Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sang kien kinh nghiem day hoc tap doc 4-5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.16 KB, 15 trang )

Đặt vấn đề
I, Cơ sở lý luận
Tập đọc là một môn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các môn học
ở tiểu học. Biết đọc là có thêm công cụ mới để học tập, để giao tiếp. Đây là một
công cụ mà chỉ người biết chữ mới có. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn tập đọc
có khả năng thực hiện tốt các nhiệm vụ của môn Tiếng Việt đề ra đó là:Trau dồi
kiến thức ngôn ngữ, kiến thức văn học, kiến thức đời sống, rèn luyện kỹ năng đọc,
nói viết và đặc biệt nó còn góp phần không nhỏ vào việc giáo dục tình cảm, mĩ cảm
và phát triển năng lực tư duy của học sinh. Có thể nói thiếu phân môn tập đọc mà
chỉ có phân môn chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn, tập viết…thì nhiệm vụ của
môn Tiếng Việt khó có thể thực hiện được.
Tóm lại tập đọc là một phân môn rất quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở
Tiểu học. Dạy tốt phân môn này không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc
mà còn phát triển ở các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều kiện để các em học tốt
các phân môn khác ( Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn….). Hơn thế
nữa, dạy tốt phân môn tập đọc sẽ giúp các em có được một phương tiện để học tập
các môn học khác như Toán, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Âm nhạc, Mĩ
thuật….được tốt hơn. Do vậy việc suy nghĩ, tìm chọn những biện pháp hữu hiệu
nhất góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy của phân môn tập đọc là vô cùng cần
thiết.
II, Cơ sở thực tiễn
Như trên ta đã khẳng định phân môn tập đọc có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Tuy nhiên việc dạy tập đọc ở Tiểu
học nói chung và ở khối 4, khối 5 nói riêng cũng còn có những hạn chế, thiếu sót
do vậy mà chất lượng giảng dạy phân môn tập đọc chưa cao. Qua việc điều tra khả
năng tập đọc văn bản của học sinh lớp tôi phụ trách ( 4A ) ở tuần đầu tiên của năm
học cho phép tôi được phép nêu ra kết quả điều tra cụ thể như sau:
1,Đọc ê a, ngắc ngứ ( tức là đọc rời vụn ra từng tiếng, sau mỗi tiếng lại nghỉ
kéo dài, không phân biệt được từ trong câu, hoặc có khi gặp vần khó các em dừng
lại ở giữa câu để đánh vần ) tỷ lệ mắc loại lỗi này khoảng 3 / 31 em
2, Đọc liến thoắng: có một số em lầm tưởng rằng đọc thật nhanh mới là giỏi vì


vậy các em đọc liền một thôi từ đầu đến cuối, tỷ lệ loại lỗi này khoảng 4 /31 em.
3, Đọc sai những tiếng, từ có phụ âm hay nhầm lẫn như l – n, tr – ch, s – x, r –
d – gi loại lỗi này khá phổ biến chiếm 25/ 31 em.
4, Đọc lên xuống giọng tuỳ tiện, hiện tượng này chiếm khoảng 13 /31 em.
5, Đọc giọng đều đều: Khác hẳn với những em đọc nhát gừng, đọc liến thoắng,
các em này đọc với tốc độ vừa phải, biết ngắt nghỉ đúng dấu câu, nhưng toàn bài
không biết nhấn vào những từ quan trọng, không phân biệt được các loại câu, giọng
đều đều buồn tẻ, không thể hiện được nội dung tư tưởng, và ý định của người viết (
không đọc diễn cảm được) loại lỗi khá phổ biến khoảng 23 /31 em.
1
* Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến khả năng đọc của học sinh còn hạn chế như
vậy?
Qua nghiên cứu điều tra cho phép tôi được nêu ra hai nguyên nhân chính sau đây:
- Trong giờ tập đọc, giáo viên còn xem nhẹ khâu luyện đọc cho học sinh do vậy
phần luyện đọc mới chỉ được giáo viên tiến hành một cách máy móc, hình thức nên
dẫn đến hậu quả học sinh đọc chưa tốt còn đọc diễn cảm thì càng kém. Phải nói
rằng nguồn gốc của nguyên nhân này phần lớn do giáo viên còn lúng túng trong
phương pháp rèn đọc cho học sinh, đồng thời rèn đọc cho học sinh chưa đến nơi
đến chốn.
- Giáo viên đọc mẫu không tốt, thiếu tác dụng làm mẫu và chưa kích thích được
học sinh cố gắng đọc theo theo thầy
Giải quyết vấn đề.
I, Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết, trong một giờ tập đọc người giáo viên cần phải thực hiện
các hoạt động dạy học để đạt được những yêu cầu cơ bản như sau:
Hướng dẫn học sinh đọc đúng, đọc hiểu, đọc hay một văn bản. Do vậy để nâng
cao chất lượng tập đọc của học sinh, qua nhiều lần nghiên cứu tìm chọn biện pháp
rèn đọc và đã áp dụng những biện pháp đó vào thực tế giảng dạy, tôi đã có một số
kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 4, lớp 5. Sau đây, tôi xin được
trình bày nội dung kinh nghiệm của mình – Kinh nghiệm có tên gọi:

Phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp 4 - 5
Trong kinh nghiệm này tôi xin được trình bày các biện pháp để rèn đọc đúng,
đọc hay (đọc diễn cảm) một văn bản cho học sinh lớp 4, lớp 5.
II,Những biện pháp, giải pháp đã thực hiện
1, Khắc phục tình trạng đọc ê a ngắc ngứ .
Như chúng ta đã biết chữ Tiếng Việt của chúng ta viết rời ra từng âm tiết chứ
không phải viết liền từng từ như chữ một số nước khác (Anh, Nga, Pháp ) nhưng
khi đọc ta lại không đọc rời rạc từng âm tiết một mà phải đọc theo từng cụm từ.
Ví dụ: Chị Nhà Trò đã bé nhỏ lại gầy yếu quá, người bự những phấn như mới lột.
Chị mặc áo thâm dài đôi chỗ chấm điểm vàng, hai cánh mỏng như cánh bướm non
lại ngắn chùn chùn.
Nếu tính về mặt âm tiết thì 2 câu văn trên có 38 âm tiết, 31 từ, 9 cụm từ. Khi học
sinh tập đọc không để các em đọc rời rạc từng âm tiết như kiểu đọc nhát gừng. Nếu
để học sinh đọc theo từng từ thì vẫn chưa diễn đạt được ý của câu văn nên tôi phải
hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ.
Chị Nhà Trò /đã bé nhỏ/ lại gầy yếu quá,/ người bự những phấn / như mới lột./
Chị mặc áo thâm dài / đôi chỗ chấm điểm vàng,/ hai cánh mỏng như cánh bướm
non / lại ngắn chùn chùn.
- Cách hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ của tôi như sau:
+Tôi viết câu văn đó ra bảng phụ (đã chuẩn bị từ trước )
2
+Vì giai đoạn đầu lớp còn đọc yếu do vậy tôi đọc mẫu theo cách nghỉ như trên
sao cho thật chuẩn. Sau đó tôi cho học sinh phát hiện những chỗ ngắt nghỉ của cô,
nếu đúng tôi sẽ dùng phấn màu gạch chéo sau những từ cần ngắt. Nếu học sinh
chưa phát hiện ra tôi có thể đọc mẫu lần thứ 2 những câu đó để học sinh có thể
nhận ra. Đồng thời tôi luôn củng cố kỹ năng đọc khi gặp dấu chấm ( phải nghỉ
hơi), gặp dấu phẩy phải ngắt hơi. Khi đã nhận ra cách ngắt nghỉ sau cụm từ, sau
dấu phẩy, sau dấu chấm tôi gọi một số học sinh khá đọc, sau đó mới gọi những em
hay đọc ê a ngắc ngứ lên đọc. Có thể là một lần, cũng có thể là hai lần và phải tiến
hành trong một thời gian. Tôi nghĩ hiện tượng đọc ê a ngắc ngứ ở các em sẽ không

còn xảy ra nữa.
Nhưng lưu ý khi còn những em đọc ê a ngắc ngứ thì phải sửa một cách triệt để,
có thể phải hướng đẫn từng cụm từ ; giáo viên hoặc học sinh khá đọc mẫu cụm từ
thứ nhất sau đó cho học sinh đọc yếu đọc lại cụm từ đó rồi mới chuyển sang cụm
từ khác và cũng theo trình tự đúng như vậy, cuối cùng cho học sinh đọc lại cả đoạn
văn đó.
+Vậy khi học sinh đọc những câu văn dài, học sinh đã biết ngắt hơi sau cụm
nhưng ngắt hơi trong thời gian bao lâu thì cũng là điều cần phải hướng dẫn các em.
Thông thường tôi hướng dẫn các em ngắt hơi sau cụm từ bằng thời gian ngắt nghỉ
khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy và đương nhiên thời gian đó phải ít hơn
thờigian nghỉ khi đọc gặp dấu chấm. Tránh tình trạng học sinh ngắt nghỉ quá lâu
làm cho người nghe cảm thấy rời rạc.
Số học sinh mắc loài lỗi đọc ê a ngắc ngứ hoặc đọc liến thoắng không nhiều
nên chỉ sau 2 tuần kiên trì rèn đọc cho các em ( gọi cho các em đọc nhiều hơn, sửa
cho các em kỹ hơn) thì loại lỗi này không còn trong lớp tôi nữa, các em đọc đã khá
trôi chảy, lưu loát.
2, Khắc phục tình trạng đọc sai những tiếng, từ có phụ âm đầu hay nhầm lẫn
l - n ;s - x ; ch - tr ; d - r- gi
Những tiếng, những từ này thường là những từ khó đối với học sinh cho nên
trong bước rèn đọc đúng cho học sinh tôi cho các em đọc thầm toàn bài để tự phát
hiện ra những tiếng , từ mà học sinh cảm thấy khó có trong bài. Trong thực tế nhiều
khi giáo viên quá phụ thuộc vào sách hướng dẫn mà ép học sinh phải chỉ ra những
từ khó giống như trong sách nêu ra là không nên bởi những từ đó với học sinh có
thể chưa phải là khó. Song từ, tiếng khó đọc mà tự các em phát hiện ra có thể là rất
nhiều.Do vậy giáo viên cần kết hợp vơí việc quan sát theo dõi của mình trong tất cả
các giờ học để thấy học sinh lớp mình hay nhầm lẫn ở những cặp phụ âm nào, vần
nào để tập trung rèn cho các em những tiếng khó từ khó ở các loại đó.
Vídụ :ở lớp tôi ngay từ khi mới nhận lớp, qua theo dõi trong các tiết học và
trong khi giao tiếp với học sinh tôi thấy các em còn hay nhầm lẫn giữa các cặp phụ
âm sau:

Các cặp phụ âm hay lẫn l- n x- s Ch- tr d – r - gi
3
Tỷ lệ mắc lỗi 80% 35% 42.5% 72%

Tôi thấy đây không chỉ là những lỗi của các em học sinh khi đọc, khi nói mà cả
nhân dân địa phương nơi đây cũng hay nhầm lẫn như vậy. Do vậy trong một giờ
học, một tuần học thậm chí cả một tháng ta cũng không thể sửa ngay cho các em tất
cả các loại lỗi. Những lỗi mà tỷ lệ học sinh mắc ít hơn và cũng dễ sửa hơn tôi đặt
ra cho mình kế hoạch sẽ tiến hành rèn cho các em liên tục trong 8 tuần đầu ( Đó
là những cặp phụ âm s – x, ch –tr ).Còn những cặp phụ âm khó sửa hơn (l – n) tỷ lệ
học sinh mắc lỗi nhiều hơn, tôi đặt ra cho mình kế hoạch rèn cho các em liên tục
trong 3 tháng nhưng sau đó phải thường xuyên rèn trong khi nói và khi đọc, khi
viết có như thế mới trở thành thói quen nói đúng, viết đúng được.
- Cách tiến hành rèn đọc đúng cho học sinh của tôi như sau:
+ Mục đích phần rèn đọc của bài “Mẹ ốm” ( sách Tiếng Việt lớp 4 tập 1) tôi sẽ
tập trung rèn học sinh đọc đúng những tiếng có phụ âm đầu l- n
+ Sau khi nghe giáo viên đọc mẫu lần 1, tôi yêu cầu cả lớp đọc thầm toàn bài
( kết hợp với việc dặn học sinh chuẩn bị bài ở nhà) tìm ra những từ, tiếng khó đọc
có trong bài. sau đó cho học sinh nêu ra, tôi lần lượt ghi lên bảng theo các dòng
riêng biệt
Ví dụ: học sinh tìm được các từ khó: Hôm nay, lá trầu, nắng, lặn, nóng ran, xóm
làng, sáng nay.
Tôi sẽ ghi lên bảng như sau
l : lá trầu, lặn, xóm làng
n : hôm nay, nắng, nóng ran, sáng nay
Hỏi : trong dòng 1 con thấy những từ đó khó đọc ở phần nào?
( khó đọc ở phần phụ âm đầu:l) ; giáo viên ghi âm l trước dòng 1 bằng phấn màu
Với dòng 2 tôi cũng hỏi như vậy và ghi âm n trước dòng 2.
Đối với những âm này, với học sinh của tôi, tôi phải hướng dẫn học sinh cách
phát âm thật cụ thể, chi tiết.

+ Tôi hướng dẫn các em cách phát âm phụ âm l như sau:
Phụ âm l là phụ âm tắc, khi phát âm phụ âm này, đầu lưỡi cong lên tiếp giáp
với vòm lợi trên, luồng hơi bị cản lại nên phải len qua hai cạnh lưỡi để thoát ra
ngoài, do vậy luồng hơi bật ra mạnh.
Giáo viên làm mẫu hai lần, sau đó cho học sinh khá phát âm, gọi học sinh hay
nhầm lẫn về phụ âm này tập phát âm. Lưu ý nên cho các em phát âm cá nhân để dễ
phát hiện những em phát âm sai để sửa; Tiếp theo cho học sinh đọc tiếng khó có
chứa phụ âm l
Phụ âm n là phụ âm xát, khi phát âm phụ âm này mặt lưỡi tiếp giáp với vòm lợi
trên, luồng hơi không bị lưỡi cản lại nên thoát ra nhẹ nhàng hơn. cách tiến hành
cũng như hướng dẫn phát âm phụ âm l
4
Để học sinh có được thói quen phát âm đúng tôi yêu cầu học sinh phát âm và
đọc theo kiểu đối nhau: đó là l- n ; lá trầu- nóng ran, xóm làng – nóng ran, nắng –
lặn
Đưa ra cách rèn như vậy là tôi muốn cho học sinh có phản ứng nhanh nhậy để
tìm ngay ra được cách đọc đúng những từ có chứa các cặp phụ âm hay nhầm lẫn.
Nếu chỉ rèn như vậy thì cũng chưa đủ mà việc luyện đọc từ khó cần phải được
đặt trong văn cảnh, trong môi trường ngôn ngữ thì học sinh đọc những từ đó mới
đúng hơn bởi nhiều khi đọc riêng từ học sinh có thể đọc đúng nhưng khi đặt từ đó
vào trong câu văn, đoạn văn thì chưa chắc học sinh đã đọc đúng. Chính vì thế mà
sau khi rèn phát âm luyện đọc từ khó có chứa âm khó tôi lại phải yêu cầu học sinh
tìm những câu văn, câu thơ thậm chí đoạn văn, đoạn thơ có chứa từ khó đó cho học
sinh đọc vì mục đích của rèn đọc đúng là rèn phát âm đúng để đọc đúng văn bản.
Một số đồng chí giáo viên có hỏi: Trong một giờ tập đọc nếu chỉ tập trung
hướng dẫn đọc những từ có chứa phụ âm l- n thì những tiếng khó khác rèn vào lúc
nào?
Tôi khẳng định: Một cặp phụ âm hay nhầm lẫn l- n và nó đã trở thành cố tật
không chỉ ở học sinh mà cả nhân dân đĩa phương nếu trong một tiết tập đọc có chủ
định rèn cho học sinh về cặp phụ âm đó mà không thực hiện kĩ càng như vậy thì

không thể đạt được cái đích đã đạt ra. Còn những từ khó khác ta có thể hướng dẫn
các em đọc từ đó theo trình tự: giáo viên hoặc học sinh khá đọc mẫu sau đó gọi học
sinh yếu kém đọc lại
Rèn cho học thói quen đọc đúng những từ có các phụ âm mà học sinh hay
nhầm lẫn là một việc làm không đơn giản. Bản thân một mình phân môn tập đọc
cũng khó có thể giải quyết được do vậy theo tôi trong tất cả các giờ học và trong
bất kỳ hoàn cảnh giao tiếp nào tôi và lực lượng nòng cốt của tôi gồm 20% học sinh
không mắc lỗi sẽ giúp các em sửa ngay có như thế mới giải quyết được vấn đề. Với
những cặp phụ âm còn lại tôi cũng tiến hành rèn cho học sinh lần lượt theo từng
bước như vậy. Đến nay, năm học đã tiến hành được gần 3 tháng thì mức độ sai
những từ có phụ âm hay nhầm lẫn như đã nêu ra ở trên đã giảm rõ rệt
Các cặp phụ âm hay lẫn l- n x- s Ch- tr d – r - gi
Tỷ lệ mắc lỗi 11% 0% 3% 12%
Từ kinh nghiệm của những năm học trước tôi tin tưởng rằng trong hơn một
tháng của học kỳ 1 tôi sẽ giải quyết triệt để các lỗi còn lại
3. Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tuỳ tiện
Theo tôi muốn khắc phục tình trạng lên xuống giọng tuỳ tiện thì giáo viên phải
hướng dẫn thật tốt cách đọc các kiểu câu:
Câu kể ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối câu.
Câu hỏi ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phaỉ lên giọng ở cuối câu.
Câu kể có dấu chấm lửng khi đọc phải kéo dài giọng.
5
Câu cảm, cầu cầu khiến ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần phải lên giọng
ở cuối câu.
Ví dụ: trong bài “ Chú Đất Nung” ở sách Tiếng Việt lớp 4 tôi hướng dẫn học
sinh cách đọc các loại câu này như sau:
-Chép đoạn văn đó lên bảng phụ
-Hỏi học sinh trong đoạn văn đó có những câu văn nào là câu hỏi, câu kể, câu
cảm, câu cầu khiến và cách đọc của từng loại câu này, giáo viên dùng phấn mầu
ghi ký hiệu lên giọng  xuống giọng ở cuối mỗi loại câu

Ông Hòn Rấm cười bảo : (câu kể)
- Sao chú mày nhát thế ?  ( câu hỏi). Đất có thể nung trong lửa cơ mà !  ( câu
cảm)
Chú bé đất ngạc nhiên hỏi lại :  ( câu kể )
- Nung ấy ạ ?  ( câu hỏi)
- Chứ sao ?  . Đã là người thì phải dám xông pha, làm đựoc nhiều việc có ích.  (
câu kể)
Nghe thế, chú bé Đất Nung không thấy sợ nữa. ( câu kể ). Chú vui vẻ bảo:( câu
kể )
- Nào, nung thì nung!
Từ đấy chú thành đất nung.  ( câu kể )
Sau đó tôi hoặc học sinh khá đọc mẫu theo cách đọc đó rồi cho học sinh nhất là
những em yếu kém luyện đọc với số lượng từ 7 – 8 em. Việc làm này phải được
tiến hành thường xuyên khi gặp những bài tập đọc có các kiểu câu như vậy, có như
thế mới hình thành được thói quen đọc đúng. Sau khoảng thời gian 1 tháng số học
sinh mắc lỗi này đã giảm chỉ còn 1/31 em.
4.Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ
Một số người lầm tưởng hướng dẫn đọc ngắt nhịp trong thơ là hướng dẫn đọc
diễn cảm. Không phải như vậy, mà đó mới chỉ là cách đọc đúng trong thơ mà thôi.
Vậy muốn hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ đúng thì giáo viên phải nắm vững
cách đọc các thể thơ. Các bài thơ trong sách Tiếng Việt lớp 4, lớp 5 thường được
viết ở thể thơ lục bát, song thất lục bát, và các thể thơ khác.
- Đọc thơ lục bất ngắt nhịp theo nhiều cách.
Câu 6 có thể ngắt theo nhịp 2 /2/2 4 / 2 2 / 4
Câu 8 có thể ngắt theo nhịp 2 / 2 /2 /2 4 /4 3 / 5 2 / 4 / 2
Thế nhưng trong bài cũng có những câu hoặc những đoạn không ngắt theo nhịp
thông thường thì giáo viên phải chọn những câu đó để hướng dẫn học sinh cách
ngắt nhịp.
Ví dụ :Trong bài tập đọc “Truyện cổ nước mình” là một bài thơ lục bát. Thông
thường câu 6 ngắt theo nhịp 2 / 4; câu 8 ngắt theo nhịp 2 / 4/ 2 hoặc 4 / 4.Thế

nhưng trong bài cũng có những câu phá lệ (có cách ngắt nhịp khác). Do vậy ta phải
đưa những câu đó ra để hướng dẫn.
“Đời cha ông / với đời tôi 3/3
Như con sông / với chân trời đã xa 3/5
6
Ví dụ: Trong thơ 5 tiếng thông thường ta ngắt theo nhịp 3/ 2 hoặc 2 / 3 nhưng
cũng có những câu lại ngắt theo nhịp 1 / 4 hoặc 4 /1 thì ta cũng phải hướng dẫn học
sinh cách ngắt nhịp những câu này
“ Ôi/ triệu triệu vì sao 1/ 4
Bừng bừng/ muôn ánh mắt” 2/ 3
Trong thơ bảy chữ thông thường ta ngắt theo nhịp 3 / 4 ( lẻ trước chẵn sau) thế
nhưng cũng có câu lại có cách ngắt nhịp khác
Hát rằng: / Cá bạc biển Đông lặng 2/ 5
Gõ thuyền / đã có nhịp trăng cao 2/ 5
Sao mờ / kéo lưới kịp trời sáng 2 /5
Do vậy tôi muốn nói khi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ thì giáo viên cần phải
cho học sinh nhận biết bài thơ đó được viết ở thể thơ nào? Cách ngắt nhịp chung
của toàn bài ra sao? Song cũng cần phải phát hiện những câu, những đoạn có cách
ngắt nhịp khác biệt trong bài để hướng dẫn học sinh. Thực chất ngắt nhịp thơ cũng
được dựa trên cơ sở ngắt nhịp theo cụm từ. Do vậy ngắt nhịp thơ không đúng câu
thơ sẽ trở nên tối nghĩa, mất hết ý vị còn đâu có thể cảm nhận được nội dung của
bài.
Làm tốt khâu rèn đọc đúng tức là ta đã tạo ra cơ sở ban đầu để giúp học sinh hiểu
đúng nội dung bài tập đọc và như vậy mới có thể hướng dẫn học sinh đọc diễm cảm
được.
II/ Giải pháp rèn đọc diễn cảm
Chúng ta u bi t c di n c m khó h n c bình th ng. c bình th ngđề ế đọ ễ ả ơ đọ ườ Đọ ườ
ch òi h i phát âm úng, c l u loát, bi t ngh úng ch theo các d u ng tỉ đ ỏ đ đọ ư ế ỉ đ ỗ ấ ắ
câu, bi t lên, xu ng gi ng. c di n c m òi h i ng i c ph i n m ch cế ố ọ Đọ ễ ả đ ỏ ườ đọ ả ắ ắ
n i dung t ng o n t ng b i, tâm tình v l i nói c a t ng nhân v t di n tộ ừ đ ạ ừ à à ờ ủ ừ ậ để ễ ả

cho úng tinh th n c a câu v n, b i v n, t c l i sâu v o b n ch t c a câuđ ầ ủ ă à ă ứ à đ à ả ấ ủ
v n, b i v n. Cho nên m c ích c di n c m l b c l ra c cái b n ch tă à ă ụ đ đọ ễ ả à ộ ộ đượ ả ấ
c a n i dung v trên c s ó mu n truy n t úng nh ng ý ngh v tình c mủ ộ à ơ ở đ ố ề đạ đ ữ ĩ à ả
c a tác gi . Mu n c di n c m t t ph i hi u k n i dung c a b i t p c vủ ả ố đọ ễ ả ố ả ể ỹ ộ ủ à ậ đọ à
ph i truy n t t t s hi u bi t c a mình t i ng i nghe. H c sinh c di nả ề đạ ố ự ể ế ủ ớ ườ ọ đọ ễ
c m ch a t t l do nguyên nhân: giáo viên ch a giúp h c sinh c m th t t n iả ư ố à ư ọ ả ụ ố ộ
dung b i t p c v nguyên nhân c ng không kém à ậ đọ à ũ phần quan trọng là khả năng
đọc mẫu của giáo viên còn hạn chế.
Muốn đọc diễn cảm tốt, ta cần:
1. Giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc. Muốn vậy cần phải chú ý
a. Bám sát yêu cầu của bài tập đọc
Yêu cầu của bài tập đọc phải được xác định từ khi soạn bài ở nhà
VD khi dạy bài “Chợ tết” tôi đã xác định yêu cầu của bài như sau
- Yêu cầu về rèn đọc: Đọc đúng những tiếng, từ có phụ âm đầu l –n , đọc lưu loát
toàn bài.
- Biết đọc diễn cảm bài thơ với giọng chậm rãi nhẹ nhàng phù hợp với việc diễn
tả bức tranh giàu màu sắc vui vẻ hạnh phúc của phiên chợ ngày tết.
7
- Yêu cầu về hiểu: Cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của bài thơ bức tranh chợ tết
giầu màu sắc và vô cùng sinh động đã nói về cuộc sống vui vẻ hạnh phúc của
những người dân quê
- Giáo dục về tình cảm, mỹ cảm: Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học
sinh (đây là yêu cầu toát ra từ bản thân bài tập đọc và cũng rất phù hợp với học
sinh).
- Bám sát yêu cầu của bài tập đọc song 3 yêu cầu ấy phải được toát ra từ bản thân
bài tập đọc và giáo viên phải vận dụng vào thực tế lớp mình giảng dạy thì việc
bám sát yêu cầu của bài tập đọc mới thực sự hiệu quả
b, Giảng từ và khai thác nghệ thuật .
- Giảng từ: trong bài tập đọc thường có nhiều từ vậy ta cần phải giảng những từ
nào ?

+ Qua kinh nghiệm về giảng dạy phân môn tập đọc tôi thấy có thể chia những từ
để giảng làm 3 loại: loại từ khó, loại từ gắn với chủ đề đang học và loại từ chìa
khoá (từ trung tâm)
 Từ khó có thể là từ điạ phương được tác giả đưa vào bài, là loại từ Hán Việt, là
danh từ riêng. Loại từ này thường có trong phần chú giải cho nên sau khi đọc mẫu
xong tôi cho học sinh đọc phần chú giải để học sinh hiểu ngay được những từ này
khi bắt đầu tiếp xúc với bài tập đọc.
 Từ chủ đề: Trong mỗi chủ đề tập đọc có một số từ ngữ mà giáo viên cần lưu ý
bởi đó là những từ làm toát lên chủ đề. Từ chủ đề cũng có khi là từ khó. Giáo viên
có thể kết hợp giảng các từ chủ đề với các từ khó hoặc với các từ trung tâm trong
quá trình khai thác.
 Từ trung tâm: Đây là những từ có sức nặng, giáo viên cần khai thác để làm toát
lên nội dung bài học.
Ta chia những từ cần giảng làm 3 loại như vậy để dễ phân biệt còn trong thực tế
nhiều khi từ khó cũng là từ chủ đề hoặc từ trung tâm.
+ Vậy khi giảng từ ta có thể dùng những phương pháp nào?
Những phương pháp phổ biến là phương pháp trực quan, liên hệ, so sánh,
phương pháp định nghĩa, giảng giải.
 Khi dùng phương pháp trực quan, tôi áp dụng bằng nhiều hình thức: Trực quan
bằng giọng nói, giọng đọc, nét mặt, ánh mắt, dáng điệu, động tác, hình mẫu, tranh
ảnh vật thực.
VD trong bài “Người ăn xin” khi giảng về từ nhìn chằm chằm tôi có thể dùng
ánh mắt của mình nhìn một cách chăm chú, lâu không chớp mắt và có ý dò hỏi?
 Trong bài tập đọc khác tôi có thể dùng môi để giảng từ mấp máy, dùng cách đi
để giảng từ rón rén, dùng tư thế để giảng từ lom khom, dùng giọng nói để giảng từ
sang sảng, oang oang, dùng chỉ màu để giảng từ sặc sỡ, dùng hình mẫu để giảng từ
nhà sàn, nhà trệt.
 Phương pháp trực quan là phương pháp rất tốt để học sinh có thể hiểu và nhớ
lâu nghĩa của từ nhưng phương pháp này chỉ dùng để giảng từ cụ thể. Khi gặp
những từ trừu tượng như độ trì, đa tình, đa mang, hữu nghị, khiêm tốn thì rất khó

8
dùng phương pháp này. Do vậy ngoài phương pháp này tôi còn sử dụng nhiều
phương pháp khác.
 Phương pháp định nghĩa, giảng giải.
ở lớp 4, 5 nhận thức lý tính tổng quát của học sinh đã phát triển nên trong khi
giảng từ cho học sinh hiểu tôi vẫn thường dùng phương pháp định nghĩa hay giảng
giải xen lẫn các phương pháp khác
Ví dụ: Khi giảng từ quyến rũ tôi dùng phương pháp giảng giải
- Quyến rũ có nghĩa là có một sức lôI cuốn mạnh mẽ làm cho quyến luyến không
muốn rời xa.
- Mãnh liệt day dứt ý nói thôi thúc, day dứt, dai dẳng và mạnh mẽ.
 Khi giảng về từ truyền thống tôi dùng phương pháp định nghĩa.
Truyền thống là những phẩm chất tốt đẹp hoặc những điều tốt đẹp được giữ
gìn, phát triển và truyền từ đời này sang đời khác.
Ví dụ:Dân tộc ta có lòng yêu nước nồng nàn.
 Phương pháp so sánh:
Khi giảng về từ lạnh tê tái tôi nêu lên một loạt các khái niệm lạnh lẽo, lạnh
buốt, lạnh giá để học sinh thấy được lạnh tê tái ở mức độ cao hơn. Mặt khác tôi
cho học sinh tìm từ trái nghĩa với từ lạnh tê tái là nóng hầm hập để học sinh càng
hiểu rõ hơn về ý nghĩa của từ này.
 Khai thác nghệ thuật
Theo tôi bài tập đọc là một thể thống nhất giữa hai mặt nội dung và nghệ thuật,
do vậy tôi nghĩ chúng ta phải thông qua việc khai thác nghệ thuật để làm toát lên
nội dung tư tưởng. Tôi thấy phần này trong khi dạy tập đọc vốn kiến thức văn học
mà học sinh tích luỹ được chưa nhiều.
Có đồng chí hỏi: “Khai thác nghệ thuật của một bài tập đọc là khai thác những
gì?”
Theo tôi tuỳ từng bài mà chúng ta phải xem bài tập đọc ấy có những nét gì nổi
bật về nghệ thuật cần khai thác.
VD trong bài “ Chợ tết” tôi giúp học sinh hiểu được nghệ thuật dùng từ của tác

giả khi miêu tả những người đến chợ tết, tác giả đã chọn tả những nét rất riêng của
từng người đó là:
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Người hai thôn gánh lợn chạy đi đầu
Vài cụ già chống gậy bước lon khom
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau
Bên cạnh cách dùng từ giầu sức gợi cảm như vậy tác giả còn chọn tả những màu
sắc rất tươi rất trong sáng: trắng, đỏ, hồng, lam, xanh, biếc, thắm, vàng, tía son.
Ngay cả một màu đỏ cũng có nhiều cung bậc: hồng, đỏ, tía, thắm, son.
9
Với cách dùng từ như vậy tác giả đã phác hoạ ra trước mắt chúng ta bức tranh
chợ tết miền trung du giầu màu sắc và vô cùng sinh động. Qua đó ta thấy được
sinh hoạt nhộn nhịp của người dân quê vào dịp tết
Hoặc trong bài mùa thảo quả tôi tập trung khai thác điệp từ thơm và việc sử
dụng một loạt câu văn ngắnĩen lẫn với câu văn dài để làm nổi bật mùi thơm đặc
biệt của thảo quả
VD: Gió tây lướt thướt bay, qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền
núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào các thôn xóm Chin San. Gió
thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm
đậm, ủ ấp trong từng nếp áo nếp khăn.
VD: Trong bài “Hoa học trò” tôi lại khai thác vẻ đẹp của hoa phượng theo trình
tự thời gian: Lúc đầu màu hoa phượng là màu đỏ còn non, có mưa hoa càng tươi
dịu. Dần dần số hoa tăng, màu hoa cũng đậm dần ròi hoà với mặt trời chói lọi, màu
phượng rực lên
Tuy nhiên vẫn phải kết hợp xen kẽ các hình thức nghẹ thuật khác nhau như:
Khai thác nghệ thuật dùng từ, khai thác nghệ thuật viết câu văn, khai thác nghệ
thuật xây dựng bố cục bài văn… có như thế phần khai thác nội dung bài mới đầy
đủ. Song nói như vậy cũng chưa thật đầy đủ nếu ta không nhắc đến biện pháp khai

thác biện pháp nghệ thuật tu từ. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tôi thấy các biện
pháp tu từ ở tiểu học cần tập trung khai thác là: Biên pháp so sánh, điệp từ, nhân
hoá….nếu khai thác tốt các biện pháp tu từ này thì giúp ích rất nhiều trong việc
hướng dẫn học sinh cảm thụ bài văn
Trong bài con chuồn chuồn nước tôi lại khai thác nghệ thuật so sánh.
“Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như
thuỷ tinh”. Đó là hình ảnh so sánh rất đẹp giúp người nghe hình dung được rõ hơn
về đôi cánh của chuồn chuồn
“Thân nhỏ và vàng như màu vàng của nắng mùa thu. Bốn cánh khẽ rung rung
như còn đang phân vân”.
Cách so sánh này rất mới lạ: màu vàng của thân chuồn chuồn với màu vàng của
nắng mùa thu. So sánh độ rung của cánh với tâm trạng phân vân của con người. Rõ
ràng với cách so sánh ấy tác giả đã làm cho bài văn trở nên sinh động hơn, hấp dẫn
người đọc hơn rất nhiều nhưng đồng thời nó lại rất thực giúp cho người đọc dễ
hình dung vẻ đẹp đáng yêu của chú chuồn chuồn.
VD: Trong bài thơ “Tre Việt Nam” tôi tập trung khai thác việc sử dụng điệp ngữ
“ Qua đi”, “ Mai sau” để nhấn mạnh và khẳng định sức sống bất diệt của những
phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam qua hình tượng cây tre.
VD: Trong bài “ Dòng sông mặc áo” tôi tập trung khai thác các biện pháp nhân
hoá thông qua các từ: mặc áo, điệu, thơ thẩn, nép, cười…để giúp học sinh thấy
được nét đẹp dịu dàng của dòng sông quê hương. Nét đẹp ấy mang đậm vẻ duyên
dáng của một người thiếu nữ’
c, Giảng ý và liên hệ thực tế
10
 Giảng ý: Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi khảng định một điều: giảng từ và giảng
ý thường phải gắn chặt với nhau. Ta phải giảng từ, khai thác hình ảnh để làm toát
lên ý của bài hay nói cách khác ta phải khai thác nghệ thuật để làm toát lên nội
dung.
VD: Trong bài “ Hạt gạo làng ta” tác giả có viết:
Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay.
Hỏi: trong khổ thơ trên tác giả nêu lên hạt gạo quê hương thơm ngon là nhờ đâu?
( câu hỏi về nội dung)
Học sinh sẽ trả lời( nhờ có vị phù sa, có hương sen thơm, có lời mẹ hát)
Hỏi: trong khổ thơ đó từ nào được lặp lại nhiều lần? Lặp lại như vậy để nhằm
mục đích gì?
( Từ có được lặp lại nhiều lần, để nhấn mạnh hương vị thơm ngon của hạt gạo
quê hương)
VD: cho học sinh đọc khổ thơ thứ 3 của bài “Hạt gạo làng ta”
“Hạt gạo làng ta………mẹ em xuống cấy”
Hỏi: Hạt gạo làng ta còn có gì đáng nhớ?
( Có bão tháng 7, có mưa tháng 3khó khăn do thiên nhiên gây ra)
Có giọt mồ hôi của mẹ rơi trong những ngày nắng nóng công sức vất vả của
mẹ đây là câu hỏi về nội dung
Tác giả dùng hình ảnh gì để diễn tả nỗi vất vả khó nhọc của người mẹ?đây là
câu hỏi về nghệ thuật
(Đó là: Cua ngoi lên bờ – mẹ em xuống cấy). Sự đối lập giữa hoạt động của con
cua với hoạt động của mẹ được rõ thêm qua cặp từ trái nghĩa lên – xuống để càng
giúp ta thấy rõ nỗi vất vả gian truân của mẹ cùng các bác xã viên khi làm ra hạt
gạo.
VD: Cho học sinh đọc khổ thơ cuối và hỏi câu cuối “ Hạt vàng làng ta” ý nói gì?
Câu hỏi nặng về giảng ý để toát lên nội dung bài.
(Hạt gạo rất quý vì được làm ra bởi công sức của biết bao người với bao thử
thách gay go quyết liệt. Hạt gạo xứng đáng được ví như hạt vàng.)
Tóm lại trong quá trình giảng dạy những câu hỏi giảng ý thường gắn với những

câu hỏi giảng từ và câu hỏi khai thác hình ảnh thành một hệ thống câu hỏi dẫn dắt
học sinh thâm nhập vào nội dung của bài để cảm nhận được cái hay cái đẹp của bài
văn từ đó học trò mới có cảm xúc thực sự và mới đọc hay bài tập đọc được.
 Liên hệ thực tế
11
Các bài tập đọc cung cấp cho học sinh những kiến thức phong phú về cuộc sống
muôn màu muôn vẻ của nhân dân ta. Những kiến thức đó muốn được cụ thể, sinh
động thì tuỳ từng bài mà giáo viên cần có sự liên hệ với thực tế cho phù hợp
VD: Trong bài tập đọc “Hạt gạo làng ta”có thể học sinh liên hệ nêu ra những
khó khăn mà cha mẹ và các bác xã viên phải trải qua để làm ra hạt gạo
( Khó khăn do thời tiết, khó khăn do sâu bệnh gây ra, chứ không còn khó khăn
do bom đạn kẻ thù nữa)
Qua đó mà ta giáo dục cho học sinh tình cảm trân trọng, nâng niu từng hạt lúa
và cũng muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình để làm ra hạt lúa
Rõ ràng chỉ sau khi giáo viên đã giảng thật kĩ nội dung bài, học sinh hiểu được
bài, thâm nhập vào nội dung cảu bài thì lúc đó các em mới có thể truyền tải tới
người nghe những ý nghĩ, tình cảm của tác giả ( Tức là lúc đó các em mới đọc diễn
cảm được).
Phần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm được tiến hành ngay sau khi tìm hiểu nội
dung của toàn bài.
+ Cách tiến hành hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm:
Tôi chép từng đoanh thơ lên bảng phụ. Sau khi hỏi học sinh về nội dung của
từng đoạn, tôi hỏi về cách đọc hay của từng đoạn sau đó cho học sinh khá hoặc cô
giáo đọc mẫu để thể hiện cách đọc hay của từng đoạn đó; cho học sinh khác phát
hiện ra những điểm nhấn, giáo viên gạch chân những từ cần nhấn và gọi học sinh
khác luyện đọc lại.
VD: ở đoạn 1 của bài Chợ tết tôi hỏi đoạn thơ này nói lên điều gì?
( Tả cảnh đẹp của thiên nhiên vào hôm có phiên chợ )
- Vậy khi đọc ta cần đọc như thế nào cho hay?
( Đọc chậm rãi, đồng thời nhấn giọng vào những từ có sức gợi tả)

Dải mây trắng / đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam / ôm ấp nóc nhà gianh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết
VD: ở đoạn thơ 2 tôi hỏi : ý của đoạn thơ này nói lên điều gì?
( Cảnh mọi người tưng bừng đi chợ tết )
- Vậy ta cần phải đọc như thế nào cho hay?
( Đọc với giọng vui, rộn ràng, thể hiện không khí vui vẻ, tưng bừng của người đi
chợ tết đồng thời nhấn vào những từ có sức gợi tả được in đậm.
Họ vui vẻ kéo hàng / trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ / chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy / bước lom khom
Cô yến thắm / che môI cười lặng lẽ
Thằng em bé / nép đầu bên yếm mẹ
Người hai thôn / gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh / đuổi theo sau
12
Cái gốc để giúp cho học sinh có thể đọc diễn cảm tốt là phải giúp học sinh cảm
thụ tốt nội dung bài tập đọc. Cách thức giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập
đọc chính là các bước tiến hành mà tôi đã nêu ra ở trên. Song học sinh có thể đọc
diễn cảm tốt hơn nếu như học sinh được nghe cô giáo mình đọc hay, đọc tốt. Cách
đọc của cô chính là một thứ phương tiện trực quan có hiệu quả nhất góp phần minh
chứng cho những gì mà cô và trò cùng thống nhất ở trên. Để rèn cho mình khả
năng đọc diễn cảm tôi thường soạn bài thật kỹ (bài soạn của tôi dựa trên những gợi
ý của sách giáo viên song cũng phải căn cứ vào tình hình thực tế của lớp mình về
trình độ nhận thức cũng như khả năng đọc của học sinh để có một bài soạn phù
hợp nhất, cân đối nhất giữa hai phần rèn đọc và cảm thụ). Xem lại toàn bộ nội
dung bài soạn trước khi lên lớp để nắm chắc nội dung bài, thẩm thấu toàn bộ nội
dung của bài và nắm được suy nghĩ, tình cảm của tác giả được gửi gắm trong bài
văn và đặt mình vào hoàn cảnh của tác giả để nhằm truyền tới người nghe hiểu biết

của mình và tình cảm của tác giả. Với các bước tiến hành rèn luyện như vậy cùng
với sự kiên trì tập luyện mà mỗi lần tôi đọc mẫu đã thực sự cuốn hút các em chú ý
vào nội dung của bài.
Qua nghiên cứu tìm tòi và áp dụng biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh
trong nhiều năm tôi thấy rất vui mừng vì khả năng đọc diễn cảm của lớp tôi đã có
những tiến bộ rõ rệt. Trong năm học này theo số liệu tôi mới tiến hành điều tra
ngày 15 tháng 11 ở lớp tôi như sau:
Khả năng
đọc diễn cảm
Mức độ đạt
Tốt Khá Trung bình Chưa đạt
10/31 em 13/31 em 5/31 em 3/31 em
Kết thúc vấn đề
I. Bài học kinh nghiệm
1. Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tôi thấy muốn rèn đọc cho học sinh có
hiệu quả thì người giáo viên phải nắm chắc phương pháp dạy đọc bao gồm:
a, Phương pháp đọc rõ văn xuôi: Đó là hướng dẫn học sinh đọc chính xác (phát
âm đúng, đọc đúng những tiếng có vần khó, những tiếng có dấu thanh mà học sinh
hay nhầm lẫn, hướng dẫn học sinh biết đọc ngắt theo cụm từ, đọc đúng các kiểu
câu )
b, Phương pháp dạy đọc rõ văn vần ( đó là cách ngắt nhịp các thể thơ )
c, Phương pháp dạy đọc to và đọc thầm: Cần phải lưu ý có đọc to đúng thì đọc
thầm mới đúng được do đó khâu hướng dẫn đọc đúng phải được tiến hành trước và
phải làm thật tốt. Trong giờ tập đọc, một em được chỉ định đọc to thì đồng thời
giáo viên cũng yêu cầu các em khác luyện đọc thầm theo bạn. Như vậy trong 1 giờ
tập đọc có khoảng 15 em được đọc thì cả lớp cũng được luyện đọc thầm 15 lần
d, Phương pháp dạy đọc diễn cảm: Cơ sở để giúp học sinh luyện đọc tốt là phải
hiểu và cảm thụ được nội dung của bài. Đồng thời phải tạo cho các em một tâm
trạng bình tình, tự nhiên và thởi mái khi đọc. Các em không thể đọc diễn cảm được
13

nếu như trong một trạng thái sợ sệt, hồi hộp, lo lắng. Vận dụng tốt những phương
pháp đã dạy đọc như đã nêu ở trên là nhằm mục đích đạt dược 4 yêu cầu về đọc đó
là: đọc chính xác, đọc lưu loát, đọc thầm, đọc diễn cảm.
Bốn yêu cầu đó phải được thâm nhập vào nhau, hỗ trợ nhau mà không nên tách
rời thì mới có thể nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc
2. Trong một giờ tập đọc, giáo viên cần khéo léo tổ chức để thu hút tất cả học
sinh đều làm việc với sách giáo khoa, chú ý vào nội dung bài tập đọc.
Muốn làm được điều đó, tôi nghĩ chúng ta cần:
a, Phải xây dựng cho lớp một nề nếp học tập nghiêm túc, có tính kỉ luật cao
b, Giáo viên phải luyện cho mình khả năng đọc mẫu thật tốt để cuốn hút học
sinh chú ý vào nội dung bài.
c, Trong một giờ tập đọc, giáo viên cần phải coi trọng cả hai yêu cầu đó là rèn
đọc cho học sinh và giúp các em cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc. Hai yêu cầu này
cần phải được đan quyện vào nhau, bổ xung hỗ trợ lẫn nhau nên không thể tách
bạch từng phần riêng lẻ. Vì thế khi soạn bài, giáo viên cần lựa chọn và đưa ra hệ
thống câu hỏi sao cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp. Có câu hỏi
khó dành cho học sinh khá giỏi, có câu hỏi dễ dành cho học sinh yếu để mọi học
sinh đều có cơ hội thể hiện khả năng của mình mà không cảm thấy nhàm chán
hoặc quá sức
d, Cần sử dụng có hiệu quả nhiều hình thức đọc khác nhau: đọc to, đọc thầm,
đọc mấp máy môi, đọc nối tiếp , đọc phân vai….để thay đổi không khí của lớp
học, thu hút học sinh vào bài.
e, Để tạo không khí vui tươi, hồn nhiên, nhẹ nhàng, sinh động trong các giờ học
tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Thả thơ” được dùng khi dạy các bài
tập đọc là bài thơ; trò chơi “ Ai tinh ai nhanh” được dùng khi dạy các bài tập đọc
là văn xuôi.
Những trò chơi này tuy chỉ tiến hành trong khoảng thời gian từ 3- 4 phút nhưng
rất hấp dẫn đối với học sinh và mang lại kết quả tốt cho bài dạy
Rèn luyện kĩ năng cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4, lớp 5 nói
riêng quả là một công việc khó khăn. Giáo viên phải có kiến thức vững, phải đọc

mẫu hay và phải kiên trì , bền bỉ, tâm huyết với nghề thì mới thành công được
II/ ý kiến đề xuất:
- Đề nghị cấp phòng sau mỗi đợt chấm sáng kiến kinh nghiệm nên phổ biến những
kinh nghiệm giảng dạy có chất lượng để giáo viên chúng tôi học tập kinh nghiệm
giảng dạy của đồng nghiệp nhất là kinh nghiệm giảng dạy môn Tiếng Việt
- Sau mỗi đợt thi giáo viên giỏi chúng tôi rất mong ban chỉ đạo hội thi có những
thống nhất một cách cụ thể chi tiết về phương pháp giảng dạy các phân môn
- Chúng ta đã tổ chức hội thi viết chữ đẹp với giáo viên và học sinh, có nên chăng
ta tổ chức thêm hội thi đọc hay với giáo viên và học sinh để tăng cường ý thức
luyện đọc hay ở từng giáo viên và học sinh
-
Kết luận chung
14
Tập đọc là một môn khó dạy. Cái khó đó do chủ quan người dạy và cũng do
khách quan của bộ môn tạo nên. Phía chủ quan người dạy phải có kiến thức rộng
về ngữ văn, phải có trình độ nhất định về tư tưởng, tình cảm và phải nắm chắc
phương pháp bộ môn. Phía khách quan, tập đọc là một phân môn khó dạy vì tính
chất phong phú của nó. Nếu chỉ chú ý tính khoa học của bài như phân tích ngữ âm,
câu, từ thì bài dạy sẽ khô khan . Nếu khai thác tính nghệ thuật mà không dựa cơ sở
ngôn ngữ thì cũng dễ tràn lan. Do vậy muốn dạy tốt phân môn tập đọc chúng ta
cần phải khồng ngừng học tập để nâng cao trình độ nhận thức của bản thân, nắm
vững phương pháp giảng dạy bộ môn, kiên trì luyện cho mình kỹ năng đọc tốt
cùng với tâm huyết của mình dành cho nghề tôi nghĩ chúng ta sẽ có những giờ dạy
thành công.


15

×