nhau. Chủ thể của hợp
đồng dịch vụ là các thương nhân. Theo điều 6 Luật thương mại 2005 thì thương nhân

gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Để trở thành thương nhân các cá nhân
từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân tổ hợp tác, hộ gia
đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu
cầu hoạt động thương mại thì cơ quan nhà nước có toàn quyền cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.
Ngoài ra, chủ thể của hợp đồng dịch vụ có thể là chi nhánh của thương nhân nước
ngoài. Theo khoản 3 điều 19 Luật thương mại 2005 thì Chi nhánh của thương nhân nước
ngoài có quyền giao kết hợp đồng tại Việt Nam phù hợp với nội dung hoạt động quy
định trong giấy phép thành lập chi nhánh và theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, chủ thể của hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang
trí nội thất có thể là những chủ thể hạn chế. Cụ thể đó là các hộ gia đình, tổ hợp tác nếu
có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.Theo Luật hợp tác xã thì: hợp tác xã là tổ
chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự
nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia
hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các
nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Như vậy, một hợp tác xã, hay hộ gia đình có thể hoạt động trong lĩnh vực tư vấn,
thiết kế trang trí nội thất và ký hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực này nếu có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, rất nhiều hộ gia đình, hợp tác xã đã hoạt
động và thành công trong lĩnh vực này.
• Đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không bị
pháp luật cấm, không trái với đạo đức xã hội. Theo điều 75 Luật thương mại 2005,

thưong nhân có quyền cung ứng các dịch vụ sau: cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại
Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại
Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt
Nam và sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài; cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại
Việt nam sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài.
Đối với hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất thì đối
tượng chủ yếu của hợp đồng là tư vấn, thiết kế các sản phẩm Modun (tức là các sản
phẩm vách ngăn văn phòng).
• Hình thức của hợp đồng
Về hình thức của hợp đồng, theo điều 74 Luật thương mại, hợp đồng dịch vụ
được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với
các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải
tuân theo các quy định đó.
Yêu cầu về hình thức hợp đồng dịch vụ như vậy tương đối phù hợp với thực tiễn
kinh tế xã hội hiện nay, khi mọi hình thức giao dịch thông qua các phương tiện kỹ thuật
hiện đại mang tính trung gian như internet, điện tử viễn thông đang rất phát triển. Bên
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cạnh đó, sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ quốc gia, quốc tế trong các
lĩnh vực dân sự, thương mại, kinh tế đòi hỏi các hình thức giao lưu phải hết sức thuận
tiện, nhanh chóng, hiệu quả.
• Mục đích của hợp đồng
Mục đích chủ yếu của hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí
nội thất là nhằm thực hiện các công trình trang trí nội thất. Cụ thể như: việc sản xuất các
sản phẩm vách ngăn văn phòng, thực hiện tư vấn, thiết kế trang trí nội thất theo từng yêu
cầu của đối tác, …
• Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng dịch vụ đó là những thỏa thuận của các bên. Các bên có
thể thỏa thuận về các nội dung chủ yếu (theo điều 402 Bộ Luật dân sự 2005 ) như:

+ Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không
được làm;
+ Số lượng, chất lượng;
+ Giá, phương thức thanh toán;
+ Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
+ Quyền, nghĩa vụ của các bên;
+ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
+ Phạt vi phạm hợp đồng;
+ Các nội dung khác;
Sau khi các bên đàm phán và ghi trong hợp đồng, mọi thỏa thuận ghi trong hợp
đồng giàng buộc các bên. Hợp đồng thể hiện rõ quyền lợi cũng như nghĩa vụ mà mỗi
bên trong hợp đồng có được. Các bên bắt đầu tiến hành thực hiện hợp đồng theo đúng
thỏa thuận ghi trong hợp đồng.
3.2Thực hiện
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Nguyên tắc thực hiện
Sau khi hợp đồng được ký kết và có giá trị pháp lý, các bên phải thực hiện nghĩa
vụ phát sinh từ hợp đồng. Việc thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng cũng phải tuân thủ một
số nguyên tắc nhất định. Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội
thất là một loại hợp đồng dân sự, do đó việc thực hiện hợp đồng dịch vụ này phải đảm
bảo các nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự. Cụ thể, theo điều 412 Bộ Luật dân sự
2005 thì việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc: thực hiện đúng hợp
đồng, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận
khác; thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên,
bảo đảm tin cậy lẫn nhau; không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng,
chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác thể hiện: bên cung ứng dịch vụ

phải cung ứng các sản phẩm đúng theo quy định trong hợp đồng như: về đối tượng, chất
lượng, số lượng, chủng loại, và thời hạn. Bên thuê dịch vụ phải thanh toán đủ các chi phí
nhận hàng và thanh toán theo đúng phương thức thanh toán quy định trong hợp đồng hay
theo quy định cụ thể trong pháp luật.
Nguyên tắc thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất
cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau, thể hiện: trong quá trình thực hiện hợp đồng, các
bên không được lừa dối nhau, không cung cấp các sản phẩm không đúng yêu cầu của
hợp đồng, không sử dụng những thủ đoạn trái pháp luật để thực hiện hợp đồng.Các bên
trong quan hệ hợp đồng phải hợp tác trên tinh thần cùng có lợi.
Nguyên tắc không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, thể hiện: việc thực hiện hợp đồng không
được xâm phạm đến quyền và lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng. Không vì việc
thực hiện hợp đồng mà xâm phạm quyền và lợi ích của người khác, lợi ích nhà nước và
lợi ích công cộng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
Bên cung ứng dịch vụ sau khi giao kết hợp đồng phải có nghĩa vụ cung ứng các
dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một cách đầy đủ phù hợp những thỏa
thuận như thực hiện công việc đúng số lượng, chất lượng, thời hạn, địa điểm và các thỏa
thuận khác. Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc, nếu không có sự
đồng ý của bên thuê dịch vụ. Sau khi hoàn thành công việc, bên cung ứng dịch vụ phải
bảo quản và giao lại cho khách hàng những tài liệu và phương tiện được giao để thực
hiện dịch vụ. Nếu những thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm để
hoàn thành công việc thì phải thông báo ngay cho bên thuê dịch vụ. Trong thỏa thuận có
yêu cầu cần giữ bí mật về thông tin mà mình biết thì trong quá trình cung ứng dịch vụ
phải giữ bí mật theo đúng thỏa thuận. Trường hợp mất mát, hư hỏng tài liệu, phương tiện
được giao hoặc tiết lộ bí mật thông tin thì phải bồi thường thiệt hại.
Để thực hiện tốt công việc của mình, bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu

khách hàng cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện có liên quan. Hoặc được thay đổi
điều kiện dịch vụ vì lợi ích của khách hàng mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của
khách hàng, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho khách hàng, nhưng phải báo ngay
cho khách hàng.
Theo điều 82 Luật thương mại quy định về thời hạn hoàn thành dịch vụ. Cụ thể:
bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Trường hợp không có thỏa thuân về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch
vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều
kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng,
bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn
thành dịch vụ. Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc
bên cung ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó
không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp
ứng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vẫn chưa hoàn
thành, nếu khách hàng không phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung ứng
dịch vụ theo nội dung đã thỏa thuận và phải bồi thường thiệt hại, nếu có.
Bên cạnh đó, khách hàng phải có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền cung ứng dịch
vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu có yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu cần
thiết cho việc thực hiện thì phải cung cấp kịp thời. Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên
cung ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách
hàng có nghĩa vụ điều phối hoạt động của bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở
đến công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào và phải trả tiền dịch vụ cho bên cung
ứng dịch vụ theo như thỏa thuận trong hợp đồng.
Theo tinh thần điều 86 Luật thương mại 2005, khoản 3 điều 524 Bộ Luật dân sự
2005 thì trường hợp có thỏa thuận về giá dịch vụ, không có thỏa thuận về phương pháp
tính giá dịch vụ và cũng không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ

được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức
cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều
kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ.
Khách hàng phải trả tiền dịch vụ tại thời điểm hoàn thành dịch vụ, nếu không có
thỏa thuận khác. Trường hợp dịch vụ được cung ứng không đạt được như thỏa thuận
hoặc công việc không được hoàn thành đúng thời hạn thì khách hàng có quyền giảm tiền
dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
3.3 Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng
• Sửa đổi hợp đồng
Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa
đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng
thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Chấm dứt hợp đồng
Điều 525 Bộ Luật dân sự quy định: trong trường hợp việc thực hiện công việc
không có lợi cho khách hàng thì khách hàng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng nhưng phải báo ngay cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp
lý, khách hàng phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng đã thực hiện và bồi
thường thiệt hại. Nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện
không đúng thỏa thuận thì bên cung ứng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Điều 424 Bộ Luật dân sự 2005 quy định, hợp đồng chấp dứt trong các trường
hợp:
+ Hợp đồng đã được hoàn thành
+ Theo thỏa thuận của các bên
+ Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà
hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện

+ Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện
+ Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn
và các bên có thể thỏa thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định
• Hủy bỏ hợp đồng
Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên
kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định.
Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết việc hủy bỏ hợp đồng,
nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không còn có hiệu lực từ thời điểm giao kết
và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải trả tiền.
Và bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại.
• Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
Điều 426 Bộ luật dân sự 2005 quy định chi tiết việc đơn phương chấm dứt thực
hiện hợp đồng. Cụ thể:
Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên đơn phương chấm dứt hợp đồng phải thông báo
ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường.
Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt tại thời
điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. các bên không phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Bên có lỗi
trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại.
3.4Các chế tài áp dụng khi vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại
Trong trường hợp vi phạm hợp đồng mà một bên gây thiệt hại cho bên kia đến

mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng, thì bên vi
phạm có thể bị áp dụng một trong các chế tài sau, tùy theo mức độ vi phạm: buộc thực
hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp
đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ hợp đồng; các biện pháp khác.
Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp: xảy ra
trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; xảy ra sự kiện bất khả kháng;
hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; hành vi vi phạm của một bên
do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không
biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong trường hợp bên vi phạm không chứng minh được hành vi vi phạm của
mình thuộc trường hợp miễn trách thì bị áp dụng các hình thức chế tài trên. Các hình
thức này được quy định cụ thể trong điều 297,300,302,307,308,310,312,Luật thương
mại 2005.
4. Tranh chấp và các hình thức giải quyết tranh chấp
Trường hợp, nếu các bên thực hiện đúng các điều khoản ghi trong hợp đồng thì
tranh chấp xảy ra là một điều không thể có. Trong trường hợp nếu xảy ra tranh chấp, các
cơ quan quản lý nhà nước sẽ căn cứ vào vào điều khoản ghi trong hợp đồng và những
quy định của pháp luật để xác định xem bên nào vi phạm, bên nào bị vi phạm. Từ đó,
đưa ra những cách giải quyết có lợi nhất cho cả hai bên.
Thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan niêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Các quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng, không những được thiết lập giữa các tổ chức
trong nước và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế đất nước. Trong điều
kiện như vậy, việc nảy sinh các tranh chấp là một điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt là
trong việc thực hiện các hợp đồng dịch vụ.
Các tranh chấp phát sinh chứng tỏ quan hệ làm ăn của các chủ thể có vấn đề, tức

là đã có bất công, có mâu thuẫn mà nếu không giải quyết kịp thời thì quan hệ làm ăn của
họ có thể bị phá vỡ. Điều quan trọng là việc giải quyết các tranh chấp đó hoàn toàn phụ
thuộc vào thiện chí của các bên, sự can thiệp của Nhà nước có thẩm quyền hay trung
gian chỉ là giải pháp cuối cùng. Các quan hệ làm ăn này đều dựa trên sự thỏa thuận ý chí
bình đẳng của các bên chủ thể, các quan hệ làm ăn biến đổi theo sự thay đổi của thị
trường, thời gian là tiền, nên các tranh chấp cũng cần được giải quyết nhanh chóng, kịp
thời. Do vậy, Nhà nước luôn khuyến khích các chủ thể trong quan hệ hợp động sử dụng
các biện pháp tự giải quyết với nhau, chỉ khi không giải quyết được thì có thể nhờ
chuyên gia có kinh nghiệm giải quyết hoặc thông qua trọng tài thương mại.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các bên tham gia quan hệ thương mại, đầu tư
và hợp tác vừa cạnh tranh với nhau nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa cho mình, các
tranh chấp xảy ra là một điều không thể tránh khỏi. Trong điều kiện đó, việc giải quyết
các tranh chấp phải bảo đảm: giải quyết nhanh, thuận lợi, hạn chế mức tối đa sự gián
đoạn của quá trình thực hiện hợp đồng, đảm bảo dân chủ trong quá trình giải quyết tranh
chấp, bảo vệ uy tín của các bên trên thương trường, bảo đảm yếu tố bí mật trong kinh
doanh, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp
của các bên.
Trước yêu cầu đó, mục tiêu đặt ra là tạo ra nhiều phương thức giải quyết tranh
chấp khác nhau để các nhà kinh doanh có thể thực hiện quyền tự do của mình. Đồng
thời, bảo đảm các phương thức đó được xây dựng theo hướng từng bước phù hợp với
thông lệ, tập quán quốc tế.
Thể chế kinh tế thị trường cho phép các chủ thể kinh doanh có quyền tự do kinh
doanh trong khuôn khổ pháp luật không cấm. Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, các
chủ thể tự do thỏa thuận và đưa ra các nguyên tắc xử sự, các chủ thể có những lựa chọn
khác nhau cho hành vi của mình trên cơ sở các quy phạm pháp luật mang tính tùy nghi,
các chủ thể có những hành vi và thỏa thuận mà pháp luật không dự liệu những vẫn
không bị xem là trái pháp luật. Đứng trước góc độ Nhà nước thì Nhà nước được quyền

chủ động đưa các tranh chấp đó ra xét xử. Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận của các
chủ thể kinh doanh phù hợp với pháp luật là một quyền trong quyền tự do kinh doanh
được pháp luật bảo hộ. Vì vậy, các chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức giải
quyết các tranh chấp nhằm bảo vệ lợi ích cho mình mà không chịu sự áp đặt ý chí của
Nhà nước. Theo quy định của pháp luật, các phương thức được sử dụng để giải quyết
tranh chấp gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án.
Trong đó, thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò
của người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày
quan điểm, chính kiến, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thỏa thuận thống nhất. Yêu
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cầu của quá trình thương lượng là: đòi hỏi các bên phải có thiện chí, hợp tác và có đầy
đủ những am hiểu cần thiết về chuyên môn. Kết quả của thương lượng là những cam kết,
thỏa thuận về những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ bế tắc hoặc bất đồng phát sinh mà
các bên thường không ý thức được trước đó.
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp một cách thân thiện nhằm tiếp tục gìn
giữ và phát triển các quan hệ kinh doanh trong một thời gian dài vì lợi ích chung của cả
hai bên. Các giao dịch thương mại ngày càng gia tăng với tốc độ phức tạp ngày càng
cao, việc các bên không chỉ đạt được thỏa thuận trong một tranh chấp, mà còn gìn giữ
các quan hệ làm ăn lâu dài là điều cơ bản và nhạy cảm với các nhà kinh doanh. Để đạt
được mục tiêu này, các bên phải có được cơ hội để bộc lộ, giải tỏa, xóa bỏ những hiểu
lầm, xác định các lợi ích nền tảng của mình và những lĩnh vực có thể thỏa thuận để tìm
ra giải pháp chung.
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp tại trung
tâm trọng tài trong đó các bên tranh chấp sẽ lựa chọn trọng tài viên cho mình để giải
quyết tranh chấp. Hai trọng tài viên được chọn sẽ chọn một trọng tài viên làm chủ tịch
hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua
hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra

phán quyết buộc các bên phải có nghĩa vụ thi hành, trong trường hợp cần thiết có thể sử
dụng sức mạnh cưỡng chế. Đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một
giải pháp cuối cùng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi họ không thể
giải quyết thông qua cơ chế hòa giải, thương lượng hay không muốn lựa chọn trọng tài
để giải quyết tranh chấp.
Theo điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2003 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại với nhau và đều có mục
đích lợi nhuận bao gồm:mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại
lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa,
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có
giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác;
Phương thức giải quyết thông qua Tòa án hay Trung tâm Trọng tài là những thủ
tục giải quyết tranh chấp mang tính chất tài phán. Trong đó, Trọng tài được coi là Tòa án
tư trong việc giải quyết tranh chấp. Thẩm quyền của Tòa án và Trọng tài đều là giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại, tuy nhiên thủ tục tố tụng của hai phương
thức này được tiến hành khác nhau. Tòa án nhân danh quyền lực của Nhà nước trong
việc xét xử, còn trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Trong quá trình
xét xử tại Tòa án, các bên không có quyền lựa chọn Thẩm phán và Tòa án xét xử, còn
trọng tài thì ngược lại, các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, trung tâm trọng tài để
giải quyết tranh chấp của mình.
Mỗi phương thức đều có những ưu thế cũng như những hạn chế của nó, do đó khi
tranh chấp xảy ra các bên có thể thỏa thuận chọn phương thức giải quyết tranh chấp
thích hợp nhất. Để tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh, trong nền kinh tế thị trường
như hiện nay, thời gian là vàng là bạc, do đó việc giải quyết tranh chấp cũng phải được
tiến hành nhanh chóng thuận lợi cho các bên.
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45

24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương II. Thực tiễn áp dụng hợp đồng dịch vụ tại công ty TNHH Mộc
Dũng
I. Tổng quan về công ty TNHH Mộc Dũng
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty TNHH Mộc Dũng (MODUN) được thành lập năm 1999 theo giấy phép
số 4432GP/TLDN tại Hà Nội.
Tên viết tắt : Modun Co.,Ltd
Trụ sở chính : 395 Kim Mã – Q.Ba Đình- Hà Nội
Điện thoại: 8318 308-8316 770
Fax : 8461773
Email :
Tài khoản nội tệ : 4321.1.184 Ngân hàng Habubank
Sinh viên: Nguyễn Thị Chiều Luật kinh doanh k45
25

×