Đề 12: Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy
rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vào
một tên cò mồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được
Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực
ra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bị
xô đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hết
được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm
tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy
để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.
Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong
lòng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó
lại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn
xoáy sâu vào tâm can nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên
phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những
đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.
Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người,
không một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng
lúc này:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy:
“Trống trải, đơn côi”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”
Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền
dưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của
chang và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.
Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li
không nói với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tinh sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba
xuân”, cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn
cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già
yếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ:
“Xót người tựa của hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi
phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không
được phụng dưỡng sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý
Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn
toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quang
lấy nàng.
Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôi
buồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với
mình, đối với người con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh không
sao thoát được!
Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều
lại quay về với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận
hiện tại của chính mình.
Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí
của nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của
mình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du
mỗi lúc lại càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo
“Buồn trông”
...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
...”Buồn trông ngọn nước mới sa”
...”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
..”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”
Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó
tả, cũng có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi miết
cuốn trôi những càng hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”,
“sóng xô”....giữa cái mênh mông của biển trời, lại vào
lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền,
một cách buồng thấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa
xa”.
Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với
tâm trạng buồn chán về cuộc đời, về số phận của mình.
Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời
trôi nổi, bấp bênh thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-
một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái
hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”
Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái
thân phận bé nhỏ bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm
thanh khủng khiếp đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông....” của
Kiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảng
đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai
lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.
Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bút
pháp Nguyễn Du: cảnh và tình bao giờ cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình,
trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn ba ngàn câu (3254 câu).
Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là
đoạn thơ được nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà
thơ, nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đối với
con người, đối với cuộc đời.