Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Văn hoá lễ hội cồng chiêng tây nguyên, xúc tiến quảng bá du lịch và vai trò của nó đối với phát triển du lịch tỉnh Gia Lai trong tương lai.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.46 KB, 31 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
A.MỞ BÀI
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước,biết bao biến cố thăng
trầm đã chứng minh được sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc ta
tạo nên cội nguồn của nền văn hoá phong tục việt nam với hàng nghìn năm
lịch sử, kiên trì, bền bỉ, gạn đục khơi trong đã bảo tồn và phát triển những
nết phong tục tập quán của người dân việt nam giữ được cho nền văn hoá
dân tộc một cốt cách một dáng vể việt nam với bản lĩnh, rạng rỡ lịch sử.Việt
nam một quốc gia đa dân tộc góp phần phong phú thêm nền văn hoá đồng
thời giữ thêm sự bình đẳng, đa dạng về văn hoá các dân tộc.
Vì vậy việc nghiên cứu văn hoá các dân tộc nói chung và văn hoá dân
tộc Gia Lai.cũng là vấn đề quan trọng không chỉ ở việc bảo vệ gìn giữ di sản
văn hoá dân tộc mà còn có sự đòi hỏi cấp bách của chiến lược đại đoàn kết
của các dân tộc trong thời đại hiện nay.
Nhằm góp phần xây dựng vì mục đích sẽ xây dựng một nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, giúp không chỉ bản thân tôi mà
các bạn có thêm những thông tin về việc nghiên cứu một phần dân tộc ở Gia
Lai và những nét đặc sắc về phong tục tập quán của ngưòi này làm phong
phú thên những tài liệu trong quá trình nghiên cứu về dân tộc thái ở Việt
Nam.
Với tinh thần học tập, nghiên cứu và sự đam mê về các dân tộc Việt
Nam nói chung và dân tộc ở Gia Lai nói riêng với những sự tìm kiếm và vận
dụng tôi cũng đã tìm được sâu hơn về dân tộc đặc biệt này, nó đã giúp ích tôi
rất nhiều được hiểu thêm về dân tộc anh em của chúng ta.
Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài : “Văn hoá lễ hội cồng chiêng tây
nguyên, xúc tiến quảng bá du lịch và vai trò của nó đối với phát triển du lịch
tỉnh Gia Lai trong tương lai.”
Trong quá trình thực hiện, tôi đã sử dụng các thông tin thu thập dữ liệu
từ sách ,báo, internet.Do thời gian thực hiện tương đối ngắn,nên bài tiểu luận
không tránh được những thiếu xót.Nên mong được sự đóng góp của mọi


người để bài tiểu luận đước hoàn thiện hơn.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Để tìm hiểu giá trị của các lễ hội và cả về giá trị vật chất và tinh thần
của dân tộc Gia Lai .
cồng chiêng đã trở thành biểu tượng để khẳng định bản sắc văn hóa cộng
đồng các tộc người ở Tây Nguyên, là tiếng nói chung của cộng đồng các dân
tộc Tây Nguyên; là nguồn giao lưu văn hóa, là phương tiện để các dân tộc
hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn… nhằm nâng cao hơn nữa ý thức bảo
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 1
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
tồn và phát huy các giá trị của văn hóa cồng chiêng trong bộ phận dân cư
này.
Thực tế chứng minh bất kì một dân tộc nào cũng đều trải qua quá trình
lịch sử góp phần tạo nên diện mạo cốt cách văn hoá của một dân tộc về tinh
thần tự tôn dân tộc của mình.
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU:
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về giá trị nhân văn và gia trị tiềm
tàng của dân tộc Tây nguyên sống và đã để lại cho ta những giá trị văn hóa
vất chất và tinh thần của dân tộc trong 45 dân tộc anh em.
Và cũng được sinh viên trong chúng tôi tìm hiểu về nó đặc biệt là khoa
Địa Lý, và khoa Địa Lý - Du Lịch chúng tôi.
IV. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU.
1.Khái quát lịch sử
2.Giá trị lễ hội truyền thống
3.Lễ hội cồng chiêng Tây nguyên với xúc tiến và quảng bá du lịch
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 2
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VÙNG
I.KHÁI QUÁT LỊCH SỬ:

1.1 VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ:
Vùng Tây Nguyên ngày xưa đa số là những người dân tộc thiểu số sinh
sống. Và họ sống với nhau trong những làng mạc mà cha ông họ đã gây
dựng nên. Trong một ngày nọ người trưởng làng cảm thấy trong người của
mình có vẻ không khỏe nên đã cho gọi 2 người con trai vào và tổ chức một
cuộc thi săn bắt để chọn ra người kế vị. Và cuộc thi đã diễn ra nhưng phần
thắng đã thuộc về người em. Người anh buồn bã bỏ sang một vùng đất khác
để sinh sống. Sau đó người em đã lập ra một làng tên là "plei ku". Ở đây nếu
dịch sang nghĩa từ thì Plei là một cái làng, Ku là người em. Pleiku nghĩa là
làng của người em (nhớ về chiến thắng của người em). Và cái tên Pleiku
được gắn liền với địa danh nay suốt bao năm tháng qua.
Gia Lai là một vùng đất có bề dày lịch sử với nền văn hóa cổ xưa mang
bản sắc độc đáo của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là Gia Rai và Ba Na thể
hiện qua kiến trúc nhà rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y
phục và nhạc cụ. Các lễ hội đặc sắc ở Gia Lai: lễ Pơ Thi (Bỏ Mả), lễ hội đâm
trâu, múa xoang trang phục ngày hội được trang trí hoa văn nhiều màu sắc
thần bí, các điệu múa dân gian và âm thanh vang vọng của các loại nhạc cụ
riêng của từng dân tộc như tù và, đàn đá, cồng chiêng Đến Gia Lai du
khách còn được xem những khu nhà mồ dân tộc với những bức tượng đủ
loại và những nghi lễ còn rất hoang sơ với tôn giáo đa thần (Tô Tem) còn
nhiều nét nguyên thủy.
1.2 VÙNG ĐẤT VĂN HOÁ LỊCH SỬ:
Trên Cao Nguyên miền Trung Việt Nam, tỉnh Tây Nguyên Gia Lai nay
đã thêm nhiều dân tộc định cư. Đó là người Kinh (chiếm xấp xỉ 50% dân
số), người Tày, Thái, Nùng ở các tỉnh phía Bắc, tận biên giới vào làm ăn
sinh sống. Còn người "bản thổ" lâu đời ở đây gồm 30 dân tộc cùng sinh sống
được người Việt ở đồng bằng, ven biển gọi là "người Thượng", "Thượng" có
nghĩa là ở trên cao, trên vùng núi, đối lại với miền "xuôi" (thấp) ở đồng bằng
ven biển v.v
Trong đó người Thượng Bana và Gialai là 2 dân tộc chiếm số đông, xấp

xỉ hơn 40% dân số trong tỉnh. Nói chung các dân tộc Thượng đều có những
sắc màu trang trí, nghệ thuật hoa văn cơ bản giống nhau. Cái chi tiết không
nhiều, chỉ là thể hiện sự phong phú. Vì vậy, nói đến sắc màu trang trí, nghệ
thuật hoa văn của người Thượng người ta cũng thường lưu ý đến loại hình
này của người Bana và Giarai là chủ yếu.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 3
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Người dệt vài người Thượng thường dùng chỉ sợi nhuộm màu rồi dùng
đồ dệt bằng gỗ, tre chuyên dùng nhưng tháo rời. Khi làm họ mới dùng nó
với sợi chăng lên liên kết lại để thực hiện. Vì thế, dệt vải tạo hoa văn trang
trí là một điểm cơ bản nhất tác thành kết quả. Khung dệt của họ không phải
là loại cố định như người dân tộc miền núi phía Bắc hay như người Kinh nên
không dệt được những tấm vải dài. Nhưng họ có thể dệt các khổ vải rộng có
khi đến hơn cả mẻ hay rất hẹp mà khung cửi cố định chưa thực hiện được.
Thường tấm vải dệt của người Thượng chỉ dài cỡ 6 mét. Trên cơ sở ấy,
người dệt vải (chủ yếu là phụ nữ) thực hiện kết hợp giữa sợi ngang và sợi
dọc với tay nghề quen thuộc và tài hoa người dệt tạo nên sản phẩm. Thường
thì họ tạo nên những hoa văn cơ bản gồm các đường hình học, kỷ hà, là
những đường thẳng song song sắc màu, đường gấp khúc, những hình tam
giác, hình vuông v.v chạy dọc theo tấm vải. Cũng nhiều người tài hoa hơn
thì sáng tạo thêm nhiều hình họa dệt phong phú hơn, hình người, chim thú.
Vải dệt cho may y phục lễ hội được chú ý tạo dệt hoa văn trang trí sặc sỡ
hơn, phong phú hơn, đẹp, bền hơn đồ thường dùng. Ơở những mép biên vải
hay hai đầu và cuối tấm vải, người dệt vải có khi dùng tay buộc cột sợi chỉ
với nhau tạo hoa văn một cách chậm chạp mà chắc chắn, vừa làm đẹp vừa
"khóa" mối sợi, chỉ cho tấm vải tốt hơn.
Khi tấm vải đã được dệt xong tùy theo các kích cỡ rộng hẹp có chủ định
trước, họ cắt can, nối với nhau tạo thành áo vấn quanh người, khố hoặc váy
cũng thế. Và các hoa văn trang trí đương nhiên được hình thành chạy dọc
tấm vải, hay chảy dọc trên xuống theo chiều vài đóng khố (ở đàn ông). Hoa

văn, sắc màu được tạo thành Ơở đồ dùng "gùi" để mang tải trên lưng cũng
được dùng nan tre chuốt vót kết đan thành hoa văn theo kiểu tương tự như
dệt vải.
Đáng chú ý là sắc màu của vải sợi dệt kết can thành y phục. Ơở đây còn
tàng chứa, ẩn tích nhiều bản sắc như là đầu mối cho nhiều lĩnh vực nghiên
cứu hiểu biết đối với các dân tộc Thượng và nhân loại học. Nói chung sự tồn
tại đến nay thì vải dệt hoa văn người Thượng thường lấy màu đen làm nền.
Trên đó họ kết sợi lên các màu đỏ, vàng (đa số) rực rỡ ở "gam màu" nóng
tương phản rõ nét với nền đen. Cũng có màu trắng nhưng dường như nó xuất
hiện đột khởi nhắc nhở sự tiềm ẩn như đã mờ phai theo thời gian năm tháng
để phù hợp với hoàn cảnh sống, canh tác, nơi núi rừng.
Sắc màu, dệt sợi màu là những tạo hình hoa văn và bố cục rất quen,
thành công thức với những đường hình học, kỷ hà nói trên. Màu xanh cũng
được họ sử dụng nhưng không choán chiếm lấn át nổi các màu đen, đỏ, vàng
rực rỡ (nóng) xuất hiện trên vải là y phục. Có thể những màu này là dạng
phát triển, biến thể của nền trắng xa xưa, nay được hoà quyện với màu
không gian núi rừng cây xanh xung quanh để lẫn chìm trong nó. Nó không
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 4
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
giống như sắc màu, màu nền y phục, vải dệt của một số dân tộc thiểu số phía
Nam Cao Nguyên hay ven biển như những dân tộc, Chàm, Châu Ro, người
Stiêng (ở đây nền màu trắng vẫn còn tồn tại mạnh, tựa như để hòa lẫn với
sóng biển bạc đầu của dân đi biển hay sa mạc từng được biết đến trên thế
giới).
Nói đến Gia Lai với các dân tộc, người "Thượng" (khác với người miền
núi thiểu sô ở các tỉnh phía Bắc lại thường được gọi chung là "dân tộc thiểu
số" hay "người miền núi" hoặc gọi thẳng tên dân tộc họ như Tày, Thái,
Nùng, Mèo, Dao v.v ) Tây Nguyên cũng như người Ba Na, Giarai là nói
đến nghệ thuật cồng chiêng nhạc khí, trường ca chuyện cổ sử thi, là văn hóa
lễ hội, là nghệ thuật điêukhắc gỗ nhà mồ, là xây dựng nhà ở, là nói đến nghệ

thuật trang trí, hoa văn, sắc màu đặc biệt
.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 5
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG II : GIÁ TRỊ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
1.LỄ HỘI:
có mặt trong tất cả các sinh hoạt, nghi lễ trong đời sống đồng bào các
dân tộc Tây Nguyên.
Buôn làng biểu dương sức mạnh của mình bằnglễ hội. Con người gửi
gắm vào tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình về quan hệ giữa người với tự
nhiên, giữa người với người.
2.LỄ HỘI - PHONG TỤC Ở GIALAI
2.1. Lễ hội đâm Trâu
Đồng bào Jrai, Bahnar thường tổ chức lễ hội đâm trâu trong khoảng thời
gian từ đầu tháng chạp năm trước đến tháng 3 âm lịch năm sau. Người
Bahnar tổ chức trong 3 ngày, còn người Jrai tổ chức trong một ngày rưỡi. Lễ
hội đâm trâu được tổ chức vào dịp mừng chiến thắng , mừng thắng lợi của
cộng đồng, khánh thành nhà rông, lễ cầu an, lễ xoá điềm xấu, điềm gở cho
cả buôn làng hoặc tạ ơn thần linh.
Hàng năm dân làng tổ chức một lần lễ hội đâm trâu tại nhà rông, mọi phí
tổn trong ngày hội do dân làng đóng góp lại. Người chủ trì ngày hội là già
làng, đứng gần cột buộc trâu. Thanh niên nam nữ đánh chiêng, cồng, múa
đứng sau lưng già làng. Những thanh niên có nhiệm vụ đánh trống, chiêng,
cồng trong ngày hội, đầu chít khăn đỏ, mặc áo (loại áo ngày lễ dành cho con
trai), đóng khố. Nữ thanh niên mặc áo phia, váy koteh (loại áo, mặc ngày hội
của con gái).
Khi già làng khấn xong, tiếng chiêng, cồng bắt đầu nổi lên hòa với tiếng
hú của dân làng. Cảnh buôn làng trở nên rộn ràng, sinh động. Những ngày ở
lễ hội đâm trâu, là những ngày hội của nghệ thuật cồng chiêng vì nhiều nhà
đem bộ cồng chiêng của mình tới tham dự.

Hết ngày thứ nhất, sang ngày thứ hai, tiếng cồng chiêng càng nổi lên rộn
rã, những thanh niên khoẻ mạnh, đầu chít khăn đỏ, tay cầm khiên, gươm
sáng loáng lao ra, vừa múa vũ khí, vừa đi vòng tròn để lừa dịp đâm trâu. Sau
cuộc nhảy múa, họ bắt đầu đâm trâu. Khi con trâu đã tắt thở, thầy cúng
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 6
Quang cảnh lễ hội đâm trâu
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
mang chiêng, nồi đồng nhỏ đến hứng
huyết trâu hòa với rượu, bộ phận đao
kiếm tiếp tục xẻ thịt trâu, làm thịt
trâu xong, họ chia đều cho từng bếp
trong buôn làng. Một phần thịt trâu
sẽ được dành lại để uống rượu chung
tại nhà rông.
2.2. Lễ Pơ Thi (Lễ bỏ mả)
Hàng năm khi mùa mưa vừa chấm dứt (từ tháng 11 đến hết tháng 4
dương lịch năm sau), khi muà màng thu hoạch xong, cả hai tộc người
Bahnar và Jrai ở tỉnh Gia Lai tổ chức Lễ bỏ mả và họ cùng gọi là Pơ thi. Lễ
bỏ mả là lễ hội lớn nhất, đông vui và dài ngày nhất.
Theo quan niệm của cư dân bản địa, người sống đều có hồn, khi người
chết hồn biến thành ma. Hàng ngày, người thân của người chết phải đem
cơm nước đến nhà mồ, quét dọn nhà mồ. Mục đích của lễ hội chính là tiễn
đưa các tinh linh (ma mới) về với thế giới tổ tiên, về với "ma cũ". Chỉ sau
khi làm Lễ bỏ mả người chết mới đi về với thế giới tổ tiên, chấm dứt mọi
ràng buộc giữa người sống với người chết.
Ngày xưa người Jrai tổ chức lễ hội bỏ mả trong 7 ngày, nay chỉ còn 4
ngày:
Ngày thứ nhất gọi là ngày vào hội
Ngày thứ hai là ngày vỡ hội
Ngày thứ ba là ngày rửa nồi

Ngày thứ tư là ngày giải phóng cho người goá bụa.
Công việc chuẩn bị khá công phu: đốn cây to làm hàng rào quanh mồ,
đẵn gỗ để đẽo tượng dựng quanh nhà mồ. Cuối cùng làm nhà mồ.
Lễ bỏ mả thường diễn ra vào buổi chiều, đó là một cuộc trình diễn lớn
quanh nhà mồ. Sau khi già làng làm lễ cúng xong, thân nhân của người quá
cố vào nhà mồ khóc than lần cuối với người đã chết. Tiếng cồng chiêng,
tiếng trống nổi lên tiễn đưa người chết đi về thế giới bên kia, đoàn đưa tiễn
gồm những người đánh khiêng và đánh trống, người đánh cồng chiêng,
người đeo mặt nạ, người trình diễn những con rối, phụ nữ thì múa, họ đi
vòng quanh nhà mồ biểu diễn những động tác theo tiếng nhạc. Trang phục
của những người tham gia đều rất trang nghiêm và sặc sỡ.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 7
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Có thể nói, lễ hội bỏ mả là biểu
tượng nổi trội nhất, hấp dẫn nhất
trong các lễ hội nói riêng và những
sắc thái văn hoá của người Jrai nói
chung. Bởi lẽ, Lễ hội bỏ mả là cuộc
trình diễn nghệ thuật lớn nhất, mang
tính chất tổng hợp trong tất cả các
loại hình nghệ thuật dân gian của dân
tộc Jrai. Bữa ăn bên nhà mồ là bức tranh đầy đủ về "văn hoá ẩm thực" của
tộc người Jrai. Đây là bữa ăn mang tính cộng đồng lớn nhất về quy mô
những người tham dự, về sự phong phú của các món ăn và cả về nghi thức
tín ngưỡng đời thường. Nghệ thuật nhà mồ cũng là hình thức tổng hợp bao
gồm nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau như: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ,
trang trí, nghệ thuật đan. Nghệ thuật nhà mồ đề cao tính nhân văn của con
người, lấy con người làm trung tâm vũ trụ. Những ngày Lễ bỏ mả thực sự là
những ngày hội văn hóa tưng bừng đầy chất nghệ thuật. Trong những ngày
này, người sống ăn bữa ăn cộng cảm cuối cùng với người chết để rồi lưu

luyến tiễn đưa người chết về thế giới bên kia bằng bài nhạc cồng chiêng,
bằng những con rối Sau khi làm lễ giải phóng, người sống không còn
ràng buộc gì với người thân đã chết. Họ có thể lấy vợ, lấy chồng, có thể dự
những cuộc vui của dân làng. Đến đây lễ bỏ mả chấm dứt, ngôi nhà mồ cũng
bị bỏ luôn, không còn được chăm sóc.
Xét dưới góc độ tôn giáo tín ngưỡng thì Lễ bỏ mả là một nghi thức tang
ma. Thế nhưng nhìn ở khía cạnh văn hóa thì Lễ bỏ mả của người Tây
Nguyên mà điển hình nhất của người Jrai và người Bahnar ở tỉnh Gia Lai là
đỉnh điểm của những hoạt động văn hóa truyền thống. Đương nhiên thông
qua lễ hội, chủ lễ nhằm giải quyết mối quan hệ giữa con người với con
người và giữa con người với thế giới tự nhiên.

Có thể nói, Lễ bỏ mả là một trong những đặc trưng văn hóa tiêu biểu
nhất của các dân tộc tỉnh Gia Lai. Đến với Lễ bỏ mả, du khách còn được
chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc nhà mồ, điêu khắc tượng nhà mồ - những
giá trị có một không hai của đất nước Việt Nam.
2.3. Tượng nhà mồ
Lên Tây Nguyên đến các làng của người Bahnar, Jrai đến những khu
nghĩa địa chúng ta như lạc vào cả rừng tượng gỗ, có những ngôi mộ mới thì
tượng vẫn còn nguyên vẹn nhưng có những ngôi mộ cũ thì tượng nhà mồ đã
bị bỏ ngổn ngang và biến thành rừng. Đó là hình ảnh nhà mồ của người dân
bản địa Gia Lai.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 8
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Nhà mồ được dựng lên cho người chết, để hàng ngày người thân của
người chết đem cơm nước đến và quét dọn như khi còn sống. Tượng nhà mồ
chỉ xuất hiện khi họ tổ chức lễ bỏ mả cho người chết, tại lễ bỏ mả người ta
khắc tượng và trang trí xung quanh nhà mồ. Tượng nhà mồ phản ánh cuộc
sống hiện thực của người dân bản địa.
Theo lời kể của tộc người Bahnar thì tượng nhà mồ là để đưa tiễn người

sang thế giới xa xăm. Bởi vậy, khi sống cuộc đời ra sao thì khi chết đi, con
người chỉ đi xa nhưng cũng là một cuộc sống không khác gì thế giới bên
này. Họ có kiếp sống của sinh thành, giao hoan, có giải trí và đương nhiên,
những súc vật cũng cần mang theo. Đến lễ hội Bỏ mả (lễ hội Pơ thi), chúng
ta ngập trong rừng tượng. Tượng nhà mồ hiện lên sống động quanh những
nhà mồ, thể hiện một nền nghệ thuật cổ, rực rỡ.
Tượng nhà mồ có thể xếp làm 3 lớp. Đó là thế giới sinh thành con
người, có bào thai trong bụng mẹ, có giao hoan, giao phối âm dương, có
bụng mang dạ chửa. Con người thuở nguyên sơ, phô bầy trong dáng khỏa
thân, minh chứng sức mạnh truyền đời của loài người với nét đẽo khô ráp
nhưng được cường điệu những bộ phận người cần được phô trương, bởi thế
đường nét mạnh mẽ, gây ấn tượng rất mạnh, rất khác thường. Nhóm tượng
thứ hai là những con vật gần gũi với người như voi, chó, trâu, bò và nhóm
thứ ba là những sinh hoạt cộng đồng như thể thao, săn bắn. Nhưng khi đến
nhà mồ, lớp tượng cổ sơ nhất vẫn là tiêu biểu cho nghệ thuật tượng nhà mồ
Tây Nguyên.
Nghệ nhân đẽo tượng bằng chiếc rìu cứng cáp. Chỉ trên một khúc gỗ,
không phác thảo và ngày này sang ngày khác, những cây gỗ to sù sì cứ hiện
dần lên những dáng dấp, hình người, những tư thế cùng những chi tiết đa
dạng của người đàn ông, đàn bà, trẻ nhỏ dường như tất cả đã nằm trong
đầu nghệ nhân. Họ lặng lẽ từng nhát chắc chắn bổ xuống để nên hình, nên
tượng, nên hồn.
Những bức tượng thực đó mà cũng hư hư huyền huyền đó như chính cõi
"tối tăm" âm thế. Bởi thế mà trong ngôn ngữ người Bahnar các tượng mồ
được gọi là "Mêu" với người Jrai gọi là "Rup", nghĩa là hình tượng, chứ
không gọi là hình ảnh, cũng không gọi rõ là tượng, nó cụ thể quá.
2.4. Lễ hội cơm mới
Các dân tộc sống ở vùng Tây nguyên sau mùa thu hoạch sẽ tổ chức lễ ăn
cơm mới, đây cũng là lễ hội đặc trưng của người Bahnar và Jrai được tổ
chức để tạ ơn thần lúa, mừng mùa thu hoạch mới, cầu mong cho ruộng

nương ngày càng nhiều thóc lúa. Dân làng cúng thần lúa bằng heo, gà lễ ăn
cơm mới được tổ chức ở nhà rông hoặc nhà riêng. Việc tổ chức lễ ăn cơm
mới tuỳ thuộc vào khả năng thu hoạch nhiều hay ít của từng gia đình. Đây là
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 9
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
cơ hội để chủ nhà mời bà con, họ hàng, bạn bè các buôn làng lân cận
đến chung vui, ăn uống, nhà nào đông khách được coi là một vinh dự lớn.
Trong ngày vui này người ta đánh cồng chiêng, trống vui chơi ca hát cho
đến khi tiệc tàn.
2.5. Lễ cầu mưa
Đồng bào Tây Nguyên thường làm lễ cầu mưa khi sắp bước vào mùa
trồng tỉa. Nhưng cũng có lúc đồng bào cầu mưa khi cây trồng đang trong
thời kỳ sinh trưởng mà Yang (ông trời) quên đem mưa tưới xuống rẫy
nương, hay vì tức giận mà không cho mưa đến một vùng nào đó. Tuỳ theo
từng tộc người, lễ cầu mưa của các dân tộc có thể được tổ chức ở từng gia
đình, tổ chức theo cộng đồng. Một bộ phận cư dân có hẳn người đại diện
Yang tại mặt đất chuyên lo việc cầu mưa. Thông thường lễ cầu mưa được tổ
chức tại bến nước. Đồng bào đắp một đám đất bằng chiếc mâm, tượng trưng
cho đám rẫy, trong đó đặt các lễ vật gồm: một ghè rượu, một chiếc gùi có
treo thịt quanh vành gùi, 2 khúc lồ ô cắt ngắn đựng rượu đặt bên ngoài chân
đế gùi. Ngoài ra, còn có 2 chiếc lá đựng thịt cũng đặt trên mâm đất và 3 ống
nứa dựa 3 phía thân gùi tượng trưng cho những công cụ chứa nước mưa. Lễ
cầu mưa do Pơtao Apui đảm nhận.
Lễ cầu mưa là một hiện tượng tín ngưỡng dân gian, phản ánh nguyện
vọng của một bộ phận cư dân nông nghiệp. Ở Tây Nguyên nó tồn tại song
hành cùng hình thái kinh tế trồng lúa rẫy và hiện chỉ còn thấy ở vùng xa, bởi
sự hiện diện ngày càng nhiều các công trình thuỷ lợi có sức tưới hàng chục
nghìn ha làm cho mưa không còn là nhu cầu bức thiết của dân cư, vì thế lễ
cầu mưa ngày một thưa vắng dần, chỉ còn là mối quan tâm của những người
yêu mến nền văn hoá cổ truyền Tây Nguyên.

2.6. Lễ cúng bến nước
Đây là một trong những hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng mang
nhiều ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Êđê ở
Tây Nguyên.
Nếu Lễ cầu mưa diễn ra hàng năm vào đầu mùa trồng tỉa (khoảng tháng
4 dương lịch), thì Lễ cúng bến nước được tổ chức hằng năm sau mùa thu
hoạch để cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no
hạnh phúc.
Theo đúng phong tục, buổi lễ cúng bến nước thường diễn ra như một
ngày hội của buôn làng. Sau một hồi chiêng ngân dài sâu thẳm và trang
nghiêm, lễ cúng bến nước được bắt đầu bằng lễ cúng ông bà tổ tiên để thông
báo cho ông bà về sự có mặt đông đủ của con cháu trong làng, tiếp đó thầy
cúng mới làm lễ cúng Yang cầu mưa. Kết thúc buổi lễ những cô gái trong
trang phục truyền thống, lưng đeo gùi, cùng mọi người theo bước chân thầy
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 10
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
cúng về bến nước đầu làng. Những bầu nước mát ngọt được những người
con của buôn làng gùi về trong niềm vui hân hoan. Mọi người lại quây quần
bên nhau uống rượu cần trong âm hưởng rộn ràng của cồng chiêng Tây
Nguyên
3.KHÔNG GIAN VĂN HOÁ CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN:
UNESCO:
tổ chức lễ công nhận cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác di sản truyền
khẩu và phi vật thể của nhân loại. Trong dịp này, trên các kênh thông tin, các
vấn đề liên quan đến văn hóa cồng chiêng đã được đăng tải với mật độ dày.
Bên cạnh niềm vui lớn là nỗi lo chung về thực tiễn bảo tồn: nghệ thuật cồng
chiêng chính thống ngày càng rời xa không gian thiêng của nó khibước vào
lĩnh vực dịch vụ du lịch. Và như thế, nguy cơ lai tạp, thậm chí mai một là rất
cao. Bài viết này xin trình bày một cái nhìn khác về bảo tồn cồng chiêng.
Số người am hiểu thấu đáo nghệ thuật cồng chiêng rất ít. Công trình

nghiên cứu nghệ thuật cồng chiêng, văn hóa cồng chiêng càng ít hơn. Đó là
một sự thực. Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Chí Bền, Viện trưởng Viện Văn
hoá thông tin cho biết đến nay chưa có một công trình sưu tầm, nghiên cứu
nào về cồng chiêng xứng tầm với giá trị thực có của văn hóa cồng chiêng,
thậm chí chưa có một công trình tổng hợp đầy đủ về những dàn cồng chiêng
của các dân tộc thiểu số. Khi xây dựng hồ sơ trình lên UNESCO, Viện tập
hợp tất cả các bài nghiên cứu đã xuất bản lâu nay mà “bề dày” vẫn chưa lấp
đầy 300 trang in!
Từ trước 1945, có một số học giả phương Tây quan tâm đến cồng
chiêng của Việt Nam. Nhưng những bài viết của họ chỉ dừng lại ở miêu tả,
không đi sâu vào nhạc học, cũng không nêu được đầy đủ bản sắc văn hóa
của cồng chiêng Việt Nam. Nói cách khác, họ tiếp cận cồng chiêng với
phương pháp và mục đích dân tộc học mà thôi. Ngay như giáo sư Trần Văn
Khê cũng thừa nhận rằng nhờ Tổ chức UNESCO giao nhiệm vụ đánh giá bộ
hồ sơ cồng chiêng của Việt Nam mà ông có điều kiện tăng bổ kiến thức về
loại hình nghệ thuật, văn hóa này. Những nhận định về tình hình nghiên cứu
cồng chiêng của ông không khác với tiến sĩ Nguyễn Chí Bền. Rằng khi mới
đọc qua bộ hồ sơ trình UNESCO ông nhận thấy các bài nghiên cứu chưa làm
rõ nét độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên so với cồng chiêng các nước
khác, yếu tố cơ bản để được công nhận là “kiệt tác”. Từ đó mới thấy vì sao
cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã vượt qua được các ứng viên nặng
ký khác như cồng chiêng Indonesia hay Philippines để được công nhận là
kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Như vậy, một lần nữa, có thể nói ngay trên cái nôi của mình, nghệ thuật
và văn hóa cồng chiêng đã không có nhiều đất sinh tồn, phát triển. Trong khi
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 11
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
đó, phần lớn bài viết trên các kênh truyền thông gần đây nhấn mạnh một
thực tế: Cồng chiêng vốn là vật thiêng, là phương tiện để con người thông
linh với trời-thần, hiện đang bị tục hóa, chẳng khác một nhạc cụ bình

thường. Hơn thế, nghệ thuật cồng chiêng của đồng bào Tây Nguyên đang
dần tách khỏi các nghi thức thờ cúng thần linh, tham gia vào hoạt động dịch
vụ văn nghệ, nên đã đánh mất phần “hồn”, chỉ còn là “hình thức” mà thôi.
Thực ra, một khi bản thân nếp sống văn hóa, kinh tế của đồng bào Tây
Nguyên có những thay đổi lớn lao theo dòng phát triển đương đại, giảm hẳn
vai trò quyết định của thế giới thần linh trong năng suất sản xuất, trong lễ tục
thì tần suất diễn tấu cồng chiêng như phương tiện giao đãi với thần linh giảm
theo, kéo theo sự giảm thiểu số lượng các dàn cồng chiêng là tất yếu (hiện
nay chỉ còn khoảng 2000 dàn so với khoảng 6000 dàn trước năm 1980). Và
như thế, địa vị của cồng chiêng trong đời sống tâm linh của đồng bào Tây
Nguyên, đặc biệt đối với lớp trẻ, cũng không được như xưa.
Cho nên, ở một cách nhìn khác, phần “hình thức” cũng quan trọng và
cần thiết. Nó là nhịp cầu để quảng bá nghệ thuật cồng chiêng ra một không
gian rộng lớn hơn bên ngoài buôn làng, bên ngoài thời gian thiêng của lễ tế
thần linh của đồng bào Tây Nguyên. Không nhất thiết phải lên Tây Nguyên,
vào buôn làng, đợi tới dịp lễ hội mới được tiếp xúc văn hóa cồng chiêng.
Phải từ chỗ làm quen với nghệ thuật cồng chiêng, công chúng yêu nghệ
thuật sẽ tiếp cận với văn hóa cồng chiêng sau đó. Quảng bá không phản trắc
với bảo tồn, nếu quảng bá mang sẵn ý thức bảo tồn. Như không thể chấp
nhận các dàn cồng chiêng được điều chỉnh thang âm theo “đồ-rê-mi” của
phím đàn piano, mà phải giữ nguyên thang âm gốc Tây Nguyên: “bố-mẹ-
con-cháu” Mặt
56khác, các cơ quan chức năng phải đầu tư lớn cho công tác bảo tồn
thuần tuý, bởi một khi UNESCO đã công nhận cồng chiêng Tây Nguyên là
“kiệt tác”, là nghệ thuật đỉnh cao, thì không được phép biến cải.
Và quảng bá, bảo tồn nghệ thuật cồng chiêng không chỉ dừng lại ở các
buổi biểu diễn để mở rộng kiến văn của công chúng. Mà phải đưa vào không
gian học đường, đặc biệt là các trường trung cấp, đại học nghệ thuật, trước
tiên là đại học Tây Nguyên. Nếu không được học, tuổi trẻ Việt Nam không
thể phân biệt cồng khác chiêng thế nào, chứ chưa nói đến việc phân biệt

dàn cồng chiêng các nước khác tổ chức gần như cố định về số lượng trong
khi một dàn cồng chiêng Tây Nguyên có thể từ 2 chiếc đến 15 chiếc. Hoặc
ở các nước khác, người chơi trong dàn cồng chiêng phải ngồi yên tại vị trí cố
định thì ở Việt Nam người chơi luôn di chuyển, và có những động tác uyển
chuyển biểu lộ cảm hứng cá nhân như nghiêng mình, khom lưng
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 12
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Mở rộng không gian cho nghệ thuật cồng chiêng cũng là tích cực bảo
tồn không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 13
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG III VĂN HOÁ LỄ HỘI CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
VỚI XÚC TIẾN VÀ QUẢNG BÁ DU LỊCH
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
UNESCO tổ chức lễ công nhận cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác di
sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Trong dịp này, trên các kênh
thông tin, các vấn đề liên quan đến văn hóa cồng chiêng đã được đăng tải
với mật độ dày. Bên cạnh niềm vui lớn là nỗi lo chung về thực tiễn bảo tồn:
nghệ thuật cồng chiêng chính thống ngày càng rời xa không gian thiêng của
nó khibước vào lĩnh vực dịch vụ du lịch. Và như thế, nguy cơ lai tạp, thậm
chí mai một là rất cao. Bài viết này xin trình bày một cái nhìn khác về bảo
tồn cồng chiêng.
Số người am hiểu thấu đáo nghệ thuật cồng chiêng rất ít. Công trình
nghiên cứu nghệ thuật cồng chiêng, văn hóa cồng chiêng càng ít hơn. Đó là
một sự thực. Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Chí Bền, Viện trưởng Viện Văn
hoá thông tin cho biết đến nay chưa có một công trình sưu tầm, nghiên cứu
nào về cồng chiêng xứng tầm với giá trị thực có của văn hóa cồng chiêng,
thậm chí chưa có một công trình tổng hợp đầy đủ về những dàn cồng chiêng
của các dân tộc thiểu số. Khi xây dựng hồ sơ trình lên UNESCO, Viện tập
hợp tất cả các bài nghiên cứu đã xuất bản lâu nay mà “bề dày” vẫn chưa lấp

đầy 300 trang in!
Thông tin của ông Viện trưởng có thể kiểm chứng dễ dàng. Bởi số tác
giả chuyên tâm với nghệ thuật cồng chiêng hiện nay chỉ đếm trên đầu ngón
tay. Từ trước 1945, có một số học giả phương Tây quan tâm đến cồng
chiêng của Việt Nam. Nhưng những bài viết của họ chỉ dừng lại ở miêu tả,
không đi sâu vào nhạc học, cũng không nêu được đầy đủ bản sắc văn hóa
của cồng chiêng Việt Nam. Nói cách khác, họ tiếp cận cồng chiêng với
phương pháp và mục đích dân tộc học mà thôi. Ngay như giáo sư Trần Văn
Khê cũng thừa nhận rằng nhờ Tổ chức UNESCO giao nhiệm vụ đánh giá bộ
hồ sơ cồng chiêng của Việt Nam mà ông có điều kiện tăng bổ kiến thức về
loại hình nghệ thuật, văn hóa này các bài nghiên cứu chưa làm rõ nét độc
đáo của cồng chiêng Tây Nguyên so với cồng chiêng các nước khác, yếu tố
cơ bản để được công nhận là “kiệt tác”. Cho đến khi đọc đến phần nghiên
cứu của Bùi Trọng Hiền trong mục "Tư liệu tham khảo" của hồ sơ ông mới
tìm thấy những phân tích có thực tế điền dã, có tính khoa học của nhạc học,
phần nào chỉ ra được đâu là nét độc đáo trong thang âm, điệu thức, tiết tấu
của cồng chiêng Tây Nguyên mà cồng chiêng các nước khác không có. Từ
đó mới thấy vì sao cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã vượt qua được
các ứng viên nặng ký khác như cồng chiêng Indonesia hay Philippines để
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 14
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
được công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Như vậy, một lần nữa, có thể nói ngay trên cái nôi của mình, nghệ thuật
và văn hóa cồng chiêng đã không có nhiều đất sinh tồn, phát triển. Trong khi
đó, phần lớn bài viết trên các kênh truyền thông gần đây nhấn mạnh một
thực tế: Cồng chiêng vốn là vật thiêng, là phương tiện để con người thông
linh với trời-thần, hiện đang bị tục hóa, chẳng khác một nhạc cụ bình
thường. Hơn thế, nghệ thuật cồng chiêng của đồng bào Tây Nguyên đang
dần tách khỏi các nghi thức thờ cúng thần linh, tham gia vào hoạt động dịch
vụ văn nghệ, nên đã đánh mất phần “hồn”, chỉ còn là “hình thức” mà thôi.

Thực ra, một khi bản thân nếp sống văn hóa, kinh tế của đồng bào Tây
Nguyên có những thay đổi lớn lao theo dòng phát triển đương đại, giảm hẳn
vai trò quyết định của thế giới thần linh trong năng suất sản xuất, trong lễ tục
thì tần suất diễn tấu cồng chiêng như phương tiện giao đãi với thần linh giảm
theo, kéo theo sự giảm thiểu số lượng các dàn cồng chiêng là tất yếu (hiện
nay chỉ còn khoảng 2000 dàn so với khoảng 6000 dàn trước năm 1980). Và
như thế, địa vị của cồng chiêng trong đời sống tâm linh của đồng bào Tây
Nguyên, đặc biệt đối với lớp trẻ, cũng không được như xưa.
Cho nên, ở một cách nhìn khác, phần “hình thức” cũng quan trọng và
cần thiết. Nó là nhịp cầu để quảng bá nghệ thuật cồng chiêng ra một không
gian rộng lớn hơn bên ngoài buôn làng, bên ngoài thời gian thiêng của lễ tế
thần linh của đồng bào Tây Nguyên. Không nhất thiết phải lên Tây Nguyên,
vào buôn làng, đợi tới dịp lễ hội mới được tiếp xúc văn hóa cồng chiêng.
Phải từ chỗ làm quen với nghệ thuật cồng chiêng, công chúng yêu nghệ
thuật sẽ tiếp cận với văn hóa cồng chiêng sau đó. Quảng bá không phản trắc
với bảo tồn, nếu quảng bá mang sẵn ý thức bảo tồn. Như không thể chấp
nhận các dàn cồng chiêng được điều chỉnh thang âm theo “đồ-rê-mi” của
phím đàn piano, mà phải giữ nguyên thang âm gốc Tây Nguyên: “bố-mẹ-
con-cháu” Mặt khác, các cơ quan chức năng phải đầu tư lớn cho công tác
bảo tồn thuần tuý, bởi một khi UNESCO đã công nhận cồng chiêng Tây
Nguyên là “kiệt tác”, là nghệ thuật đỉnh cao, thì không được phép biến cải.
Và quảng bá, bảo tồn nghệ thuật cồng chiêng không chỉ dừng lại ở các
buổi biểu diễn để mở rộng kiến văn của công chúng. Mà phải đưa vào không
gian học đường, đặc biệt là các trường trung cấp, đại học nghệ thuật, trước
tiên là đại học Tây Nguyên. Nếu không được học, tuổi trẻ Việt Nam không
thể phân biệt cồng khác chiêng thế nào, chứ chưa nói đến việc phân biệt
dàn cồng chiêng các nước khác tổ chức gần như cố định về số lượng trong
khi một dàn cồng chiêng Tây Nguyên có thể từ 2 chiếc đến 15 chiếc. Hoặc
ở các nước khác, người chơi trong dàn cồng chiêng phải ngồi yên tại vị trí cố
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 15

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
định thì ở Việt Nam người chơi luôn di chuyển, và có những động tác uyển
chuyển biểu lộ cảm hứng cá nhân như nghiêng mình, khom lưng
Mở rộng không gian cho nghệ thuật cồng chiêng cũng là tích cực bảo
tồn không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.
2.ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRÊN NỀN DU LỊCH LỄ HỘI
Tuy nhiên để du lịch phát triển, chúng ta cần phải đảm bảo một nguồn
lực- một tài nguyên phong phú nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn,
mang tính đặc thù của địa phương. Bên cạnh những ưu đãi của môi trường
tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, Gia Lai được biết đến là một tỉnh có nguồn
lực phát triển du lịch văn hóa, đặc biệt là bảo tàng, di tích và các hoạt động
lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc của cư dân bản địa.
Chùa Minh Thành - Gia Lai
Là “ngành công nghiệp không khói”, ngành Du lịch đang phát triển với
tốc độ nhanh chóng, đạt hiệu quả cao đối với nền kinh tế của đất nước nói
chung. Chính hoạt động du lịch đã góp phần tôn vinh và khai thác có hiệu
quả các giá trị của di sản văn hóa dân tộc, nó không chỉ tạo ra diện mạo mới
cho các hoạt động văn hóa địa phương mà còn góp phần thu hút nguồn du
khách trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
của nhân dân.
Trong xã hội đương đại, bảo tàng, di tích và lễ hội là những nơi bảo lưu
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và là những minh chứng trực
tiếp, xác thực dễ cảm nhận, đáp ứng được sự tìm hiểu thực tại của khách
tham quan. Gia Lai với sự hiện diện của hai dân tộc bản địa Bahnar và Jrai
có nhiều hoạt động trong đời sống cộng đồng còn bảo lưu được các yếu tố
cổ truyền đặc sắc, thực sự kích thích sự tìm hiểu của du khách.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 16
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Những năm gần đây, Gia Lai đã từng bước thành công trong việc khai
thác các giá trị di sản văn hóa dân tộc bằng con đường phát triển du lịch.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 bảo tàng đang hoạt động, hơn 35 di tích lịch
sử văn hóa, trong đó có 15 di tích được công nhận xếp hạng cấp tỉnh và cấp
quốc gia, cùng hàng chục địa điểm dấu tích khảo cổ mang dấu ấn về xã hội
loài người cổ xưa trên vùng đất này cũng như các hoạt động lễ hội mang
đậm dấu ấn cổ truyền thường xuyên diễn ra trên địa bàn. Tuy nhiên, hiện
nay để việc khai thác và sử dụng nguồn lực di sản văn hóa tốt hơn trong phát
triển du lịch văn hóa, tạo ra một sản phẩm du lịch
đặc thù hấp dẫn khách tham quan chúng ta cần
quan tâm một số vấn đề sau:
Trước hết về cơ sở hạ tầng. Phần lớn các di
tích trên địa bàn tỉnh hiện nay chưa đáp ứng nhu
cầu của khách tham quan, vì vậy cần tập trung
nguồn vốn Trung ương và địa phương, đồng thời
tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức kinh tế- xã
hội và tất cả người dân để từng bước nâng cấp,
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại các khu di tích, tổ chức các lễ hội với quy
mô lớn, các hoạt động trưng bày có chiều sâu tại bảo tàng….
Bản làng Gia LaiCòn các hướng dẫn viên du lịch thì có trình độ ngoại
ngữ phương pháp truyền đạt tốt nhưng lại không nắm rõ giá trị của di tích,
nội dung trưng bày của bảo tàng cũng như các ý nghĩa của hoạt động lễ
hội… do vậy phần nào chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách, đôi lúc
còn làm sai lệch giá trị nguyên gốc. Chính vì thế ngành Du lịch và các ngành
liên quan cần xem xét kỹ lưỡng vấn đề này để vạch ra kế hoạch, hướng đi
thích hợp hơn trong giai đoạn mới. Đồng thời tăng cường quảng bá hình ảnh
bảo tàng, di tích và lễ hội ở địa phương trên các phương tiện truyền thông,
sách, ấn phẩm hoặc có thể cắm biển quảng cáo trên các trục đường chính,
đường đi đến di tích. Nên tổ chức một số dịch vụ văn hóa, ăn uống lành
mạnh, bán những sản phẩm mang đặc trưng văn hóa của địa phương tại khu
di tích, bảo tàng. Không những thế, cần có phòng bán vé theo quy định tại
các di tích tiêu biểu vừa tạo thuận lợi cho du khách vừa tăng thu nhập…

Công ty cổ phẩn Văn hóa-Du lịch cũng đang cùng các nghệ nhân lên kế
hoạch phục dựng “Lễ Pơthi” (bỏ mả) và trình diễn tạc tượng tại Công viên
Văn hóa Đồng Xanh. Công ty cổ phần Dịch vụ - Du lịch chuẩn bị cho phần
trình diễn chỉnh chiêng tại Công viên Diên Hồng. Hai đơn vị này cũng sẽ
phối hợp tổ chức Làng Văn hóa ẩm thực với các món ăn truyền thống đặc
sắc của các dân tộc phục vụ du khách tại Công viên Lý Tự Trọng.
Trong dịp này, “Lễ đâm trâu mừng chiến thắng” cũng sẽ được Công ty
TNHH một thành viên Đặng Phước phục dựng tại Khu Du lịch sinh thái Về
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 17
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Nguồn. Được biết, trong những ngày diễn ra Festival, các khu du lịch nói
trên đều miễn thu vé vào cổng (10.000 đồng- 15.000 đồng/lượt/người) đối
với du khách.
3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN FETIVAL CỒNG CHIÊNG TÂY
NGUYÊN:
Yêu thích hơn cả là tìm hiểu văn hóa truyền thống của các dân tộc bản
địa. “Các nước trong khu vực có những nét văn hóa tương đồng, chẳng hạn
như dựng nhà sàn, đẽo tượng gỗ, chơi chiêng trong lễ hội… Chính vì thế,
đến Gia Lai thấy như được trở về nhà, về quê hương mình. Điều làm thích
thú là người bản địa ở đây rất nhiệt tình và cởi mở. Họ có thể nhảy múa đến
mệt lả, quên ăn. Những điệu vũ và nhạc chiêng của họ luôn có sự mời gọi,
thúc giục rất kín đáo nhưng vô cùng mãnh liệt.
Trong dịp Festival Cồng chiêng Quốc tế năm 2009 tại Gia Lai, dù sự
kiện này chỉ kéo dài 4 ngày nhưng nhiều du khách đã không lỡ dịp để khám
phá vùng đất đỏ cao nguyên này. Nhưng, điều làm cả hai chúng tôi ấn tượng
và vui thích hơn lại chính là những ngày du lịch bụi xuống các huyện phía
Đông của tỉnh theo lời giới thiệu của một người bạn. Ở 2 huyện Kông Chro
và Kbang, nhiều buôn, làng còn giữ được kiến trúc nhà sàn rất hài hòa, đặc
biệt là những mái nhà rông chứng tỏ văn hóa bản địa còn lưu giữ khá tốt.
Khi Festival Cồng chiêng Quốc tế đã cận kề, thì việc thiết lập các tour du

lịch đến với làng, xã là cơ hội để tỉnh ta quảng bá rộng rãi hình ảnh của một
Gia Lai tràn đầy nhựa sống. Đồng thời giúp du khách có thể cảm nhận và
khâm phục được sự phát triển liên tục, lâu dài, từng thời kỳ lịch sử- văn hóa
của con người trên vùng đất này, bởi du lịch là một hình thức trải nghiệm
văn hóa, mà nền tảng là các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở trong
chính mỗi cộng đồng làng xã, hay trong mỗi bản thân con người.
Ngoài văn hóa truyền thống của người bản địa, ngay tại Phố núi, nhiều
du khách cũng tìm được sự thích thú riêng và hài lòng về một thành phố yên
bình Nhưng ngay cả khi Gia Lai tổ chức một sự kiện lớn đến thế thì thành
phố nhỏ này vẫn rất yên bình, không bị “khuấy đảo” như ở thành phố của
tôi. Tối tối, trong sương lạnh, tôi và cộng sự vẫn tìm cho mình được những
góc riêng, yên tĩnh nhâm nhi cà phê ngắm Phố núi về đêm”. Nhiều du khách
đến từ vùng cao phía Bắc, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh hay các tỉnh sông nước
miền Tây lần đầu đến Gia Lai đều có nhiều ấn tượng và tìm thấy cho mình
những cảm xúc riêng trên thành phố cao nguyên này. “Gia Lai có nhiều thế
mạnh, tiềm năng để khai thác du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, đặc biệt là
du lịch buôn làng như một số tỉnh vùng cao Tây Bắc. Nếu có sự đầu tư để
khai thác thế mạnh này, cùng với sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền
thống và sự hiện đại của một đô thị trẻ, chắc chắn Gia Lai sẽ là một trong
những địa chỉ hấp dẫn với du khách trong Năm Du lịch Quốc gia 2011”.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 18
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Tỉnh đang tập trung đẩy mạnh xúc tiến liên kết, hợp tác nhằm phát huy
tiềm năng và thế mạnh ở địa phương, tạo thế phát triển ổn định và bền vững
trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sự liên kết, hợp tác này nhằm thu hút đầu tư
của các nhà doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh bảo đảm các điều kiện về sự
phát triển bền vững trên lĩnh vực kinh doanh du lịch thông qua tổ chức Hiệp
hội du lịch.
Nhiều dự án có quy mô lớn đã được đưa vào danh mục gọi vốn đầu tư,
như khu du lịch Biển Hồ, du lịch thác Phú Cường, du lịch sinh thái hồ Ayun

Hạ, du lịch sinh thái đồi thông Ðăk Pơ Trong đó đã có một số dự án đã
được các nhà đầu tư tiếp cận và tiến hành các bước khảo sát, lập dự án. Tỉnh
cũng đang thực hiện nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xúc tiến,
quảng bá du lịch thông qua việc tham gia các sự kiện và Hội chợ du lịch
thương mại hằng năm với các địa phương trong nước, mở rộng mối quan hệ
hợp tác và hội nhập du lịch quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp triển
khai thương mại điện tử trong kinh doanh du lịch.
4. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH THAM GIA
VÀO LỄ HỘI:
Tuy nhiên để du lịch phát triển, chúng ta cần phải đảm bảo một nguồn
lực- một tài nguyên phong phú nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn,
mang tính đặc thù của địa phương. Bên cạnh những ưu đãi của môi trường
tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, Gia Lai được biết đến là một tỉnh có nguồn
lực phát triển du lịch văn hóa, đặc biệt là bảo tàng, di tích và các hoạt động
lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc của cư dân bản địa.
Là “ngành công nghiệp không khói”, ngành Du lịch đang phát triển với
tốc độ nhanh chóng, đạt hiệu quả cao đối với nền kinh tế của đất nước nói
chung. Chính hoạt động du lịch đã góp phần tôn vinh và khai thác có hiệu
quả các giá trị của di sản văn hóa dân tộc, nó không chỉ tạo ra diện mạo mới
cho các hoạt động văn hóa địa phương mà còn góp phần thu hút nguồn du
khách trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
của nhân dân.
Trong xã hội đương đại, bảo tàng, di tích và lễ hội là những nơi bảo lưu
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và là những minh chứng trực
tiếp, xác thực dễ cảm nhận, đáp ứng được sự tìm hiểu thực tại của khách
tham quan. Gia Lai với sự hiện diện của hai dân tộc bản địa Bahnar và Jrai
có nhiều hoạt động trong đời sống cộng đồng còn bảo lưu được các yếu tố
cổ truyền đặc sắc, thực sự kích thích sự tìm hiểu của du khách.
Những năm gần đây, Gia Lai đã từng bước thành công trong việc khai
thác các giá trị di sản văn hóa dân tộc bằng con đường phát triển du lịch.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 bảo tàng đang hoạt động, hơn 35 di tích lịch
sử văn hóa, trong đó có 15 di tích được công nhận xếp hạng cấp tỉnh và cấp
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 19
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
quốc gia, cùng hàng chục địa điểm dấu tích khảo cổ mang dấu ấn về xã hội
loài người cổ xưa trên vùng đất này cũng như các hoạt động lễ hội mang
đậm dấu ấn cổ truyền thường xuyên diễn ra trên địa bàn. Tuy nhiên, hiện
nay để việc khai thác và sử dụng nguồn lực di sản văn hóa tốt hơn trong phát
triển du lịch văn hóa, tạo ra một sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn khách
tham quan chúng ta cần quan tâm một số vấn đề sau:
Trước hết về cơ sở hạ tầng. Phần lớn các di tích trên địa bàn tỉnh hiện
nay chưa đáp ứng nhu cầu của khách tham quan, vì vậy cần tập trung nguồn
vốn Trung ương và địa phương, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các tổ
chức kinh tế- xã hội và tất cả người dân để từng bước nâng cấp, đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng tại các khu di tích, tổ chức các lễ hội với quy mô lớn, các
hoạt động trưng bày có chiều sâu tại bảo tàng….
Còn các hướng dẫn viên du lịch thì có trình độ ngoại ngữ phương pháp
truyền đạt tốt nhưng lại không nắm rõ giá trị của di tích, nội dung trưng bày
của bảo tàng cũng như các ý nghĩa của hoạt động lễ hội… do vậy phần nào
chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách, đôi lúc còn làm sai lệch giá trị
nguyên gốc. Chính vì thế ngành Du lịch và các ngành liên quan cần xem xét
kỹ lưỡng vấn đề này để vạch ra kế hoạch, hướng đi thích hợp hơn trong giai
đoạn mới. Đồng thời tăng cường quảng bá hình ảnh bảo tàng, di tích và lễ
hội ở địa phương trên các phương tiện truyền thông, sách, ấn phẩm hoặc có
thể cắm biển quảng cáo trên các trục đường chính, đường đi đến di tích. Nên
tổ chức một số dịch vụ văn hóa, ăn uống lành mạnh, bán những sản phẩm
mang đặc trưng văn hóa của địa phương tại khu di tích, bảo tàng. Không
những thế, cần có phòng bán vé theo quy định tại các di tích tiêu biểu vừa
tạo thuận lợi cho du khách vừa tăng thu nhập…
Sau khi không gian văn hóa cồng chiêng được UNESCO công nhận là di

sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (ngày 25/11/2005), bên cạnh
việc ý thức của người dân về giữ gìn giá trị văn hóa độc đáo này được nâng
lên, ngành Văn hóa-Thông tin trước đây và Ngành Văn hóa, Thể thao và Du
lịch (VHTTDL) Gia Lai hiện nay đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm bảo
tồn di sản văn hóa cồng chiêng trên địa bàn toàn tỉnh, đặc biệt là tăng cường
các giải pháp nhằm đưa văn hóa cồng chiêng vào môi trường du lịch.
Trên thực tế, các hoạt động nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng
chiêng ở tỉnh Gia Lai đã được triển khai từ khá sớm. Hàng chục năm qua,
Gia Lai đã tổ chức được các cuộc liên hoan cồng chiêng theo định kỳ: 2 năm
một lần ở cấp xã và huyện, 4 năm một lần ở cấp tỉnh. Qua các cuộc liên
hoan, tỉnh đã thu hút được đông đảo các nghệ nhân tham gia vào hoạt động
trình diễn và đồng bào các dân tộc Jrai, Bahnar, Kinh, Mường… đến nơi
diễn ra liên hoan để thưởng thức, cổ vũ ngày càng nhiều. Đây có thể coi là
một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm duy trì thường xuyên việc giao
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 20
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
lưu, truyền dạy cồng chiêng tại cộng đồng và kích thích khả năng sáng tạo,
học hỏi của nghệ nhân.
Năm 2006 tỉnh đã giành 200 triệu từ nguồn kinh phí của chương trình
mục tiêu Quốc gia về văn hóa để mua cồng chiêng trang bị cho 17 làng
không còn cồng chiêng. Sau khi tham khảo ý kiến của các cộng đồng, Gia
Lai không đặt chiêng mới mà điều tiết từ những vùng còn nhiều cồng chiêng
sang những vùng, những làng không còn cồng chiêng và giao cho các đội
cồng chiêng của làng quản lý những bộ cồng chiêng mới được trang bị gắn
với trách nhiệm phục hồi những sinh hoạt văn hóa có sử dụng cồng chiêng.
Ngành cũng chỉ đạo Bảơo tàng tỉnh tiếp tục nghiên cứu và sưu tầm chiêng
cổ. Trong các ngày từ 29-31/10/2007, thực hiện chủ trương của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản Không gian văn
hoá cồng chiêng sau khi được Unesco công nhận, UBND tỉnh Gia Lai và Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức cuộc “Gặp gỡ các nghệ nhân chỉnh

chiêng của các tỉnh Tây nguyên lần thứ nhất” tại Thành phố Pleiku. Đây là
một hoạt động rất có ý nghĩa để các tỉnh rà soát lại số lượng nghệ nhân chỉnh
chiêng cùng vốn âm nhạc cồng chiêng cổ của mình.
Hướng dẫn viên du lịch thì có trình độ ngoại ngữ phương pháp truyền
đạt tốt nhưng lại không nắm rõ giá trị của di tích, nội dung trưng bày của
bảo tàng cũng như các ý nghĩa của hoạt động lễ hội… do vậy phần nào chưa
đáp ứng được nhu cầu của du khách, đôi lúc còn làm sai lệch giá trị nguyên
gốc. Chính vì thế ngành Du lịch và các ngành liên quan cần xem xét kỹ
lưỡng vấn đề này để vạch ra kế hoạch, hướng đi thích hợp hơn trong giai
đoạn mới. Đồng thời tăng cường quảng bá hình ảnh bảo tàng, di tích và lễ
hội ở địa phương trên các phương tiện truyền thông, sách, ấn phẩm hoặc có
thể cắm biển quảng cáo trên các trục đường chính, đường đi đến di tích. Nên
tổ chức một số dịch vụ văn hóa, ăn uống lành mạnh, bán những sản phẩm
mang đặc trưng văn hóa của địa phương tại khu di tích, bảo tàng. Không
những thế, cần có phòng bán vé theo quy định tại các di tích tiêu biểu vừa
tạo thuận lợi cho du khách vừa tăng thu nhập
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 21
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
C .KẾT LUẬN:
I.KẾT LUẬN:
1. Kết quả đạt được của đề tài:
Đề tài này gồm 3 phần và phần hai là phần nội dung với 3 chương chủ
yếu . Nó đạt được nhưng yêu cầu sau :
Đề tài này gồm 3 phần và phần 2 là phần nội dung và 3 chương chủ yếu.
Nó đạt được những yêu cầu sau:
Một là hệ thống theo trình độ tư duy lôgic những vấn đề từ xưa đến nay
được đề cập đến đó là phần lịch sử hình thành và phát triển của nền văn hóa
tỉnh Gía Lai.
Hai là, khái quát các hiểu biết hệ thống, rút ra một số đặc trưng về
“không gian văn hóa công chiêng Tây Nguyên”. Các giá trị nhân văn, sự

hình thành gây dựng kiến trúc đặc biệt về xây dựng vật liệu và cách bảo tồn
bảo tạo lớn. Duy trì và phát triển bảo tồn đưa được nhiều người đến thăm
quan. Giới thiệu cho họ về những nét đặc sắc và cổ truyền dân gian của
những con người nơi đây. Đặc biệt nhằm một mục đích quan trọng tăng và
phát triển thêm du lịch ở tỉnh Gia Lai góp phần là cho Gia Lai ngày càng
phát triển và giàu mạnh về du lịch hơn trở thành một thành phố về du lịch
nhân văn.
Ba là, Mở rộng không gian cho nghệ thuật cồng chiêng cũng là tích cực
bảo tồn không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên.Quảng bá và xúc tiến
nó nhằm phát triển du lịch tinh Gia Lai.
2. Hạn Chế Của Bài
Ngoài những kết quả đã đạt được củ đề tài thì bên cạnh đó vẫn còn tồn
tại những hạn chế.Như đã nói phong tục tập quán của dân tộc thái là nói đến
những tập tục phong phú đặc trưng của dân tộc này,nhưng trong đề tài chỉ đề
cập những phong tục tập quán chính còn một số những tập quán nữa chưa
khai thác hêt được chưa được đề cập tới cũng do vậy mà đề tài chỉ có thể
tìm hiểu được phần nào đó của dân tộc đặc biệt này
II.KIẾN NGHỊ:
Tài nguyên nhân văn của mảnh đất văn hoá Gia Lai đa dạng và phong
phú số lượng lớn. có loại hình phân bố tập trung và trực quan có loại tiềm ẩn
hoặc biểu hiện một cách gián tiếp thông qua các loại hình khách đặc biệt là
các loại văn hoá phi vật thể không thể nắm bắt được do vây công tác bảo tồn
điều tra phân loại di sản và đạt ra kế hoạch baot tồn phát huy trong việc bảo
tồn các di sản quý giá kế thừa các tài sản văn hoá từ nghệ nhân cao tuổi còn
được coi trọng cấp bách và kịp thời.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 22
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Về mội trường xã hội và mội trường văn hoáGia Lai cũng cần được
quan tâm cần cho mọi người biết đến và trở thành một người công dân của
môth thành phố văn hoá du lịch.

Nhằm có hiệu quả thu hút khách du lịch vốn đầu tue nguồn nhân lục để
phát triển nền kinh tế không riêng gì của tỉnh Gia Lai mà của cả đất nước.
Cần gắn kết việc phát triển du lịch với việc xây dựng một môi trường
sinh thái, nhân văn trong đời sống cộng đồng ở các buôn làng. Khuyến khích
từng cá nhân phát huy vai trò là chủ thể của mọi sự sáng tạo các giá trị văn
hóa nhằm hình thành nên các sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn mang tính
đặc thù của địa phưong.
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 23
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 24
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
SVTH: Đặng Thị Thanh Trâm 25

×