Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

LŨ LỤT VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.75 MB, 54 trang )

ĐỂ Tài:
LŨ LỤT VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI VIỆT NAM
1. BÙI NAM THÁI
2. NGUYỄN NGỌC QUỲNH THY
3. NGUYỄN PHƯỚC THÀNH
4. PHAN ĐẮC THỊNH
5. LÊ NGUYỄN BẢO TRÂN
6. HỒ TRƯỜNG THÀNH
7. LÊ HOÀNG THÙY TRÂN
8. TRẦN NGỌC XUÂN TRANG
9. LÊ TRẦN DUY TÂN
A-KHÁI NIỆM:
1
I-LŨ LỤT:
I.1 Khái niệm:
- Lũ lụt là một hiện tượng tự nhiên, gần như xảy ra hằng năm. Lũ (flood) do nước
sông dâng cao trong mùa mưa. Số lượng nước dâng cao xảy ra trên một con sông ở mức
tạo thành lũ có thể xảy ra một lần hoặc nhiều lần trong nãm. Khi nước sông dâng lên cao
(do mưa lớn hoặc/và triều cao), vượt qua khỏi bờ, chảy tràn vào các vùng trũng và gây ra
ngập trên một diện rộng trong một khoảng thời gian nào đó gọi là ngập lụt (inundation). Lũ lụt
được gọi là lớn và đặc biệt lớn khi nó gây ra nhiều thiệt hại lớn và kéo dài về người và của cải. Để
theo dõi diễn biến mực nước trên sông, người ta tổ chức đo đạc mực nước và vẽ thành các thủy
đồ.
- Một số tên gọi và định nghĩa:
 Mực nước: là cao độ mực nước so với cao trình chuẩn (thường so sánh với mực
nước biển trung bình, Mean Sea Level - viết tắt là MSL). Mực nước thường kư hiệu
là H và đơn vị là cm.
 Lưu lượng: là lượng nước chảy qua một mặt cắt ngang lòng dẫn trong một đơn vị
thời gian. Lưu lượng thường kư hiệu là Q và đơn vị là l/s hoặc m3/h.
 Đỉnh lũ: là giá trị mực nước lớn nhất (Hmax) hoặc lưu lượng lớn nhất (Qmax) trong
một trận lũ.


 Chân lũ lên: là thời điểm từ mực nước bắt đầu dâng cao so với mực bình thường.
 Chân lũ xuống: là thời điểm từ mực nước xuống đến so với mực bình thường.
 Thời gian lũ lên: là khoảng thời gian từ thời điểm chân lũ lên đến đỉnh lũ.
 Thời gian lũ xuống: là khoảng thời gian từ đỉnh lũ đến thời điểm chân lũ xuống.
 Thời gian lũ: là khoảng thời gian từ thời điểm chân lũ lên đến lúc chân lũ xuống.
 Biên độ lũ: là chênh lệch mực nước đỉnh lũ và mực nước chân lũ lên.
 Cường suất lũ: là tốc độ nước lên hoặc xuống, đo bằng cm/h hoặc m/ngày.
 Tổng lượng lũ: là lượng nước lũ do mưa gây ra trong một trận lũ, tính bằng m3.
 Modun đỉnh lũ: là lưu lượng đỉnh lũ trên một đơn vị diện tích lưu vực sông, đơn vị
thường là l/s.ha hoặc m3/s.km2.
I.2 Phân loại:
- Lũ được phân biệt thành các loại (theo cường độ):
 Lũ nhỏ : là loại lũ có đỉnh lũ thấp hơn mức đỉnh lũ trung bình nhiều nãm
 Lũ vừa : là loại lũ có đỉnh lũ đạt mức đỉnh lũ trung bình nhiều nãm
 Lũ lớn : là loại lũ có đỉnh lũ cao hơn mức đỉnh lũ trung bình nhiều nãm
 Lũ đặc biệt lớn: là loại lũ cao đỉnh lũ cao hiếm thấy trong thời kỳ quan trắc
 Lũ lịch sử: là loại lũ có đỉnh lũ cao nhất trong chuỗi số liệu quan trắc hoặc do
điều tra khảo sát được.
- Phân biệt theo loại hình:
 Lũ quét : Lũ quét hình thành do có những trận mưa lớn hoặc mưa kéo dài. Với
đặc điểm khu vực địa hình miền núi có độ dốc cao, cộng với rừng đầu nguồn và cây cối bị chặt phá
nên không có khả năng giữ nước. Vì thế, nước mưa dễ dàng tạo thành dòng chảy với tốc độ lớn
gây ra lũ quét. Nước sau đó sẽ chảy qua các bờ sông và làm ngập các khu vực xung quanh.
2
 Lũ sông : là hiện tượng tự nhiên và theo mùa, đặc biệt vào mùa mưa hay gió mùa, xảy ra khi
mực nuớc trên sông cao hơn và tốc độ dòng chảy nhanh hơn mức bình thường. Tùy theo khu vực
địa lý và thời điểm mà lũ sông có thể lên chậm hoặc nhanh và mực nuớc dâng cao lâu hay ngắn. Ví
dụ tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thì mực nuớc dâng từ từ và kéo dài từ 3-5 tháng bắt đầu
từ tháng 6 âm lịch, trong khi tại khu vực sông thuộc miền Trung thì mực nuớc dâng nhanh và rút
cũng nhanh hơn.

 Lũ ven biển : thường xảy ra khi có gió mạnh thổi từ biển về đất liền do bão hoặc áp thấp nhiệt
đới tiến vào gần bờ biển.
 Lũ do đê, kè, đập bị vỡ: Sự gia tăng áp lực nước do làm đầy rất nhanh của hồ chứa có thể gây ra
sự cố phá vỡ đập. Khi đập vỡ, một số lượng cao của nước là đột nhiên đổ xuống. Tốc độ của nước
ở các điểm đập bị vỡ có thể được so sánh với tốc độ của một lũ quét.
Khi một con đê vỡ dọc theo một con sông, nước ngay lập tức sẽ tràn ngập khu vực xung
quanh. Trường hợp này có thể được so sánh với các mô phỏng lũ quét.
I.3 Nguyên nhân lũ lụt
- Mưa lớn và kéo dài (do bão lớn) là nguyên nhân chính gây ra lũ lụt, ngoài ra ở
vùng đồng bằng cửa sông tiếp giáp với biển, triều cường là một nhân tố làm lũ lụt trầm
trọng hơn. Ngoài ra, còn một số yếu tố khác ảnh hưởng đến khả nãng xuất hiện lũ lớn và
bất thường:
 Lưu vực càng rộng thì nước lũ lên chậm nhưng cũng sẽ rút chậm, ngược lại lưu
vực hẹp và dài sẽ làm nước lũ lên nhanh . một số trường hợp sẽ hình thành lũ quét,
lũ ống .
 Rừng bị tàn phá cũng là một trong các nguyên nhân gây nên lũ lụt và xói mòn đất
 Hiện tượng Ẽl Nino (do sự nóng lên của vùng biển xích đạo vùng Nam Mỹ Thái
Bình dương)và La Nina (do sự lạnh lên của của vùng biển xich đạo Đông Thái
Bình dương) đã gây ra hiện tượng lũ lụt và hạn hán trên nhiều vùng khác nhau.
 Nếu một hệ thống sông có nhiều con sông hợp thành thì khả nãng tổ hợp thời điểm
xuất hiện lũ đồng thời sẽ làm gia tãng mức độ nghiêm trọng của lũ.
 Khi đập, đê, kè hay hồ bị vỡ.
I.4 Thiệt hại do lũ lụt
- Nhiều thống kê cho thấy, lũ lụt là thiên tai gây thiệt hại hiều cho con người, số
người chết do lũ lụt (thường do cả hai thiên tai đến cùng lúc là bão và lũ lụt) chiếm trên
60% số người chết do các thiên tai gây ra trên thế giới.
I.5 Phòng chống lũ, lụt
 Qui hoạch lâu dài khu dân cư và sản xuất liên quan đến phòng lũ
 Tổ chức hệ thống đo đạc, cảnh báo lũ
 Lập bản đồ lũ khu vực

 Trồng rừng, cải tạo rừng
 Xây dựng hồ chứa nước điều tiết lũ
 Xây dựng hệ thống đê sông
 Biện pháp xả lũ, phân lũ, chậm lũ
 Phương thức sống chung với lũ
3
II- BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
II.1 Khái niệm:
- Sự thay đổi của khí hậu (định nghĩa của Công ước khí hậu) được quy trực tiếp hay gián tiếp là
do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và đóng góp thêm
vào sự biến động khí hậu tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh được. Biến đổi khí hậu
xác định sự khác biệt giữa các giá trị trung bình dài hạn của một tham số hay thống kê khí hậu.
Trong đó, trung bình được thực hiện trong một khoảng thời gian xác định, thường là vài thập
kỷ.
II.2 Nguyên nhân:
Có thể nói có 2 nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu đó là do tự nhiên và do con người.
- Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm thay đổi cường độ sáng của Mặt trời, xuất
hiện các điểm đen Mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa, thay đổi đại dương, thay đổi quỹ
đạo quay của trái đất.
(( Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm
thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể là từ khi tạo thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng của
Mặt trời đã tăng lên hơn 30%. Như vậy có thể thấy khoảng thời gian khá dài như vậy thì sự thay đổi cường độ
sáng mặt trời là không ảnh hưởng đáng kể đến BĐKH.
Núi lửa phun trào - Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí quyển một lượng cực kỳ lớn khối lượng
sulfur dioxide (SO
2
), hơi nước, bụi và tro vào bầu khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí
hậu trong nhiều năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi núi lửa, các sol khí phản chiếu lại
bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại vào không gian vì vậy chúng có tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái
đất.

Đại dương ngày nay - Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống khí hậu. Dòng hải lưu di chuyển một
lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi trong lưu thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông qua
sự chuyển động của CO
2
vào trong khí quyển.
Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất - Trái đất quay quanh Mặt trời với một quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng
23,5 °. Thay đổi độ nghiêng của quỹ đạo quay trái đất có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ
nhỏ có thể tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh hưởng lớn đến BĐKH.))
- Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do con người: sự gia tăng các hoạt động
tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính
như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác.
II.3 Tác động của biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu:
II.3.1 Tác động của biến đổi khí hậu đến hệ thống tự nhiên và sinh thái:
1) Tác động đến hệ vật lý
Từ 1970 đến nay, có thể do tác động của biến đổi về nhiệt độ toàn cầu đã gây nên biến đổi sau đây
đến hệ vật lý:
4
Gia tăng và mở rộng các hồ băng
Gia tăng phần đất nện trên các khu vực băng vĩnh cửu và - tuyết lở ở các vùng núi
Gia tăng dòng chảy và dòng chảy sớm đạt đỉnh trên các - dòng sông băng vào mùa xuân.
Các sông, hồ nóng lên và do đó thay đổi cơ chế nhiệt và - cả chất lượng nước.
2) Tác động đến hệ sinh thái
Do tác động của biến đổi khí hậu hệ sinh thái có những biến đổi sau đây:
Chỉ thị vật hậu mùa xuân đến sớm hơn
Lục hóa trong mùa xuân đến sớm hơn
Gia tăng các quần cư động vật trôi nổi trên các biển vĩ độ - cao và các hồ trên cao.
Các loài cá di trú sớm hơn trên các sông
Với mức tăng nhiệt độ 1,5 – 2,5 0C dự kiến có những biến đổi phổ biến về cấu trúc và chức năng của
các loài di trú sinh thái trong các đới địa lý cùng với những hậu quả tiêu cực khác.
Quá trình a xít hóa đại dương chắc chắn tác động tiêu cực đến tổ chức và cấu trúc của các rặng san

hô.
3) Một số tác động khác
Nồng độ CO- 2 trong khí quyển tăng lên dẫn đến độ a xít hóa của đại dương tăng lên. Độ pH trung bình
của nước biển gần mặt giảm đi 0,1 đơn vị kể từ thời kỳ tiền công nghiệp.
Nhiệt độ tăng ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nông – - lâm nghiệp ở các vĩ độ cao và các vấn đề
chăm sóc y tế ở Châu Âu.
Nước biển dâng tác động đến vùng đất ngập nước, rừng - ngập mặn và gây ra ngập lụt bờ biển trên một số
khu vực.
II.3.2 Tác động của biến đổi khí hậu đến các lĩnh vực:
1) Tác động đến sản xuất lương thực
Năng suất một số cây lương thực dự kiến tăng nhẹ trên các vĩ độ cao, vĩ độ trung bình với nhiệt độ
tăng 1 – 3 0C.
Trên các vĩ độ thấp, đặc biệt các khu vực nhiệt đới gió mùa, - với nhiệt độ tăng 1 – 2
0
C, năng suất lương
thực dự kiến giảm đi.
2) Tác động đến đới bờ biển
Đới bờ biển chịu nhiều rủi ro hơn các đới khác do nạn - xói lở. Hiệu ứng này được khuếch trương
khi gia tăng các áp lực nhân sinh khác.
Hàng năm, nhiều triệu dân chịu ngập lụt do nước biển - dâng, nhất là những vùng thấp đông dân trên
các châu thổ của châu Á, châu Phi và các đảo nhỏ.
3) Tác động đến công nghiệp và cư dân
Nhiều khu công nghiệp, khu cư dân ven biển trên châu thổ các - sông đặc biệt nhạy cảm với sự gia tăng
thời tiết cực đoan do BĐKH.
Nhiều cộng đồng nghèo, đặc biệt ở những vùng nhiều - thiên tai, có thể gặp nhiều rủi ro và tổn thất
nghiêm trọng.
4) Tác động đến sức khỏe
Tình trạng sức khỏe của hàng triệu dân sa sút, thậm chí - sa sút nghiêm trọng.
5
Biến đổi khí hậu tuy mang lại một vài lợi ích cho một số - vùng ôn đới, chẳng hạn giảm bớt tử vong

do lạnh, song phổ biến vẫn là ảnh hưởng tiêu cực, do nhiệt độ tăng lên.
5) Tác động đến nguồn nước
Tác động của biến đổi khí hậu đến nguồn nước là nghiêm - trọng nhất, xét theo từng khu vực cũng
như từng lưu vực.
Trên qui mô toàn cầu, biến đổi khí hậu khuếch đại nguy cơ thiếu nước. Trên qui mô khu vực, BĐKH
dẫn đến tổn thất nước do băng tan và giảm lớp tuyết phủ.
Biến đổi nhiệt độ và lượng mưa dẫn tới những biến đổi - dòng chảy. Diện tích các vùng hạn hán tăng
lên, tác động đến nhiều lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp, cung cấp nước, sản xuất điện và sức khỏe.
Sẽ có sự gia tăng đáng kể trong tương lai về các tai biến - do mưa nhiều trên một số khu vực, kể cả
những khu vực được dự kiến là lượng mưa trung bình giảm. Nguy cơ lụt lội gia tăng chắc chắn là thách
thức đối với các vấn đề xã hội, hạ tầng cơ sở và chất lượng nước. Có đến 20 % dân cư phải sống ở những
vùng lụt lội gia tăng vào thập kỷ 2080. Chắc chắn sự gia tăng về tần số và mức độ nghiêm trọng của lũ lụt
cũng như hạn hán sẽ tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững.
II.4 Phương hướng giải quyết:
II.4.1 Phương hướng-Chiến lược:
- Mang tính toàn cầu: đây là vấn đề chung của cộng đồng,
không phải là riêng biệt của từng quốc gia, khu vực hay châu lục
nào.
- Được các quốc gia nhất trí: để ra các phương hướng và phân
công nhiệm vụ công bàng hiệu quả giữa các quốc gia, khu vực hay
châu lục.
- Có quy mô: lớn, rộng khắp về mọi mặt và luôn dựa trên
nguyên tác thống nhất đồng bộ.
- Thực hiện nhanh chóng: hành động sớm để đạt hiệu quả cao
II.4.2 Giải pháp:
- Tăng cường tuyên truyền giáo dục ý thức cộng đồng: theo
nguyên tắc “toàn diện, tích cực và hiệu quả”: lồng ghép các
thông điệp chính và các thông tin phù hợp liên quan đến biến
đổi khí hậu vào kế hoạch bài giảng phòng ngừa thảm hoạ
dành cho cấp xã, đồng thời qua đó giới thiệu hậu quả của

BĐKH có tác động trực tiếp đến toàn bộ hành tinh của chúng
ta.
- Thích nghi với biến đổi khí hậu:
- Tăng cường nỗ lực để giảm thiểu hiện tượng khí thải gây hiệu
ứng nhà kính: bằng cách đưa ra chiến lược thiết thực giảm
cacbon.
 Hợp tác quốc tế.
� Định giá cho phát thải cacbon .
� Chuyển nhu cầu sang các nguồn năng lượng cacbon thấp.
� Xây dưng các công cụ pháp lý.
- Phục hồi của các hệ sinh thái:
6
� Trồng rừng.
� Bảo tồn các hệ sinh thái động thực vật.
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật.
- Phát triển kinh tế xã hội dựa trên các nguyên tắc bền vững.
7
Lũ lụt và biến đổi khí hậu
Mặc dù những tác động như nhiệt độ và mực nước biển tăng có thể khiến các nhà khoa học môi trường chú ý
trước khi xem xét vấn đề biến đổi khí hậu, nhưng hình thức của các trận mưa thay đổi và lượng mưa ngày càng lớn
có thể nhắc nhở các nhà khoa học về những hậu quả ghê gớm. Một bản báo cáo gần đây của Hội Khoa học Quốc
gia (NAS) Mỹ đề cập đến thực trạng hiện nay của môi trường khẳng định tính chất phức tạp ngày càng tăng của
thời tiết. Báo cáo của NAS cho biết: "Trong thế kỷ qua, số trận mưa ở Mỹ tăng 20% so với thế kỷ trước, trong đó số
trận mưa lớn nhất chiếm 1%. Các dạng khí hậu cho thấy các xu hướng đó, tạo nên nhiều thách thức cho việc kiểm
soát lũ lụt, bão và hệ thống thoát nước-rất có khả năng sẽ tiếp tục". Cùng với lượng mưa ngày càng lớn trong các
trận mưa bão dữ dội, tình trạng hạn hán cũng thường xuyên xảy ra ở một số khu vực.
Tại Mỹ, các khu vực đồng bằng ở Midwest and Great Plain có lượng mưa lớn hơn các khu vực khác trên toàn nước
Mỹ, trái lại các đợt hạn hán ở phía Tây và Đông Nam của Mỹ tăng so với 50 năm qua. Thời tiết ngày càng khắc
nghiệt, đặc biệt các trận bão lụt lớn, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của nhiều triệu người trên toàn
cầu. Chỉ riêng năm 2010, các trận lũ lụt lớn tràn ngập 1/5 tổng diện tích đất đai ở Pakistan và những trận lũ lụt lớn

xảy ra tại bang Queensland và bang Victoria ở Australia. Hiện nay, sông Mississippi ở Mỹ đang tràn nước vào khu
vực Midwest hạ và các bang phía Nam như Tennessee, Mississippi, Arkansas, và Louisiana tương tự những trận lũ
lụt lớn chưa từng thấy 1.000 năm qua trong năm 2010 ở bang Tennessee và các bang lân cận. Các trận lũ lụt đã
cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người và tàn phá của cải vật chất trị giá hàng chục tỷ USD.
Lũ lụt và biến đổi khí hậu
Theo báo Pháp Courrier International, các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng việc khí gây hiệu ứng nhà kính được
thải vào thiên nhiên ngày càng nhiều không trực tiếp dẫn đến diễn biến bất thường của thời tiết. Thế nhưng, đó là
một yếu tố góp phần làm gia tăng nguy cơ.
Bên cạnh đó, hiện tượng thay đổi khí hậu là một yếu tố nguy cơ khác. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, mấy
năm gần đây, ngày càng có nhiều trận mưa lớn, mà nguyên nhân chủ yếu là do hiện tượng nóng lên của trái đất
gắn liền với sinh hoạt của con người. Mực nước biển sẽ dâng cao (theo dự đoán có thể cao thêm 1m vào năm
2100 sẽ tăng thêm 1m) khiến cho các con sông sẽ tháo lũ vào đại dương chậm hơn.
Một hậu quả khác của hiện tượng trái đất nóng lên, đó là giông bão ngày càng nhiều do lòng đại dương nóng dần.
Bão ngoài khơi sẽ mạnh hơn và sẽ làm cho nước tràn bờ. Theo kinh nghiệm, thủy triều dâng còn nguy hại hơn cả
gió và mưa.
Cuối cùng, tờ báo kết luận: nếu chúng ta cứ tiếp tục thải vào thiên nhiên khí thải gây hiệu ứng nhà kính, thì chúng
ta sẽ tiếp tục gánh chịu hậu quả.
8
Đối phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng khu vực miền Trung
Năm nào cũng vậy, đến mùa mưa người dân miền Trung lại lo đối phó với lũ lụt. Nhằm giúp đồng bào miền Trung
ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), giảm bớt thiệt hại do thiên tai gây ra, các chuyên gia đầu ngành thủy lợi đều
cho rằng, cần một quy hoạch tổng thể về thủy lợi trong điều kiện BĐKH và nước biển dâng riêng cho khu vực miền
Trung.
Thống kê của Viện Quy hoạch thủy lợi (Tổng cục Thủy lợi) cho biết, trong vòng 10 năm (1998-2008) tại các tỉnh
Bắc Trung bộ, bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, lũ lụt đã
cướp đi sinh mạng của 1.090 người và gây thiệt hại lớn về kinh tế. Đặc biệt, năm 2010, lũ lụt bất thường xảy ra tại
các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình làm 111 người chết, 17 người mất tích, 357.076 ngôi nhà bị ngập, hư hỏng
nặng, thiệt hại về kinh tế nặng nề. Ngoài thiệt hại do lũ bão gây nên, người dân ở khu vực Bắc Trung bộ phải hứng
chịu gió cát, gió khô nóng và hạn hán trên diện rộng. Riêng năm 2010, hơn 30.000ha vụ Đông Xuân của tỉnh Thanh
Hóa bị khô hạn trắng đất, Nghệ An 20.000ha, Hà Tĩnh 12.000ha và hàng trăm hồ chứa có mực nước thấp hơn mực

nước chết.
Đối với các lưu vực cửa sông, vào mùa khô, nước mặn ảnh hưởng sâu từ 20-40km gây khó khăn cho sản xuất nông
nghiệp. BĐKH cũng làm các tỉnh thuộc Nam Trung bộ rơi vào hoàn cảnh tương tự. Các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng, do địa hình đồi núi dốc, thấp dần từ Tây sang Đông,
lại bị chia cắt bởi triền núi dãy Trường Sơn vươn ra biển, mặt khác do lượng mưa phân bố không đều trong năm
đã gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa, hạn hán kéo dài vào mùa khô gây khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất của
nhân dân.
Theo kịch bản về BĐKH, nước biển dâng do Bộ Tài nguyên- Môi trường xây dựng năm 2010, khu vực Bắc Trung bộ
nhiệt độ trung bình/năm tăng từ 1,9oC, mưa có xu thế giảm trong mùa khô tới 13% và tăng trong mùa mưa từ 12-
10% làm cho nguồn nước bị khủng hoảng đây là nguyên nhân gây thêm tình trạng hạn hán, lũ lụt nghiêm trọng ở
những vùng xung quanh các lưu vực sông. Cùng với lượng mưa biến đổi thất thường sẽ là tình trạng nước biển
dâng dự báo sẽ tăng từ 28-33cm vào năm 2050, 42-57cm vào năm 2070 và 65-100cm vào cuối thế kỉ 21 và có tác
động mạnh đến các hoạt động tưới tiêu, chống lũ của các lưu vực sông. Vấn đề ở chỗ tại thời điểm này, hầu hết
các quy hoạch vùng, quy hoạch lưu vực sông đã lập tại khu vực miền Trung đều chưa xét đến yếu tố BĐKH và nước
biển dâng. Nếu không có biện pháp hữu hiệu để ứng phó, hậu quả sẽ khốc liệt hơn nhiều.
Về vấn đề ứng phó với BĐKH, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Đào Xuân Học cũng thừa nhận: ngành nông nghiệp có lỗi
khi chậm hoàn thành kịch bản quy hoạch thủy lợi khu vực miền Trung trong điều kiện BĐKH, nước biển dâng. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải nghiên cứu từ nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau từ thực
tiễn.
9
Đối phó với BĐKH, giải pháp nào?
Theo các nhà khoa học, dự báo, đến năm 2050, khoảng 81.110ha thuộc các lưu vực sông Mã, sông Cả, sông Gianh,
sông Nhật Lệ, sông Bến Hải, Thạch Hãn, Ô Lâu, sông Hương và các vùng phụ cận sẽ bị nước biển xâm mặn. Về mùa
khô, dòng chảy trên các nhánh sông, suối sẽ bị suy giảm từ 5% đến 17%; khoảng 3.000 hồ đập nhỏ sẽ có khả năng
điều tiết kém, ảnh hưởng đến nguồn nước sản xuất và sinh hoạt; tần suất các cơn bão cũng nhiều hơn, nhiều vùng
phải chuyển sang tiêu nước bằng động lực.
Theo các nhà khoa học, để đối phó với BĐKH và nước biển dâng, ngoài các giải pháp xây dựng những công trình để
giảm nhẹ thiên tai, ngăn mặn, trữ ngọt, các địa phương cần phổ biến kiến thức về BĐKH, nâng cao tính thích ứng
của người dân với các tác động của BĐKH. Mặt khác, cần tập trung tăng độ che phủ rừng đầu nguồn, trồng cây
chắn sóng khu vực cửa sông, ven biển; xây dựng các khu vực tránh thiên tai; đồng thời triển khai các chương trình

nghiên cứu chuyển giao kỹ năng sản xuất phù hợp, thích ứng với BĐKH như: canh tác lúa ở vùng nhiễm mặn,
chuyển đổi cây trồng, vật nuôi Thứ trưởng Đào Xuân Học cho rằng: mấu chốt của vấn đề là phải giải được bài
toán hạn hán, đẩy mặn, giảm lũ trong điều kiện BĐKH và nước biển dâng, nhưng rõ ràng quy hoạch tổng thể để
đối phó với BĐKH, nước biển dâng cần đi trước một bước mới hy vọng giảm nhẹ thiên tai cho miền Trung trong
tương lai.
1. Biến đổi khí hậu trái đất
Khí hậu là trạng thái trung bình của thời tiết tại khu vực nào đó theo chuỗi số liệu dài khoảng 30 năm và là kết quả
của sự tương tác giữa các quá trình vật lý, hoá học và sinh học dưới tác động của năng lượng mặt trời. Sự tương
tác này là một quá trình phức tạp, vì vậy, chế độ khí hậu không cố định mà luôn có tính biến động. Nhiều biểu hiện
của biến đổi khí hậu và trái đất; tan băng và mực nước biển dâng cao do băng tan, ngập úng các vùng đất thấp và
các đảo nhỏ trên biển; sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái
đất, đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người; sự thay đổi cường độ hoạt
động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá
khác; sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của hệ sinh thái, chất lượng và
thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, địa quyển; sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi
trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất.
Nguyên nhân của biến đổi khí hậu (BĐKH) trái đất bao gồm cả tự nhiên và nhân tạo. Theo báo cáo mới nhất của
Liên hiệp quốc, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng BĐKH 90% do con người gây ra.
BĐKH không chỉ đơn thuần tác động tới tự nhiên mà còn là thách thức về kinh tế, xã hội của nhân loại.
10
Việc bỏ tiền ra chi phí cho việc khôi phục thiệt hại sau những thiên tai đã làm thâm hụt vào ngân sách các quốc gia.
Theo Nicolas Stem - nguyên chuyên gia kinh tế hàng đầu của Ngân hàng Thế giới, thì trong vòng 10 năm tới, chi phí
thiệt hại do BĐKH gây ra cho toàn thế giới ước tính khoảng 7.000 tỉ USD; nếu chúng ta không làm gì để ứng phó thì
thiệt hại mỗi năm sẽ chiếm khoảng 5 - 20% tổng sản phẩm nội địa (GDP), còn nếu chúng ta có những ứng phó tích
cực để ổn định khí nhà kính ở mức 550 ppm tới năm 2030 thì chi phí chỉ còn khoảng 1% GDP.
2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến Việt Nam
Sự gia tăng nhiệt độ khí quyển làm cho khí hậu các vùng ở nước ta nóng lên, kết hợp với sự suy giảm lượng mưa
làm cho nhiều khu vực khô hạn hơn. Năm 2010, nhiệt độ có khả năng tăng khoảng 0,3 - 0,50C và mực nước biển
tăng thêm 9cm; tương tự, từ 1,1 - 1,80 C và 45cm vào năm 2100. Những khu vực có nhiệt độ tăng cao nhất là vùng
núi Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 - 0,30C/thập niên. So với hiện

nay, vào năm 2070, dòng chảy sông/năm biến đổi trong khoảng từ +5,8 đến -19% đối với sông Hồng và từ +4,2
đến -14,5% đối với sông Mê Kông; dòng chảy kiệt biến đổi trong khoảng từ -10,3 đến -14,5% đối với sông Hồng và
từ -2,0 đến -24, 0% đối với sông Mê Kông; dòng chảy lũ biến đổi trong khoảng từ +12,0 đến 0,5% đối với sông
Hồng và từ +15,0 đến 7,0% đối với sông Mê Kông. Xâm nhập mặn nước sông có thể lấn sâu nội địa tới 50 - 70km,
tiêu diệt và phá huỷ nhiều loài sinh vật nước ngọt, 36 khu bảo tồn; trong đó, có 8 vườn quốc gia, 11 khu dự trữ
thiên nhiên sẽ nằm trong diện tích bị ngập. Hệ thống sinh thái cũng bị tác động tiêu cực; tại 2 vùng đồng bằng sông
Hồng và sông Cửu Long, các hệ sinh thái rừng và đất ven biển sẽ chịu nhiều thiệt hại.
3. Các giải pháp ứng phó với thiên tai do tác động của biến đổi khí hậu
Để ứng phó với bão, lũ lụt trên toàn lãnh thổ và nước dâng do bão ở các vùng ven biển cần thực thi một số giải
pháp:
- Thực hiện đầy đủ và có hiệu quả phương châm 4 tại chỗ (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ
và hậu cần tại chỗ).
- Tăng cường công tác dự báo thời tiết trên cơ sở hiện đại hoá ngành khí tượng thủy văn (cả về con người và cơ sở
vật chất).
- Tăng cường công tác thông tin thời tiết trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là hệ thống phát thanh
để đến được các vùng sâu, vùng xa, ngư trường, hải đảo…
- Tăng cường cơ sở vật chất và mạng lưới cứu hộ thiên tai bão, lũ, đặc biệt là vùng núi, ven biển, hải đảo và các
ngư trường biển.
- Nhà nước quy hoạch, xây dựng các khu vực tránh bão, tránh lũ, vận động người dân (có điều kiện kinh tế) xây
nhà kiên cố, nhà cao tầng nhằm hạn chế tối đa tổn thất về người và của. Từng địa phương, vùng có phương án, tổ
chức diễn tập theo phương án và tổ chức tốt cho người dân di chuyển đến nơi cao và an toàn trước các trận bão
và lũ lụt, nước dâng có cường độ lớn.
11
- Nhà nước có kế hoạch từng bước nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông, trồng cây chắn sóng, trồng rừng ngập mặn
ngoài đê để hạn chế tác động của bão, lũ và nước dâng.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục vận đồng người dân nâng cao nhận thức và áp dụng các kĩ thuật giảm nhẹ,
thích ứng với tình huống.
- Thực hiện huy động kinh phí của xã hội và các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho các khu dân cư xây dựng các biện pháp
phòng ngừa và khắc phục hậu quả.
- Tiến hành các giải pháp giảm thiểu tác động của xói lởi như điều tra hiện trạng, xây dựng giải pháp kĩ thuật phòng

chống xói lở, đầu tư kiên cố hoá một số đoạn đê xung yếu, quy hoạch các điểm dân cư, các dự án kinh tế - xã hội
vùng có nguy cơ xói lở, tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo vệ, duy tu đê điều hàng
năm; đối với khu vực không có đê, cần tổ chức di dân ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở trong mùa mưa bão.
22 triệu người Việt Nam sẽ bị mất nhà cửa
Cũng theo ông O’Callaghan, biến đổi khí hậu sẽ gây ra những thiệt hại lớn cả về tài sản và môi trường. Một số mô
hình dự báo biến đổi khí hậu cho thấy khi nhiêt độ tăng 3- 4 độ C, số người phải chịu ngập lụt ở vùng duyên hải là
134 – 332 triệu người.
Hoạt động của bão nhiệt đới gia tăng cũng có thể làm tăng số người bị tác động lên 371 triệu người vào cuối thế kỷ
21. Theo đó, khi mực nước biển dâng cao thêm 1 m, ở vùng thấp thuộc Ai Cập, 6 triệu người có thể mất nhà cửa
và ngập lụt 4.500 km2 đất canh tác.
Riêng ở Việt Nam, nước biển dâng sẽ khiến 22 triệu người Việt Nam mất nhà cửa với thiệt hại lên tới 10% GDP. Lũ
lụt và bão tố mạnh hơn cũng có thể làm chậm những tiến bộ trong phát triển con người ở những vùng dân cư
chính yếu, kể cả Đồng bằng sông Cửu Long.
Báo cáo cũng cho thấy, biến đổi khí hậu gây đe dọa với Việt Nam ở nhiều cấp. Lượng mưa dự kiến sẽ gia tăng và
Việt Nam sẽ đối mặt với những trận bão nhiệt đới mạnh hơn. Mực nước biển dự kiến sẽ dâng cao 33 cm vào năm
2050 và 1 m vào năm 2100.
“Với ĐBSCL thấp trũng, đây là một dự báo rất ảm đạm. Mực nước biển dâng cao như dự báo vào năm 2030 sẽ
khiến khoảng 45% diện tích đất của khu vực này có nguy cơ nhiễm mặn cực độ và thiệt hại mùa màng do lũ lụt.
Năng suất lúa dự báo sẽ giảm 9%. Nếu mực nước biển dâng cao 1m, phần lớn ĐBSCL sẽ hoàn toàn ngập trắng
nhiều thời gian dài trong năm”- Ông Bernard O’Callaghan cho biết.
Biến đổi khí hậu cũng làm một diện tích rộng lớn của đồng bằng sông Mê Công, sông Hồng và ven biển miền Trung
bị ngập lụt do nước biển dâng. Nước biển dâng cũng ảnh hưởng đến vùng đất ngập nước của bờ biển Việt Nam,
nghiêm trọng nhất là các khu vực rừng ngập mặn của Cà Mau, TP.HCM, Vũng Tàu và Nam Định.
12
Về khí hậu, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 độ C / thập kỷ. Trong một số tháng mùa hè, nhiệt độ tăng
khoảng 0,1 – 0,3 độ C / thập kỷ. Mưa lớn thường xuyên hơn.
Báo cáo cũng cho biết sự biến đổi này còn gây những tác động lớn đối với phát triển con người ở ĐBSCL. Theo đó,
dù mức đói nghèo đã và đang giảm nhưng hiện vẫn còn 4 triệu người đói nghèo ở ĐBSCL. Đối với nhóm này, sự sụt
giảm nhỏ về thu nhập hay mất cơ hội việc làm do lũ lụt sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đối với dinh dưỡng, sức khỏe
và giáo dục.

Trong đó người nghèo sẽ phải chịu nguy cơ gấp đôi. Khả năng những người này sinh sống ở những vùng dễ ngập
lụt là cao hơn, song khả năng sống trong những ngôi nhà kiên cố, vững chắc thì thấp hơn.
13
LŨ LỤT TẠI CÁC VÙNG MIỀN
III. LŨ LỤT Ở BẮC BỘ
NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH
Hàng năm những trận bão biển và gió mùa Tây Nam đã gây nên những trận mưa lớn ở miền thượng du cũng như
đồng bằng miền Bắc. Do ảnh hưởng của biến động thời tiết trên toàn thế giới vì dòng nước El Nino và La Nina,
những trận bão biển và mưa lớn xảy ra càng khốc liệt hơn. Mùa bão thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, và
trung bình hàng năm có 4 cơn bão. Những cơn bão này thường xuất phát từ Phi Luật Tân, Biển Đông và Tây Thái
Bình Dương rồi 3-4 ngày sau sang đến bờ biển nước ta. Địa hình thượng lưu các sông gồm các vùng đồi núi với độ
dốc lớn nên nước mưa đỗ nhanh chóng xuống vùng đồng bằng. Mỗi khi có mưa to, vùng đồng bằng Sông Hồng
nhận nước lũ từ hai hệ thống Sông Hồng và Sông Thái Bình. Hệ thống Sông Hồng bao gồm Sông Đà, Sông Hồng,
Sông Thao nhập lưu tại Việt Trì, và hệ thống Sông Thái Bình gồm các nhánh chính là Sông Cầu, Sông Thương, sông
Lục Nam nhập lưu tại Phả Lại. Dầu được bảo vệ bởi môt hệ thống đê dài trên 3000 km, nhưng đa số các trung tâm
đông dân cư đều nằm dưới mực nuớc lũ Sông Hồng. Vì vậy khi mưa quá to và nước lũ làm vỡ đê làm nhiều nguời
thiệt mạng.
Trong vòng 100 năm qua, đồng bằng sông Hồng đã có 26 trận lũ lớn. Các trận lũ lớn này đa số xảy ra vào tháng 8,
nhằm vào cao điểm của mùa mưa bão. Đặc biệt vào năm 1971, ảnh hưởng dòng nước lạnh La Nina đã gây nên
những trận mưa to liên tục vào mùa bão năm đó. Một cơn bão từ miền nam Trung hoa gần Hồng Kông mang đến
những trận mưa to trên các Sông Thao, Sông Lô và Sông Đà. Nuớc lũ từ các sông này đã hợp lại gây nên cơn lũ lịch
sử của đồng bằng Sông Hồng. Mực nước Sông Hồng ngày 20 tháng 8 lên đến 14,13 m ở Hà Nội. Mực nước ở Hà
Nội này cao
hơn mực nước báo động cấp III đến 2,63 m. Mực nước Sông Hồng đo được 18,17 m ở Việt Trì (cao hơn 2,32 m
mức báo động cấp III) và 16,29 m ở Sơn Tây (1,89 m cao hơn mức báo động cấp III). Đồng thời mực nước ở các
14
Sông Cầu, Sông Lô, Sông Thái Bình lên cao hơn bao giờ hết. Trận lũ năm 1971 đã gây vỡ đê ở ba địa điễm, làm thiệt
mạng 100000 nguời, úng ngập 250000 ha và hơn 2,7 triệu người bị thiệt hại. Môt trận lũ lớn khác vào tháng 8 năm
1945 gây vỡ đê tại 79 điễm, gây ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312000 ha, ảnh hưởng tới cuộc sống của 4 triệu
người. Gần đây lũ lụt kèm theo gió to hơn 100 km/giờ do bão Frankie gây nên vào ngày 24 tháng 7 năm 1996 làm

100 người bị thiệt mạng, 194000 căn nhà bị hư hại và hơn 177,000 ha bị úng ngập.
IV. TÂY NGUYÊN
NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH
Tây Nguyên nằm xa bờ biển, phần lớn diện tích tự nhiên được che chở bởi dãy núi Trường Sơn nên ít khi chịu ảnh
hưởng trực tiếp của bão. Tuy nhiên, khi bão đổ bộ vào vùng bờ biển từ Trung Trung bộ đến Nam Trung bộ thì ở
Tây Nguyên thường có mưa to diện rộng sinh lũ lớn.
Hàng năm, vào mùa bão ảnh hưởng trực tiếp tới nước ta cũng là mùa lũ chính trên các sông, suối ở Tây Nguyên.
Sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của bão đã tạo ra nhiều trận mưa lũ lớn, có khi kèm theo các hiện tượng nguy
hiểm khác như lũ quét, sạt lở đất gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về người và của cải vật chất, ảnh hưởng xấu,
lâu dài tới đời sống sinh hoạt, sản xuất của nhân dân và môi trường sinh thái của khu vực.

Lũ lụt tại khu vực phía Đông Nam tỉnh Gia Lai.
Những cơn bão có ảnh hưởng trực tiếp dù khi vào địa phận Tây Nguyên đã suy yếu thành áp thấp hoặc chỉ còn là
một vùng thấp nhưng vẫn mưa lớn trên diện rộng. Lượng mưa lớn nhất do ảnh hưởng của một trận bão ở các
15
vùng khác nhau của Tây Nguyên có thể đạt 150-450 mm; trong đó lượng mưa ngày lớn nhất có thể đạt từ 100 mm
đến trên 200 mm.
Do có địa hình dốc, mưa tập trung nên lũ trên các sông suối ở Tây Nguyên có tốc độ dòng chảy lũ khá lớn, từ 2,0
đến 4,0m/s. Lũ lên, xuống cũng khá nhanh, cường suất lũ đạt từ 0,20 đến 0,50m/giờ đối với các sông suối có diện
tích lưu vực nhỏ hơn 1.000 km2; từ 0,10 – 0,30m/giờ đối với các sông lớn hơn; cường suất lũ lên lớn nhất có thể
đạt 1,50 – 1,80m/giờ. Thời gian mỗi trận lũ phụ thuộc vào tính chất mưa, hình dạng lưu vực và độ che phủ của
thảm thực vật trên lưu vực. Hầu hết các sông, suối nhỏ và có thảm phủ kém do cây rừng bị chặt phá nhiều có thời
gian một trận lũ chỉ kéo dài vài ba ngày. Những sông suối lớn và những sông suối có sự che chở tốt của rừng đầu
nguồn thì thời gian trận lũ kéo dài hơn, thường từ 4 – 5 ngày đến hơn 10 ngày.
Thông thường, những trận mưa sinh lũ thường là mưa lớn trên diện rộng, địa hình lại dốc nên thời gian tập trung
lũ khá nhanh, lượng dòng chảy lớn. Theo đó: thời điểm xuất hiện đỉnh lũ muộn hơn từ 3 đến 6 giờ kể từ khi mưa
lớn nhất xảy ra đối với các sông suối có diện tích lưu vực từ 500 km2 trở xuống và từ 6 – 12 giờ đối với các sông có
diện tích lưu vực lớn hơn 500 km2. Mô đun đỉnh lũ lớn nhất (lượng nước lũ được sinh ra trên một đơn vị diện tích
trong một đơn vị thời gian) trên các sông suối ở Tây Nguyên ở mức trung bình so với cả nước, phổ biến đạt từ 0,50
– 1,50m3/s.km2. Trận lũ năm 1999 trên các sông Dak Nông và Dak RTih có mô đun đỉnh lũ (Mmax) đạt 0,80 – 1,00

m3/s.km2; trận lũ trên sông Krông Nô năm 2000, có Mmax = 1,40 m3/s.km2; trận lũ trên sông Sê San năm 2009 có
Mmax = 1,67 m3/s.km2
Trong các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của dòng chảy lũ trên các sông suối ở Tây Nguyên thì
mưa có vai trò chủ đạo. Ngoài lượng mưa, cường độ mưa (lượng mưa trong một khoảng thời gian nhất định nào
đó - thường lấy đơn vị tính là mm/giờ) có tác động quyết định đến mức độ khốc liệt của nước lũ. So với các khu
vực khác của nước ta thì cường độ mưa sinh lũ ở Tây Nguyên vào hàng trung bình, phổ biến từ 20 – 30mm/h, một
số trận mưa tập trung có thể đạt từ 50 – 70mm/h. Lượng mưa một ngày lớn nhất trên mỗi lưu vực sông trong một
trận lũ phổ biến từ 50 – 150mm. Tuy nhiên, trong một số năm, ở Tây Nguyên cũng đã xuất hiện những trận mưa
có lượng đặc biệt lớn, đạt trên 200mm trong vòng từ 6 đến 24 giờ. Hầu hết những trận mưa rất to này đều sinh lũ
lớn hoặc lũ quét, sạt lở đất và để lại hậu quả rất nghiêm trọng.
TIẾN TRÌNH BÃO LŨ – TÂY NGUYÊN
Hoạt động của các cơn bão và áp thấp nhiệt đới tác động tới sự hình thành mưa lũ ở Tây Nguyên có thể được chia
là hai thời kỳ khác nhau. Trong thời kỳ từ tháng 7 đến đầu tháng 9, bão, áp thấp nhiệt đới thường ít khi có tác
động trực tiếp mà phần nhiều là có tác động kích hoạt gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh lên gây ra những đợt
mưa liên tục trong nhiều ngày.
Trong đó, vào những ngày bão đi ngang bờ biển Trung bộ thì thường là những ngày mưa ở Tây Nguyên đạt có sự
gia tăng mạnh cả về lượng, cường độ cũng như diện mưa nên đây là khoảng thời gian dễ có lũ lớn trên các sông
suối ở các vùng phía Nam, Tây Nam tỉnh Đak Nông; các vùng Ea Soup, Buôn Đôn, Cư M’Gga, của tỉnh Đak Lak; các
vùng phía Tây và trung tâm tỉnh Gia Lai; các vùng phía Bắc, Tây Bắc tỉnh Kon Tum.
Thời gian này, nguy cơ xuất hiện lũ quét và sạt lở đất cũng đạt cao nhất trong năm.
Từ khoảng giữa tháng 9 đến cuối mùa, hoạt động của bão, áp thấp nhiệt đới có xu hướng đổ bộ dịch xuống phía
Nam nên khả năng ảnh hưởng đến sự hình thành mưa lũ ở Tây Nguyên cao hơn, có khi là ảnh hưởng trực tiếp. Đây
là thời kỳ mà mực nước và lượng dòng chảy trên hầu hết các sông suối trong khu vực đạt mức cao nhất và có
nhiều lũ lớn trong năm.
16
Những năm gần đây, dưới sự tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, biến trình mưa ở khu vực Tây Nguyên cũng
có những thay đổi nhất định. Theo đó, số trận mưa có cường độ và lượng lớn có xu thế tăng lên, kết hợp với
những biến đổi tại chỗ như việc chặt phá rừng cùng nhiều hoạt động khác làm thay đổi diện mạo tự nhiên của lưu
vực đã khiến cho dòng chảy lũ trên các sông suối ở Tây Nguyên trở nên hung dữ hơn, có mức độ tàn phá khốc liệt
hơn. Theo số liệu thống kê, trong vòng 15 năm trở lại đây, ở khu vực Tây Nguyên đã có 22 trận lũ lớn đến đặc biệt

lớn và lũ quét gây ngập lụt trên diện rộng. Hậu quả sau mỗi trận lũ như vậy là hàng chục người chết và mất tích,
nhiều công trình nhà cửa, cầu cống, đường sá giao thông, mương máng thủy lợi bị hủy hoại Vì vậy, công tác
chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với thiên tai lũ lụt ở Tây Nguyên cần được các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể
và người dân thực hiện nghiêm túc. Các địa phương nên coi việc thực hiện chỉ đạo nhân dân làm tốt công tác
phòng, chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai lũ lụt gây ra như một mục tiêu phấn đấu chủ đạo trong các chương
trình hành động của mình. Phòng chống lũ lụt bao gồm hai nhiệm vụ là phòng lũ và chống lũ.
Mưa lớn trong điều kiện núi và cao nguyên xen kẽ với các thung lũng dẫn đến tình trạng xói mòn đất, sinh ra
những trận lũ lớn trên các sông, suối gây ngập lụt nghiêm trọng ở nhiều nơi, có khi xảy ra lũ quét và sạt lở đất.
Mưa do ảnh hưởng của bão ở Tây Nguyên thường xuất hiện 1-3 ngày trước khi bão đổ bộ và tiếp tục kéo dài một
vài ngày sau khi bão đã đổ bộ. Tần suất xuất hiện lũ lớn gây ngập lụt do ảnh hưởng của bão, áp thấp nhiệt đới kết
hợp với gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh hoặc không khí lạnh tăng cường là từ 55% đến 65%; riêng lũ quét, sạt
lở đất có tần suất xuất hiện 20-30%.
HẬU QUẢ CỦA LŨ, LỤT
• Phá hủy vật chất: Lũ, Lụt có thể làm hại, gây hư hỏng hay sập đổ hoàn toàn các công trình giao thông như
cầu, cống, đường tàu, hệ thống thoát nước, nhà cửa,
• Thương vong: người và động vật bị chết đuối hoặc bị thương do tai nạn do ngập nước gây ra.
• Ảnh hưởng đến nước sinh hoạt nói riêng và nguồn nước nói chung: nước bị ô nhiễm do nước mang theo
các chất thải từ cống, rãnh, ao hồ tràn lên đường phố, nhà, khu vực các vòi nước công cộng, Gây khan
hiếm nước uống và nhiều tình trạng khác.
• Bệnh cho người và động vật: do vệ sinh kém, do các bệnh truyền nhiễm dựa vào nước để phán tán. Một ví
dụ điển hình là dịch tả.
• Thiệt hại trong nông nghiệp: gây ngập các khu vực trồng trọt nên có thể làm giảm năng suất, là nguyên
nhân gây ra mất mùa, gây khan hiếm lương thực. Nhiều loài thực vật không có khả năng chịu úng bị chết.
• Gây khó khăn cho nền kinh tế: giảm "tức thời" các hoạt động du lịch, chi phí cho tái xây dựng, đồng thời
đẩy mạnh việc tăng giá các mặt hàng lương thực thực phẩm,
GIẢI PHÁP
Muốn phòng ngừa lũ lụt hiệu quả, trước hết cần đưa chủ trương, đường lối, chính sách phòng lũ lụt vào quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội; cụ thể hóa những quy định về bảo đảm phòng lũ lụt; coi trọng việc định ra các quy chế
phòng lũ lụt khi phân vùng sử dụng đất để sản xuất, xây dựng, bố trí dân cư, phát triển thủy lợi, thủy điện. Điều
tra, đánh giá, xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ ngập lụt. Thực hiện các biện pháp hạn chế quá trình chảy tràn,

giảm tốc độ tập trung nước, gắn công tác phòng lụt với sử dụng đất trên lưu vực sông, kết hợp với giữ đất, giữ
nước. Thay đổi đặc trưng lũ lụt thông qua các biện pháp vật lý như khơi thông cải tạo dòng chảy, đắp đê quai,
17
nuôi dưỡng, gìn giữ rừng phòng hộ; xây dựng nhà cửa, công trình kiên cố phù hợp với điều kiện có lũ lụt thường
xuyên. Tuyên truyền, phổ cập, giáo dục huấn luyện cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý, và người dân những kiến
thức về lũ lụt và biện pháp phòng lũ lụt. Diễn tập chống lũ lụt, thông qua đó phát hiện ra những thiếu sót về kỹ
thuật, phương tiện, nhận thức để bổ sung sửa chữa.
Các biện pháp nêu trên mới chỉ dừng lại ở mức độ phòng ngừa, chuẩn bị ứng phó với lũ lụt. Khi lũ lụt đã xảy ra thì
các biện pháp chống lũ lụt có hiệu quả phải thể hiện qua kết quả bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và của
nhân dân trong cả ba giai đoạn kể từ khi lũ lụt xảy ra, tác động và khi lũ lụt đã kết thúc. Nhiệm vụ chống lũ cần
phải được thực hiện kịp thời, đồng bộ. Trước hết cần quan tâm đến việc lập kế hoạch chống lũ lụt cho toàn tỉnh,
chi tiết cho từng huyện, xã. Đặc biệt quan tâm đến quy hoạch sử dụng đất và các tài nguyên khác trên bề mặt lưu
vực sông. Theo dõi chặt chẽ, truyền thông tin kịp thời từ các trạm quan trắc khí tượng thủy văn (KTTV), đến Trung
tâm Dự báo KTTV của tỉnh và Đài KTTV khu vực; phát báo kịp thời, truyền thông tin đến cơ quan chức năng và
chính quyền các địa phương nằm trong vùng uy hiếp của lũ để phát lệnh báo động, đồng thời phổ biến thông tin
dự báo tới mọi người dân để chủ động tự phòng chống. Tổ chức chống lũ tập trung, huy động sức người, phương
tiện tại chỗ và hỗ trợ từ bên ngoài, sơ tán dân ra khỏi vùng nguy hiểm. Thực hành thao tác khi bất trắc xảy ra và
các hoạt động cứu trợ, an ninh, sức khỏe, môi trường và các công việc phục hồi, sửa chữa khắc phục hậu quả lũ
lụt. Cung cấp thông tin, giáo dục, huấn luyện, phổ cập các kiến thức về chống lũ lụt cho nhân dân các vùng thường
xuyên bị lũ lụt…
Có thể giảm thiệt hai do lũ bằng cách di dời dân cư xa sông, tuy nhiên các hoạt động kinh tế, dân sinh thường gắn
liền với sông. Do vậy, con người vẫn cứ định cư trong những khu vực có nhiều rủi ro bị thiệt hại do lũ, khi đó giá trị
thu được do sống gần vực sông cao hơn là chi phí dự báo lũ định kỳ.
Tiếp tục xây dựng kiểu nhà sàn với các thiết kế, vật liệu hiện đại hơn. Kiểu nhà này phù hợp với khí hậu, thời tiết
khu vực và tập quán sinh hoạt nên cần duy trì.
Chọn nơi xây nhà ít bị ảnh hưởng của lũ để hạn chế thiệt hại. Cộng đồng có thể chung sức đắp đập ở hướng lũ hay
tràn về để bảo vệ làng xóm
Nhà xây trên triền dốc thì cần bố trí các khu vực cần vệ sinh cao như phòng ngủ, bếp, bể nước ở phần cao, chuồng
trại, bể phốt, hầm bio-gas … ở phần thấp. Cách sắp xếp này nên kết hợp với việc đặt lối vào nhà từ phần cao của
mảnh đất để từ đường được vào nhà luôn chứ không phải đi qua chuồng trại chăn nuôi rồi mới vào nhà nếu để lối

vào từ phần thấp. Làng xóm cần thỏa thuận cùng xây dựng trên một vành đồi, núi có cùng cao độ để tránh nhà nọ
làm ô nhiễm nhà kia. Các công trình công cộng của làng xóm cũng theo đó mà bố trí cho hợp lý theo nguyên tắc cái
nào không gây bẩn thì để trên phần đất cao, cái gây bẩn thì cho xuống đất thấp.
Nhà nên làm tường, mái sàn bằng các vật liệu gạch, ngói, bê tông (hiện còn khó khăn do chưa sản xuất tại chỗ
được, tương lai khi giao thông với đồng bằng tốt hơn sẽ được cải thiện nhiều) để đảm bảo vững chãi, cách nhiệt
tốt, hạn chế nhu cầu sưởi ấm bằng đốt gỗ, củi. Tiếp tục làm nhà bằng gỗ sẽ làm phá rừng, gây nên lũ làm hủy hoại
xóm làng, sinh mạng
CÔNG TRÌNH CHỐNG LŨ.
NHÀ Ở DÂN GIAN CHỐNG LŨ – DÂN TỘC MIỀN NÚI
1)Nhà dân gian IFUGAO – PHILIPPINE
18
19
20
2-NHÀ Ở DÂN GIAN CHỐNG LŨ – DÂN TỘC TÂY NGUYÊN
21
22
Khmer Traditional Houses/ Khmer Wooden Houses
23
24
NHÀ TRUYỀN THỐNG INDONESIA
25

×