Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Đánh giá giá trị cảnh quan và giá trị phi sử dụng của khu du lịch sinh thái suối mỡ, lục nam, bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.72 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ NGUYỆT
“ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CẢNH QUAN VÀ
GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG CỦA KHU DU LỊCH SINH THÁI
SUỐI MỠ - HUYỆN LỤC NAM - TỈNH BẮC GIANG”
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Thái Nguyên - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ NGUYỆT
“ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CẢNH QUAN VÀ
GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG CỦA KHU DU LỊCH SINH THÁI
SUỐI MỠ - HUYỆN LỤC NAM - TỈNH BẮC GIANG”
Chuyên ngành : Khoa học Môi trường
Mã số ngành : 60 44 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Người hướng dẫn khoa học:GS.TS. NGUYỄN THẾ ĐẶNG
CHỮ KÝ PHÒNG
QLĐTSĐH
CHỮ KÝ KHOA
CHUYÊN MÔN
CHỮ KÝ GIÁO VIÊN
HƯỚNG DẪN
Thái Nguyên – 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy tại các Khoa của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, những người
đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi thực hiện tốt
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Nguyễn Thế Đặng đã tận tình


hướng dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Mặc dù trong quá
trình thực hiện luận văn có
giai đoạn không được thuận lợi nhưng những gì thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo
đã cho tôi nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các cán cộ, công nhân viên trong
Ban Quản lý khu DLST Suối Mỡ đã tận tình giúp đỡ trong việc tham gia trả
lời phiếu phỏng vấn, cũng như góp ý về những ý kiến chuyên môn.
Sau cùng tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn. Do
thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận
văn còn nhiều thiếu, rất mong nhận được ý kiến góp ý của Thầy/Cô và các
anh chị học viên.
Học viên thực hiện luận văn
Nguyễn Thị Nguyệt
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Học viên thực hiện Luận văn
Nguyễn Thị Nguyệt
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BNN-PTNT
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
BQL
Ban Quản lý
BTTN
Bảo tồn thiên nhiên

CVM
Định giá ngẫu nhiên
DLST
Du lịch sinh thái
ĐDSH
Đa dạng sinh học
HST
Hệ sinh thái
IUCN
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
KT - XH
Kinh tế - Xã hội
NXB
Nhà xuất bản
OLS
Bình phương nhỏ nhất
SĐVN
Sách đỏ Việt Nam
TCM
Chi phí du lịch
UBND
Ủy ban nhân dân
VQG
Vườn quốc gia
VR
Tỷ lệ du khách mỗi vùng
VSMT
Vệ sinh môi trường
WTP
Sự bằng lòng chi trả

DANH MỤC CÁC HÌNH
TÊN HÌNH
TRANG
Hình 1.1: Sơ đồ tổng giá trị kinh tế của Khu DLST
13
Hình 2.1: Đường cầu du lịch
26
Hình 3.1: Sơ đồ vị trí Khu DLST Suối Mỡ
30
Hình 3.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ban quản lý Khu DLST Suối Mỡ
41
Hình 3.3: Biểu đồ đường cầu giải trí
54
Hình 3.4: Biều đồ thể hiện các hoạt động chính của du khách
57
Hình 3.5: Biều đồ thể hiện một số điểm du khách chưa
57
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG
TRANG
Bảng 3.1: Thảm thực vật rừng hiện trạng sử dụng đất khu Suối Mỡ
38
Bảng 3.2: Thành phần thực vật
39
Bảng 3.3: Thành phần loài động vật có xương sống trên cạn
40
Bảng 3.4: Lượng khách và số phí thu được trong giai đoạn 2009 – 2013
43
Bảng 3.5: Số công dọn VSMT và số cây trồng được của các năm
44

Bảng 3.6: Tỷ lệ du khách theo vùng xuất phát
48
Bảng 3.7: Phương tiện du khách sử dụng đến khu DLST Suối Mỡ
49
Bảng 3.8: Chi phí đi lại của du khách
50
Bảng 3.9: Tổng hợp chi phí của du khách theo các vùng
51
Bảng 3.10: Kết quả ước lượng hệ số của hàm cầu
53
Bảng 3.11: Tỷ lệ du khách sẵn sàng chi trả cho bảo tồn
54
Bảng 3.12: Mức chi trả trung bình cho bảo tồn của du khách
55
Bảng 3.13: Đặc điểm kinh tế - xã hội của du khách
55
Bảng 3.14: Số lượng du khách trong mỗi nhóm
56
Bảng 3.15: Mô tả các biến của mô hình
58
Bảng 3.16: Hệ số ước lượng trong phân tích các yếu tố tác động đến WTP
59
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nguyên cứu của đề tài 2
2.1. Mục tiêu tổng quát 2
2.2. Mục tiêu cụ thể 2
3. Ý nghĩa của đề tài 2
3.1. Ý nghĩa khoa học 2

3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Chương 1:TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Một số vấn đề cơ bản về Du lịch sinh thái 4
1.1.1. Khái niệm về Du lịch sinh thái 4
1.1.2. Đặc trưng của DLST 5
1.2. Xác định giá trị của DLST 8
1.2.1. Sự cần thiết định giá giá trị của DLST 8
1.2.2. Tổng giá trị kinh tế của một khu Du lịch sinh thái 9
1.3. Tình hình và những nghiên cứu về DLST trên Thế giới và ở Việt Nam 14
1.3.1. Tình hình và những nghiên cứu về DLST trên Thế giới 14
1.3.2. Tình hình và những nghiên cứu về DLST ở Việt Nam 16
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 21
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 21
2.2. Nội dung nghiên cứu 21
2.2.1. Khái quát về Khu DLST Suối Mỡ 21
2.2.2. Đánh giá kết quả triển khai Khu DLST Suối Mỡ giai đoạn 2009 - 201321
2.2.3. Xác định giá trị cảnh quan của Khu DLST Suối Mỡ 21
2.2.4. Xác định giá trị phi sử dụng của Khu DLST Suối Mỡ 21
2.2.5. Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa
hoạt động du lịch và hoạt động bảo tồn 22
2.3. Phương pháp nghiên cứu 22
2.3.1. Phương pháp điều tra, phỏng vấn 22
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu 22
2.3.3. Phương pháp chi phí du lịch (TCM - Travel Cost Method) 22
2.3.3.1. Mô hình lý thuyết hàm chi phí du lịch 23
2.3.3.2. Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch 24
2.3.4. Phương pháp định giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method - CVM) 26
2.3.4.1. Mô hình lý thuyết về định giá ngẫu nhiên 27

2.3.4.2.Các bước tiến hành định giá ngẫu nhiên 28
2.3.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 29
Chương 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 30
3.1. Khái quát về Khu DLST Suối Mỡ 30
3.1.1. Vị trí địa lý 30
3.1.2. Địa hình, địa mạo 30
3.1.3. Khí hậu thủy văn 31
3.1.4. Địa chất đất đai 31
3.1.5. Dân số, lao động, việc làm 32
3.1.6. Sản xuất nông – lâm nghiệp 33
3.2. Đánh giá kết quả triển khai Khu DLST Suối Mỡ
giai đoạn 2009 - 2013 33
3.2.1. Thực trạng phát triển du lịch tại Khu DLST Suối Mỡ 33
3.2.1.1. Tiềm năng du lịch sinh thái Suối Mỡ 33
3.2.1.2. Đa dạng sinh học 37
3.2.1.3. Cơ sở vật chất 42
3.2.1.4. Tình hình phát triển du lịch tại Khu DLST Suối Mỡ giai đoạn 2009-
2013 42
3.2.2. Tác động của du lịch sinh thái lên các yếu tố sinh thái tự nhiên 43
3.2.2.1. Tác động tích cực 43
3.2.2.2. Tác động tiêu cực 44
3.2.3. Tác động của du lịch lên hệ sinh thái xã hội - nhân văn 45
3.2.3.1. Tác động tích cực 45
3.2.3.2. Tác động tiêu cực 46
3.3. Xác định giá trị cảnh quan của Khu DLST Suối Mỡ 47
3.3.1. Phân vùng khách du lịch 47
3.3.2. Xác định chi phí du lịch 49
3.3.3. Xây dựng hàm cầu 52
3.4. Xác định giá trị phi sử dụng của Khu DLST Suối Mỡ 54
3.4.1. Xác định sự bằng lòng chi trả 54

3.4.2. Đề xuất mức phí vào cổng của Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ 55
3.4.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội của du khách 55
3.4.4. Đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch, sự hài lòng của du khách 56
3.4.5. Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích các yếu tố tác động đến WTP58
3.5.1. Định hướng phát triển DLST Suối Mỡ 61
3.5.2. Giải phát phát triển DLST Suối Mỡ 62
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 65
1. Kết luận 65
2. Đề nghị 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch sinh thái (DLST) được xem như là một hướng đi mới, một xu thế
phát triển mới và chiếm được sự quan tâm của xã hội, bởi đó là loại hình du lịch
thiên nhiên có trách nhiệm hỗ trợ các mục tiêu bảo tồn tự nhiên, các giá trị văn hóa
bản địa, phát triển cộng đồng mà vẫn bảo đảm nguồn lợi kinh tế. Du lịch sinh thái
phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu ngày một tăng của khách du lịch, của cộng đồng.
Nhu cầu này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển không ngừng của xã hội, đảm bảo
về tổng thể một tương lai phát triển lâu dài của hệ sinh thái, với tư cách như là một
ngành kinh tế. Bên cạnh xu thế phát triển du lịch sinh thái do nhu cầu khách quan,
xu thế này còn không nằm ngoài xu thế chung về phát triển xã hội của loài người
khi các giá trị tài nguyên ngày càng bị suy thoái, khai thác cạn kiệt.
Việt Nam là một đất nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm
hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa bán cầu Bắc, thiên về chí tuyến hơn là
phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo nên một nền nhiệt độ cao, độ ẩm không khí cao, mưa
nhiều. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.000 km, lưng dựa vào dãy Trường
Sơn. Chính các điều kiện đó đã mang lại cho Việt Nam một hệ động thực vật vô
cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Kết hợp vào đó có rất nhiều nét văn hoá dân
tộc đặc sắc, đậm đà. Những yếu tố đó đã tạo nên cho Việt Nam một lợi thế to lớn

trong việc phát triển loại hình du lịch sinh thái. Cùng với việc nỗ lực bảo tồn, khai
thác phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên và văn hoá phục vụ phát triển kinh
tế thông qua du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Với tư cách là một ngành kinh tế
mũi nhọn - Du lịch trong đó có du lịnh sinh thái ngày càng khẳng định vị thế của
mình đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Du lịch sinh thái ở Việt Nam
cũng đó có những đóng góp lớn cho sự phát triển cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi
trường. Nhờ phát triển du lịch sinh thái mà đồng bào một số dân tộc, cư dân sinh
sống trong vùng đệm các vườn quốc gia, khu bảo tồn có được việc làm, nâng cao
mức sống, các lễ hội, tập tục, ngành nghề thủ công được bảo tồn và phát triển.
Trong những năm gần đây các hiện tượng hiệu ứng nhà kính, ELNino… liên
tục xảy ra và theo báo cáo của đài khí tượng thủy văn thì tình hình môi trường nói
2
chung đang là vấn đề toàn cầu quan tâm. Nền kinh tế thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng trong những năm qua đang trên đà phát triển nhanh. Việc phát triển
du lịch phải gắn với bảo vệ môi trường, phát triển theo hướng bền vững. Bên cạnh
đó thì môi trường cuộc sống của con người đặc biệt là tại các thành phố lớn ngày
càng trở lên ngột ngạt do đó theo quy luật tâm lý, con người có nhu cầu tìm về
những nơi có không khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi.
Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự nhất trí của Ban giám hiệu Nhà trường
và Phòng Quản lý đào tạo Sau đại học - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
dưới sự hướng dẫn của thầy giáo GS.TS. Nguyễn Thế Đặng, chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài “Đánh giá giá trị cảnh quan và giá trị phi sử dụng của Khu Du lịch
sinh thái Suối Mỡ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục tiêu nguyên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được giá trị cảnh quan và giá trị phi sử dụng của Khu Du lịch sinh
thái Suối Mỡ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm kết hợp hài hoà giữa hoạt động du lịch và hoạt động bảo tồn.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng hàm cầu và xác định giá trị cảnh quan của Khu DLST Suối Mỡ.

- Đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch, sự hài lòng của du khách của Khu du
lịch sinh thái Suối Mỡ.
- Đánh giá sự bằng lòng chi trả (WTP) của du khách cho hoạt động bảo tồn
và đề xuất mức phí vào cổng của Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa hoạt động du lịch và
hoạt động bảo tồn.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đánh giá giá trị cảnh quan và giá trị phi sử dụng của Khu Du lịch sinh thái
Suối Mỡ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Xác định được chất lượng dịch vụ du lịch, sự hài lòng của du khách của
Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ.
- Xác định được sự bằng lòng chi trả (WTP) của du khách cho hoạt động bảo
tồn.
- Đề xuất mức phí vào cổng của Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ .
- Đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa hoạt động du lịch và
hoạt động bảo tồn.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số vấn đề cơ bản về Du lịch sinh thái
1.1.1. Khái niệm về Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có nguồn gốc từ du lịch thiên nhiên, gắn
liền giữa môi trường tự nhiên với cộng đồng để phát triển bền vững. Trong suốt
những thập kỉ gần đây, mối lo ngại của công chúng về môi trường ngày càng tăng lên
thì cũng là lúc DLST được quan tâm tới nhiều hơn. Đặc biệt, sau hội nghị thượng
đỉnh về môi trường tổ chức tại Thụy Điển năm 1972, nhưng nó chỉ thực sự được
nghiên cứu vào thập kỉ 80 của thế kỷ XX. DLST được Hector Cebalos Lascurain -

một nhà nghiên cứu tiên phong về loại hình du lịch này đưa ra định nghĩa đầu tiên
vào năm 1987: “DLST là điểm du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi,
với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới
hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá”[20].
Theo Megan Epler Wood (1991): “DLST là du lịch đến các khu vực còn
tương đối hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường và văn hóa mà
không làm thay đổi sự toàn vẹn của các HST. Đồng thời tạo những cơ hội về kinh tế
để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích cho người dân địa phương”[20].
Theo Allen (1993): “DLST được phân biệt với các loại hình du lịch thiên
nhiên khác về mức độ giáo dục cao với môi trường và sinh thái, thông qua những
hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. DLST tạo mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên hoang dã cùng với ý thức được giáo dục để biến bản thân du khách thành
những người đi đầu trong công tác động bảo vệ môi trường. Phát triển DLST sẽ giảm
thiểu tác động của khách du lịch đến văn hóa và môi trường, đảm bảo cho địa
phương được hưởng nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên chính cho du lịch mang lại và
chú trọng đến những đóng góp tài nguyên thiên nhiên chính cho việc bảo tồn thiên
nhiên”[20].
Định nghĩa của hiệp hội DLST quốc tế: “DLST là việc đi lại có trách nhiệm
tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho
người dân địa phương”.
5
* Tại Việt Nam
DLST mới được nghiên cứu ở Việt Nam vào giữa thập kỷ 90 của thế kỉ XX.
Năm 1995, dự án thí điểm đầu tiên nằm trong khuôn khổ hợp tác Quốc tế về nghiên
cứu, lập quy hoạch cho những cơ hội phát triển du lịch thám hiểm thiên nhiên ở Việt
Nam giữa ta và các nhà chuyên môn New Zealand.
Khái niệm về DLST ở Việt Nam được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau và
còn nhiều điểm chưa thống nhất, nhiều cuộc hội thảo chuyên đề được tổ chức với sự
tham gia của các nhà nghiên cứu trong và ngoài ngành đã đưa ra nhiều khái niệm
khác nhau về DLST. Trong hội thảo Quốc gia về “Xây dựng chiến lược quốc gia về

phát triển DLST ở Việt Nam” năm 1999, đi đến thống nhất về quan niệm DLST như
sau: “DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo
dục và môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự
tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”[17].
1.1.2. Đặc trưng của DLST
Phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng đều thực hiện dựa trên cơ sở
khai thác và sử dụng tiềm năng về du lịch tự nhiên và du lịch nhân văn kèm theo cơ sở
hạ tầng và dịch vụ. Những sản phẩm du lịch được hình thành từ các tiềm năng về tài
nguyên đem lại lợi ích cho xã hội [1]. Vì vậy DLST vừa mang những đặc trưng
chung của du lịch lại vừa mang đặc trưng riêng của mình:
* Tính đa ngành: đối tượng được khai thác để phục vụ du lịch nói
chung
và DLST nói riêng, đồng thời thu nhập của xã hội từ du lịch mang lại nguồn thu cho
nhiều ngành kinh tế khác thông qua sản phẩm du lịch dịch vụ cung cấp cho khách du
lịch như điện nước, nông sản, hàng hóa
* Tính đa thành phần: được thể hiện ở sự đa dạng của các bên tham gia vào
DLST, trong đó có cả khách du lịch, những người phục vụ trong ngành du lịch, cộng
đồng địa phương, các tổ chức cá nhân và tổ chức phi chính phủ…
* Tính đa mục tiêu: DLST mang lại nhiều lợi ích về nhiều khía cạnh như bảo tồn
tự nhiên, cảnh quan lịch sử - văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống của khách du
lịch và người tham gia hoạt động du lịch, mở rộng giao lưu văn hóa, kinh tế, nâng cao
ý thức trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội.
6
* Tính liên vùng: giữa các tuyến điểm du lịch với mộtquần thể các
điểm
du lịch trong phạm vi một khu vực, một quốc gia hay giữa các quốc gia.
* Tính mùa vụ: mọi hoạt động du lịch nói chung đều mang tính mùa vụ, làm cho
cường độ hoạt động du lịch tập trung cao vào một thời điểm nào đó trong năm, đặc
biệt là du lịch biển, giải trí cuối tuần hoặc thể thao theo mùa. Tính mùa vụ hình thành
do nhiều yếu tố vừa tác động riêng rẽ vừa tác động đồng thời.

* Tính chi phí: phụ thuộc vào mục đích đi du lịch của du khách đó là đi du lịch
để hưởng thụ sản phẩm du lịch chứ không phải đi du lịch để kiếm tiền.
* Tính xã hội: thu hút được sự tham gia của đại bộ phận trong xã hội vào
hoạt động du lịch một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Theo Dowling, sự khác biệt giữa DLST với các loại hình du lịch khác là ở 5
đặc trưng sau:
- Khi DLST phát triển trên địa bàn phong phú về tự nhiên và văn hóa, đối
tượng của DLST là những khu vực hấp dẫn về tự nhiên và văn hóa bản địa. Đặc
biệt, những khu tự nhiên còn tương đối hoang sơ, ít bị tác động. Vì vậy hoạt động
DLST thích hợp với các khu bảo tồn tự nhiên, VQG.
- Giáo dục cao về môi trường: DLST giúp con người tiếp cận gần gũi hơn với
các vùng tự nhiên, các khu bảo tồn, nơi có giá trị cao về ĐDSH. Giáo dục môi trường
trong DLST có tác dụng làm thay đổi thái độ của du khách, cộng đồng địa phương
và ngành du lịch đối với giá trị bảo tồn. Giáo dục môi trường trong DLST còn được
coi là công cụ quản lý hữu hiệu tạo lên sự bền vững cho các khu bảo tồn tự nhiên. Do
đó, DLST là chìa khóa cân bằng giữa sự phát triển du lịch với bảo vệ môi trường khi
mà hoạt động du lịch ngày càng gây áp lực lớn tới môi trường.
- Đảm bảo tính bền vững về sinh thái và hỗ trợ bảo tồn: DLST phát triển
trên môi trường phong phú về tự nhiên nên hình thức và mức độ sử dụng cho các hoạt
động du lịch phải được duy trì và quản lý cho tính bền vững của HST và ngành du
lịch. Đặc trưng này thể hiện ở quy mô nhóm khách tham quan thường có số lượng
nhỏ, yêu cầu sử dụng tiện nghi thấp. Các hoạt động trong DLST thường gây tác động
ít đến môi trường và khi DLST hình thành đã nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ
các nguồn tài nguyên, du khách sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường, thúc
7
đẩy hoạt động bảo tồn và đảm bảo sự phát triển bền vững.
- Cung cấp kinh nghiệm du lịch với chất lượng cao cho du khách: Nâng cao hiểu
biết và kinh nghiệm du lịch cho du khách, đó là sự tồn tại của ngành du lịch đặc biệt
là DLST. Vì vậy các dịch vụ du lịch trong DLST tập trung vào để nâng cao nhận
thức và kinh nghiệm du lịch hơn là dịch vụ cho nhu cầu tiện nghi.

- Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia và hưởng lợi ích từ hoạt
động du lịch. DLST cải thiện đời sống, phát triển thêm lợi ích cho cộng đồng địa
phương trên cơ sở về kiến thức, kinh nghiệm thực tế để người dân có khả năng tham gia
vào việc quản lý, vận hành dịch vụ DLST. Đây cũng chính là cách để người dân trở
thành những người hỗ trợ bảo tồn tích cực bởi họ chính là những người chủ sở hữu
các nguồn tài nguyên tại địa phương. Khi đã thu hút được sự quan tâm của người dân
địa phương và trao cho họ những quyền lợi sẽ giúp cho các nhà quản lý trong công
tác bảo vệ tài nguyên du lịch. Bên cạnh đó DLST sẽ tạo cơ hội việc làm cho người
dân cũng như các sản phẩm của địa phương phục vụ du lịch. Giải quyết được vấn đề
việc làm
cũng chính là giải quyết được sức ép của cộng đồng địa phương lên môi
trường, giảm dần việc lệ thuộc quá mức vào khai thác tự nhiên đồng thời nhận thức về
giá trị của môi trường được nâng cao.
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động DLST
* Có hoạt động diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường qua đó tạo ý
thức tham gia vào các hoạt động bảo tồn, giảm thiểu các tác động tiêu cực[1].
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động DLST đảm bảo sự
cân bằng giữa phát triển du lịch và bảo vệ môi trường, tạo ra sự khác biệt nổi bật
giữa DLST với các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên khác. Khi tham gia DLST, du
khách được cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm và thông tin đầy đủ nhằm nâng
cao sự tôn trọng của du khách với môi trường tự nhiên. Từ đó du khách không chỉ
được hiểu biết về giá trị của môi trường tự nhiên mà còn hiểu biết về văn hóa bản địa.
Với những hiểu biết đó, thái độ cư xử của du khách sẽ thay đổi, được thể hiện
bằng những nỗ lực tích cực hơn trong hoạt động bảo tồn và phát triển những giá trị
tự nhiên, sinh thái và văn hóa khu vực.
* Bảo vệ môi trường và duy trì HST.
8
DLST là mục tiêu hàng đầu của hoạt động du lịch, bởi sự bảo tồn của DLST
gắn liền với môi trường tự nhiên và các HST điển hình. Sự xuống cấp của môi trường
tự nhiên, sự suy thoái các HST đồng nghĩa với sự đi xuống của DLST. Với nguyên

tắc này, mọi hoạt động DLST sẽ phải được quản lý chặt chẽ để giảm thiểu tác động
tới môi trường, một phần thu nhập từ hoạt
động DLST sẽ được dùng để đầu tư
thực hiện các giải pháp bảo vệ môi
trường và duy trì sự phát triển các HST.
* Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng.
Các giá trị văn hóa bản địa là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời các giá
trị môi trường của HST ở một không gian cụ thể. Sự xuống cấp hoặc thay đổi tập tục,
sinh hoạt văn hóa truyền thống của cộng đồng địa phương, dưới tác động nào đó sẽ
mất đi sự cân bằng sinh thái tự nhiên vốn có của khu vực. Vì vậy, hậu quả của quá trình
làm thay đổi HST sẽ tác động trực tiếp đến DLST. Việc tôn trọng, bảo vệ và phát
huy bản sắc văn hóa cộng đồng địa phương có ý nghĩa quan trọng và là quá trình
không thể thiếu trong hoạt động của DLST.
* Tạo cơ hội việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.
Đây vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu hướng tới của DLST, bởi phần
lớn các
hoạt động du lịch khác đều ít mang lại lợi ích cho người dân địa
phương, điều
này dẫn tới sự bất bình đẳng trong xã hội. Tuy nhiên, DLST lại
đặc biệt quan tâm tới
việc huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng địa
phương vào hoạt động DLST,
cùng chia sẻ lợi nhuận thu được nhằm cải thiện đời sống của người dân nơi đó. Cộng
đồng địa phương là những người am hiểu các điều kiện cũng như tài nguyên tại khu
vực đó nên họ có thể là những hướng dẫn viên, người cung cấp các dịch vụ cho
DLST, bán hàng lưu niệm cho khách, người tuyên truyền và thực hiện công tác bảo
tồn…Hơn nữa khi người dân tham gia công tác quy hoạch, quản lý DLST, họ sẽ
đóng góp nhiều ý kiến bổ ích cho những người làm du lịch. Ngược lại, nếu không có
sự ủng hộ của người dân thì công tác bảo tồn sẽ không có hiệu quả.
1.2. Xác định giá trị của DLST

1.2.1. Sự cần thiết định giá giá trị của DLST
Định giá giá trị của một DLST hay khu bảo tồn là công việc khó khăn song
có ý nghĩa quan trọng và đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là
9
việc sử dụng các công cụ kỹ thuật nhằm lượng giá giá trị bằng tiền của các tài sản
môi trường là các DLST làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách về khai thác, sử
dụng và quản lý DLST[6].
Ở Việt Nam, việc định giá giá trị tài sản môi trường của một DLST hay khu
bảo tồn thiên nhiên còn mới mẻ song nếu thực hiện được sẽ có ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, Nhà nước đang thực hiện đầu tư rất lớn bằng ngân sách cho hoạt
động bảo tồn các hệ sinh thái cảnh quan DLST song lợi ích thu được mới chỉ được
nhìn nhận định tính. Lượng giá giá trị của DLST hay khu bảo tồn thiên nhiên sẽ
giúp nhìn nhận lợi ích từ công tác bảo tồn đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
Thứ hai, định giá giá trị DLST giúp tránh gây thiệt hại tới vốn tài nguyên
thiên nhiên quan trọng, chẳng hạn tính đa dạng sinh học, sự tồn tại của các loài quý
hiếm… và cảnh báo những dự án có tác động tới DLST.
Thứ ba, trong một số trường hợp việc lượng giá giá trị bằng tiền của tài sản
môi trường là cơ sở để Nhà nước cân nhắc khi đưa ra một quyết định ảnh hưởng
đến vốn tự nhiên; là cơ sở để Nhà nước xác định mức đền bù hoặc bồi thường khi
cá nhân, tổ chức gây tổn hại đến tài sản tự nhiên.
Thứ tư, khi tài sản môi trường được định giá tức giá trị của chúng được thừa nhận
gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng từ đó nâng cao nhận thức về môi trường của
cộng đồng và đưa ra những chỉ dẫn trong quá trình ra quyết định kinh tế của Khu DLST.
1.2.2. Tổng giá trị kinh tế của một khu Du lịch sinh thái
Khu Du lịch sinh thái là một tài sản môi trường nên tổng giá trị kinh tế của
một Khu DLST về nguyên tắc có thể xem xét thông qua các thành phần giá trị của
một tài sản môi trường[5].
Các nhà kinh tế học đã rất thành công khi phân loại giá trị kinh tế của một tài
sản môi trường. Mặc dù thuật ngữ có thể chưa được thống nhất hoàn toàn, nhưng
phương pháp luận này đặt cơ sở cho việc giải thích về sự hình thành của giá trị trên

cơ sở sự tương tác giữa chủ thể con người - người định ra giá trị và khách thể - vật
được đánh giá. Về tổng quan, để đo lường tổng giá trị kinh tế của một tài sản môi
trường nói chung và một Khu DLST nói riêng, các nhà kinh tế học bắt đầu bằng
việc phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng.
10
Giá trị sử dụng (giá trị cảnh quan) là những lợi ích thu được từ việc sử dụng
nguồn tài nguyên trên thực tế. Đôi khi cũng có thể hiểu giá trị sử dụng là giá trị các
cá nhân gắn với việc tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các dịch vụ do
nguồn tài nguyên cung cấp. Ví dụ, đối với một Khu DLST hay một khu rừng, con
người có thể thu được lợi ích từ gỗ làm nhà, củi đốt; dùng cây cỏ làm thuốc; đi dạo
trong rừng, ngắm nhìn các loài động thực vật hoặc chiêm ngưỡng cảnh đẹp.
Giá trị sử dụng hình thành từ việc thực sự sử dụng tài sản môi trường, trên
thực tế nó bao gồm:
Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trực tiếp cung
cấp mà chúng ta có thể tính được giá cả và khối lượng trên thị trường.
Một quan điểm khác cho rằng giá trị sử dụng trực tiếp là các lợi ích nhận
được từ việc sử dụng trực tiếp tài sản và có thể được chia thành hai loại là sử dụng
tiêu hao và không tiêu hao. Chẳng hạn, giá trị sử dụng trực tiếp của rừng gồm giá trị
sử dụng tiêu hao như sản xuất gỗ, thực phẩm và các lâm sản ngoài gỗ khác; giá trị
sử dụng không tiêu hao bao gồm các hoạt động giải trí và các hình thái du lịch thậm
chí chỉ là xem hình ảnh phóng sự trên tivi.
Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ
sinh thái, có ý nghĩa về mặt sinh thái và môi trường. Nói cách khác đây là các chức
năng cơ bản của môi trường gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động kinh tế của con người.
Chẳng hạn, khả năng chống gió bão, khả năng hấp thụ cacbon là giá trị sử dụng gián
tiếp của rừng.
Giá trị tuỳ chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo tồn nguồn
lực hoặc một phần nguồn lực để sử dụng cho tương lai. Đây là giá trị do nhận thức,
lựa chọn của con người đặt ra trong hệ sinh thái. Giá trị tuỳ chọn không có tính
thống nhất chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tính chất lựa chọn của

nó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ranh giới giữa giá trị tuỳ chọn và giá trị
không sử dụng là không rõ ràng.
Giá trị phi sử dụng còn gọi là giá trị không sử dụng hoặc giá trị chưa sử dụng
và thường trừu tượng hơn giá trị sử dụng.
11
Giá trị phi sử dụng là thành phần giá trị của một tài sản môi trường thu được
không phải do việc tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các hàng hóa dịch vụ
do tài sản môi trường cung cấp. Nó thể hiện các giá trị phi thị trường nằm trong bản
chất của sự vật, không liên quan đến việc sử dụng trên thực tế, hoặc thậm chí việc
chọn lựa sử dụng tài sản này. Thay vào đó các giá trị này được coi như những yếu tố
phản ánh sự lựa chọn của con người, sự lựa chọn có kể đến cả sự quan tâm đồng cảm
và trân trọng đối với quyền lợi hoặc sự tồn tại của các sinh vật không phải là con
người. Các giá trị này bao hàm cả nhận thức về giá trị tồn tại của các giống loài khác
hoặc của cả quần thể hệ sinh thái. Ví dụ, một cá nhân có thể cảm thấy hài lòng khi
biết Khu DLST Suối Mỡ tồn tại, các loài đặc hữu vẫn được bảo vệ mặc dù họ chưa
tới đó bao giờ, và chắc chắn cũng không tới đó trong tương lai.
Giá trị phi sử dụng bao gồm các thành phần:
Giá trị để lại (Bequest value) là thành phần giá trị thu được từ sự mong
muốn bảo tồn và duy trì nguồn tài nguyên cho lợi ích của các thế hệ hiện tại và
tương lai. Chẳng hạn, người dân sống tại vùng cát Quảng Bình hiểu rằng cuộc sống
của họ và con cháu họ trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào rừng phòng hộ chắn
cát bay. Họ sẵn sàng đóng góp tiền bạc và công sức để duy trì rừng vì lợi ích của họ
và con cháu họ. Trong trường hợp này, mức sẵn sàng đóng góp của họ được xem là
giá trị để lại, giá trị lưu truyền cho thế hệ sau.
Giá trị tồn tại (Existence value) là giá trị của tài sản môi trường có được từ
nhận thức rằng tài sản đó còn tồn tại. Xét về tổng thể, xã hội cũng nhận được các lợi
ích từ hàng hoá môi trường ngoài sự hữu dụng liên quan tới việc sử dụng trực tiếp
hay gián tiếp. Sự tiêu dùng không có một hàng hoá cụ thể nhưng rõ ràng các cá
nhân cảm thấy hài lòng khi biết một nguồn tài nguyên nào đó vẫn còn tồn tại. Rất
khó giải thích tại sao xã hội lại đánh giá các lợi ích này. Tuy nhiên, chúng ta biết

rằng xã hội nói chung sẵn lòng chi trả để bảo tồn các tài sản này. Trong các trường
hợp như vậy lợi ích cho xã hội đơn giản từ việc biết rằng các tài sản này đang tồn
tại và đang được bảo vệ. Thành phần này của tổng giá trị được biết đến như giá trị
tồn tại.
12
Như vậy, giá trị tồn tại xuất phát từ nhận thức của con người về tài nguyên
và môi trường mà người ta cho rằng sự tồn tại của một cá thể hay một giống loài
nào đó có ý nghĩa về mặt kinh tế không chỉ trước mắt mà còn cả lâu dài buộc người
ta phải duy trì giống loài đó bằng mọi giá. Trong việc tính toán giá trị này thì việc
xác lập tiền tệ là khó khăn nhưng sự xác lập nhận thức về mặt giá trị rất dễ dàng.
Về nguyên tắc các giá trị tồn tại là một động cơ quan trọng của nhiều nỗ lực
bảo tồn và cũng là cơ sở ban hành chính sách môi trường. Một ví dụ thực tế là Đạo
luật về bảo vệ và bảo tồn các loài chim và các giống loài cây đang bị đe dọa tuyệt
chủng được áp dụng tại nhiều nước. Đạo luật của Mỹ năm 1973 về các loài đang bị
nguy hiểm là một điển hình về sự thừa nhận của Mỹ về giá trị tồn tại. Đạo luật đã
chính thức lên tiếng bảo vệ tính đa dạng sinh học của trái đất. Kết quả quan trọng
của nó là hình thành một danh sách chính thức về các sinh vật đang có nguy cơ
tuyệt chủng, bất kể chúng có giá trị sử dụng trực tiếp hay gián tiếp đối với con
người. Ngoài ra, một bằng chứng xác thực khác là sự sẵn lòng chi trả của xã hội cho
hoạt động của các tổ chức bảo vệ môi trường mà chương trình hành động của họ tập
trung vào việc bảo tồn các loài động thực vật.
Một nghiên cứu khá sớm khác về giá trị tồn tại của Krutulla (1967) cho rằng
“Khi đề cập đến một kỳ quan lộng lẫy hoặc một hệ sinh thái yếu ớt và duy nhất thì
việc bảo tồn và duy trì sự sẵn có là một phần quan trọng trong thu nhập thực của
nhiều cá nhân”. Điều này có nghĩa việc bảo tồn các giá trị của môi trường là mong
muốn của nhiều người không vì mục đích tiêu dùng của họ mà có thể là vì mục đích
tiêu dùng của người khác hoặc giữ gìn cho thế hệ tương lai.
Tiêu dùng của người khác nói đến ý niệm rằng các cá nhân đang đánh giá
một hàng hoá công cộng vì lợi ích nó mang lại cho người khác cho dù bản thân
những người đó có biết hay không. Điều này cho thấy những lợi ích nhận được có

tính phụ thuộc lẫn nhau. Một cá nhân có thể nhận được lợi ích từ sự nhận thức rằng
những người khác đang được hưởng lợi từ hàng hoá đó. Còn giữ gìn cho thế hệ
tương lai phát sinh từ ý thức phải bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai, từ sự
công nhận giá trị tồn tại của tài nguyên môi trường.
13
Một cách tổng quát, tổng giá trị kinh tế được hình thành từ giá trị sử dụng
trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp được minh họa bằng công thức và sơ đồ
sau[19]:
TEV = UV + NUV hay TEV = (DUV + IUV + OV) + ( BV + EV)
Trong đó:
DUV: Giá trị sử dụng trực tiếp
IUV: Giá trị sử dụng gián tiếp
OV: Giá trị lựa chọn
BV: Giá trị để lại (giá trị lưu truyền)
EV: Giá trị tồn tại
Hình 1.1: Sơ đồ tổng giá trị kinh tế của Khu DLST
(Nguồn: Giá trị của tài sản môi trường, Munasinghe, 1992)
Giá trị SD
trực tiếp
Giá trị SD
gián tiếp
Giá trị
lựa chọn
Giá trị
để lại
Giá trị
tồn tại
Tổng giá trị kinh tế
Lợi ích có
thể SD trực

tiếp
Lợi ích từ
chức năng
của MT
Lợi ích trực tiếp
và gián tiếp của
thế hệ tương lai
Lợi ích từ mong
muốn bảo tồn
cho thế hệ sau
Lợi ích từ việc
biết rằng các giá
trị vẫn tồn tại
Tính hữu hình giảm dần
- Thực phẩm
- Sinh khối
- Giải trí
- Sức khoẻ
- Chức năng
sinh thái
- Chống gió
bão
- Đa dạng
sinh học
- Bảo tồn
MT sống
- MT sống
- Bảo tồn giá trị
không thể đảo ngược
ngược

- Môi trường
sống
- Sự sống của
các loài
14
1.3. Tình hình và những nghiên cứu về DLST trên Thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình và những nghiên cứu về DLST trên Thế giới
Trong những năm qua, du lịch sinh thái đã và đang phát triển nhanh chóng ở
nhiều quốc gia trên thế giới và ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các tầng
lớp xã hội, đặc biệt đối với những người có nhu cầu tham quan du lịch và nghỉ ngơi.
Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa
cộng đồng; sự phát triển du lịch sinh thái đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to
lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho quốc gia cũng như cộng
đồng người dân các địa phương, nhất là người dân ở các vùng sâu, vùng xa - nơi có các
khu bảo tồn tự nhiên và các cảnh quan hấp dẫn. Ngoài ra, du lịch sinh thái còn góp phần
vào việc nâng cao dân trí và sức khỏe cộng đồng thông qua các hoạt động giáo dục môi
trường, văn hóa lịch sử và nghỉ ngơi giải trí. Chính vì vậy ở nhiều nước trên thế giới và
trong khu vực, bên cạnh các lợi ích về kinh tế, du lịch sinh thái còn được xem như một
giải pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường sinh thái thông qua quá trình làm giảm sức ép
khai thác nguồn lợi tự nhiên phục vụ nhu cầu của khách du lịch, của người dân địa
phương khi tham gia vào các hoạt động du lịch.
Ngày nay sự hiểu biết về du lịch sinh thái đã phần nào được cải thiện, thực
sự đã có một thời gian dài du lịch sinh thái là chủ đề nóng của các hội thảo về chiến
lược và chính sách bảo tồn và phát triển các vùng sinh thái quan trọng của các quốc
gia và thế giới. Thực sự đã có nhiều nhà khoa học danh tiếng tiên phong nghiên cứu
lĩnh vực này, điển hình như:
Hector Ceballos-Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh
thái (DLST), định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh
thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với
những mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và

giới động – thực vật hoang dã, cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ và hiện
tại) được khám phá trong những khu vực này”[19].
Năm 1994 nước Úc đã đưa ra khái niệm “DLST là Du lịch dựa vào thiên
nhiên, có liên quan đến sự giáo dục và diễn giải về môi trường thiên nhiên được
quản lý bền vững về mặt sinh thái”.
15
Theo Hiệp hội DLST Hoa Kỳ, năm 1998 “DLST là du lịch có mục đích với
các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường,
không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội để phát triển
kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa
phương”.
Trên thế giới, đặc biệt là tại các nước phát triển như Thuỵ Điển, Nhật Bản,
Mỹ… các KBT được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa bảo tồn và phát triển du
lịch, nhiều loại hình du lịch được hình thành như leo núi, thăm động vật hoang dã
trong xe bảo vệ, theo dõi cuộc sống của các loài linh trưởng, ngắm nhìn các loại
động thực vật biển…Gần đây, một số nước Châu Phi cũng rất chú trọng phát triển
loại hình du lịch này, ở một số nước như Uganda, Nigeria… việc phát triển du lịch
sinh thái được đưa vào trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Với nền văn hóa đa dạng và độc đáo, trong các thập niên trước đây,
Indonesia chủ yếu chỉ phát triển du lịch dựa vào loại hình du lịch văn hóa. Du lịch
sinh thái bắt đầu được coi trọng tại Indonesia từ năm 1995. Để tăng cường các
phong trào DLST ở Indonesia, tại Hội thảo quốc gia lần thứ hai về DLST được tổ
chức tại Bali (7/1996) đã thông qua việc thành lập Hiệp hội Du lịch sinh thái
Indonesia (Masyarakat Ekowisata Indonesia), viết tắt là MEI. Phải nói thêm
rằng: Indonesia cũng phải đối đầu với các vấn đề về việc phát triển DLST không
bền vững như tàn phá môi trường và hệ sinh thái trong một thời gian dài.
Từ năm 1996, các cuộc thảo luận, hội thảo về DLST ở Indonesia đã tăng
lên. Việc này đã khuyến khích MEI thực hiện cuộc họp đầu tiên vào năm 1997 tại
Flores, năm 1998 tại Tana Toraja, Sulawesi Selatan. Các tổ chức như: Tổng cục
Bảo vệ Thiên nhiên và Bảo tồn, Bộ Lâm nghiệp và trồng rừng, Bộ Du lịch và Nghệ

thuật, các ban phát triển ở các địa phương, MEI cũng như các tổ chức Phi chính phủ
đã và đang tham gia vào việc thiết lập các nguyên tắc cho sự phát triển của DLST ở
Indonesia.
Thời gian này, thế giới đang ghi nhận nhiều bước tiến đáng kể của ngành du
lịch, nhất là du lịch sinh thái và bảo tồn do những quan ngại ngày càng lớn về vấn
đề môi trường. Du lịch sinh thái không còn chỉ tồn tại như một khái niệm hay một

×