Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

BẰNG LÝ LUẬN CỦA HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI, HÃY PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.42 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: BẰNG LÝ LUẬN CỦA HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI,
HÃY PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỐI
VỚI CÔNG CUỘC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM
GV hướng dẫn : Nguyễn Thị Hồng Vân
Lớp: Kỹ thuật viễn thông
Hà Nội, Tháng 3/2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, nền
kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch
căn bản và tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Với những tác động mạnh
mẽ của các tiến bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt của công nghệ thông tin và truyền
thông, thế giới đang biến chuyển tới một nền kinh tế và xã hội mới mà thông tin và tri
thức được xem là nguồn lực chủ yếu. Điều đó xuất phát từ: Công cuộc đổi mới bắt đầu
năm 1986 đã tác động tích cực đến nhiều ngành kinh tế và do hội nhập kinh tế thế giới,
đặc biệt năm 2006 nước ta ra nhập tổ chức Thương mại thế giới – WTO đã mở cửa nền
kinh tế tạo ra nhiều cơ hội phát triển, đồng thời đặt nền kinh tế nước ta trước vô vàn thử
thách.
Hòa nhập vào sự phát triển chung của nhân loại, Việt Nam đang bước vào một
thời kì phát triển mới – thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.Bên cạnh thành
tựu đã đạt được, chúng ta còn nhiều khó khăn, hạn chế cần khắc phục. Cụ thể là trình độ
công nghệ lạc hậu, tiềm lực khoa học công nghệ yếu cả về nguồn nhân lực khoa học
công nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt động khoa học công nghệ, cơ chế quản lý khoa học
công nghệ còn yếu kém, ít gắn bó với sản xuất kinh doanh.Chính vì vậy việc áp dụng
khoa học công nghệ vào công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta là tất yếu.Chỉ có như vậy
mới đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành một nước có nền kinh tế phát
triển “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “ Khoa học công


nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” (Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII).
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng quan
trọng. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học phát triển và đạt được nhiều thành tựu, khoa học
đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất, trong đời sống và
trở thành “ lực lượng sản xuất hàng đầu là yếu tố không thể thiếu được để cho lực lượng
sản xuất có động lực tạo nên những bước phát triển nhảy vọt. Có thể nói rằng : “ khoa
học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Trước tình hình
2
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
đó cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và Nhà nước ta cần liên tục tiến hành và
đẩy mạnh công cuộc đổi mới và toàn diện đất nước, trong đó đổi mới xã hội chính trị
đóng vai trò then chốt và chủ đạo mang tính cấp bách bởi đất nước phát triển thì cần phải
có một nền chính trị và xã hội ổn định thì công cuộc đó mới có khả năng thành công.
Nhưng để đổi mới xã hội thì việc quan trọng là phải nâng cao tầng nhận thức của người
dân. Chính vì vậy tìm hiểu các hình thái ý thức xã hội sẽ cho phép ta vận dụng vào thực
tiễn của xã hội đất nước ta để cho công cuộc đổi mới của đất nước ta thành công.
Với nghĩa đó sau một thời gian nghiên cứu và học tập cùng với sự hướng dẫn nhiệt
tình của các thầy cô giáo, nhóm em đã quyết định chọn đề tài: "Bằng lý luận của hình
thái ý thức xã hội, hãy phân tích vai trò của Khoa học công nghệ đối với công cuộc
đẩy mạng Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở Việt Nam". Do thời gian có hạn và kiến
thức bản thân nhóm em còn nhiều hạn chế do đó bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót.
Vậy nhóm em kính mong sự chân thành góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.
3
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
CHƯƠNG I – HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
1.1. Tồn tại xã hội
1.1.1.Định nghĩa tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là cái hiện dùng để chỉ đời sống vật chất và những điều kiện sinh

hoạt vật chất của xã hội.
Khái niệm tồn tại xã hội bao quát lĩnh vực hoạt động vật chất, nó vạch rõ những
quan hệ vật chất cùng với những điều kiện vật chât khác tạo nên hoàn cảnh xã hội trong
hoạt động của con người.
Như thế có thể nói "tồn tại xã hội là một phạm trù triết học". Và với khái niệm về
tồn tại xã hội thì ta có thể nhận thấy tồn tại xã hội là một khái niệm rất rộng. Nói tồn tại
xã hội là một phạm trù triết học tức là ta muốn phân biệt tồn tại xã hội với tư cách là một
phạm trù triết học, là kết quả của sự khái qúat và trừu tượng, với những quan hệ vật chất
cụ thể, với những hạt nhỏ cảm tính. Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản:
PTSX vật chất.
Điều kiện tự nhiên: (hoàn cảnh địa lý)
Điều kiện dân cư: (dân số và mật độ dân số)
Trong đó yếu tố PTSX vật chất đóng vai trò quan trọng nhất chi phối các yếu tố
còn lại. Tồn tại xã hội không đứng một mình mà xong hành với nó là ý thức xã hội, và
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tuy nhiên giữa các trường phái khác nhau thì sự
đánh giá về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội khác nhau. Trong đó theo
các nhà chủ nghĩa duy tâm thì cho rằng tinh thần tư tưởng là ngọn nguồn của mọi hiện
tượng xã hội, quyết định sự phát triển của xã hội. Nghĩa là ý thức xã hội quyết định tồn
tại xã hội. Còn theo các nhà chủ nghĩa duy vật thì ngược lại bởi theo lập luận của họ thì
cho rằng tồn tại xã hội là tính thứ nhất, còn ý thức xã hội là tính thứ hai tuy nhiên họ cũng
cho rằng sau khi ý thức xã hội đã gia đời thì nó có tác động trở lại với tồn tại xã hội. Ta
4
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
hãy lấy tôn giáo làm ví dụ ta sẽ thấy rằng: Một số những tư tưởng và quan điểm gia đời
từ thời cổ vẫn có thể tiếp tục tồn tại hàng nghìn năm sau khi những điều kiện đẻ ra nó đã
mất đi. Như thế có nghĩa là ta không nên cứng nhắc phải nói tồn tại xã hội hay ý thức xã
hội là cái có trước mà nên hiểu theo từng hoàn cảnh sự vật, vật chất cụ thể mới có thể
tránh được những sai lầm trong đánh giá khách quan.
1.1.2.Yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là một phạm trù triết học rộng lớn nó bao gồm tất cả những lĩnh vực

của hoạt động vật chất và được thể hiện qua 3 yếu tố cơ bản.
* Phương thức sản xuất vật chất:
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có không do ai sinh ra, và không thể tiêu diệt
được, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người. Vật
chất là một thực tại khách quan. Tuy nhiên trong giáo trình triết học lại có phạm trù
phương thức sản xuất vật chất vậy phương thức sản xuất vật chất là gì.
Phương thức sản xuất vật chất là những phương cách, dụng cụ, công nghệ… để
tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của chính bản thân con người.
Điều này cũng có nghĩa là phương thức sản xuất chính là yếu tố đóng vai trò cực kỳ quan
trọng đối với tồn tại xã hội. Mặt khác nếu không có phương thức sản xuất thì rõ ràng sẽ
không thể tồn tại xã hội. Và như thế cũng có nghĩa phương thức sản xuất sẽ chi phối các
yếu tố còn lại của tồn tại xã hội.
* Điều kiện tự nhiên:
Đây là một yếu tố cần và đủ để hình thành tồn tại xã hội. Và để tồn tại xã hội phát
triển ngày càng cao thì yếu tố điều kiện tự nhiên này rất quan trọng. Nó phải phù hợp và
tạo điều kiện thuận lợi cho tồn tại xã hội và để có điều kiện thuận lợi phát triển thì tồn tại
xã hội cần phải có yếu tố thứ ba là.
* Điều kiện dân cư:
5
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
Cũng có vai trò giống như điều kiện tự nhiên, nó cũng có ảnh hưởng đến sự phát
triển của tồn tại xã hội. Và nếu có được một điều kiện tự nhiên, dân số thuận lợi cộng với
một phương thức sản xuất vật chất hợp lý thì sẽ tạo ra một xã hội tốt đẹp với mặt tích cực
mà nó đang và sẽ cần phải đạt đến.
1.2.Ý thức xã hội.
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác
nhau bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống tư tưởng lý luận …
Nói theo nghĩa rộng thì ý thức xã hội bao gồm những quan điểm chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… của xã hội , bao gồm tri thức khoa học

(kể cả khoa học tự nhiên ) và đặc điểm dân tộc về bản chất tâm lý của các giai cấp xã
hội. Nói theo nghĩa tương đối hẹp thì khái niệm ý thức xã hội chỉ là tư tưởng, quan điểm
và thuyết xã hội phản ánh tồn tại xã hội và chế độ xã hội.
Duy vật lịch sử dạy chúng ta rằng ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội của điều
kiện sinh hoạt vật chất xã hội. Tồn tại xã hội của người ta thế nào, sinh hoạt vật chất của
người ta như thế nào thì ý thức xã hội của người ta cũng như thế.
Ý thức xã hội là một hiện tượng tinh thần, một lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó
tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Ở
thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ thì ý thức xã hội còn ở trình độ thấp, nghèo nàn về nội
dung và hình thức phản ánh. Nhưng càng về sau thì trình độ kinh tế - xã hội phát triển cả
về quy mô, tốc độ và chiều sâu nên ý thức xã hội với tính cách là phản ánh tồn tại xã hội
cũng trở nên phong phú và phức tạp.
1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là một hiện tượng phức tạp, tuỳ theo mục đích, trình độ phản ánh mà
người ta chia ra thành các cấp độ, các bộ phận khác nhau.
* Ý thức thông thường và ý thức lý luận.
6
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
- Ý thức thông thường phản ánh cái đời sống vật chất tự nhiên hàng ngày của
chúng ta hình thành trực tiếp trong đời sống xã hội. Nó chưa có tính hệ thống, tính hợp lý
nhưng nó có đầy đủ chi tiết của cảm giác sống.
Ý thức lý luận là toàn bộ những tư tưởng phản ánh bản chất, tính quy luật của sự
vật và hiện tượng, quan điểm xã hội được hệ thống hoá thành các hệ thống cụ thể như:
Triết học, đạo đức, nghệ thuật…ý thức lý luận có tính hệ thống, tính hợp lý, tính trừu
tượng khái quát.
* Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
- Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức thông thường bao gồm: Tình cảm,
tâm trạng, tập quán, thói quen của con người được hình thành một cách tự phát dưới tác
động trực tiếp của những điều kiện sống hàng ngày của họ. Tâm lý xã hội phản ánh bề
mặt của tồn tại xã hội, chưa có khả năng vạch ra bản chất các mối quan hệ vật chất xã

hội, nguyên nhân sinh ra các mối quan hệ đó cũng như khuynh hướng biến đổi của
chúng. ở tâm lý xã hội những yếu tố trí tuệ thường đan xen với những yếu tố tình cảm.
Hệ tư tưởng là một bộ phận ở một cấp độ ý thức lý luận. Đây là những quan điểm
tư tưởng đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết phản ánh lợi ích của
một giai cấp nhất định. Với tính cách là cái phản ánh tồn tại xã hội, hệ tư tưởng thể hiện
được đánh giá, phân tích các hiện tượng xã hội, các quan hệ xã hội … Về thực chất nó
phản ánh mục đích, nguyện vọng của giai cấp, vai trò, xứ mệnh của giai cấp trong quan
hệ với các giai cấp khác, với toàn xã hội.
Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực
tiễn, cải tạo xã hội của giai cấp. Hệ tư tưởng là cái phản ánh tồn tại xã hội thông qua quan
điểm của một giai cấp nên trong thực tế có hệ tư tưởng là khoa học, có hệ tư tưởng là
không khoa học.
Tâm lý xã hội là hệ tư tưởng có chung nguồn gốc nhưng khác nhau về chất trong
trình độ phản ánh. Tuy vậy, giữa chúng có tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
7
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
* Ý thức xã hội và ý thức cá nhân.
Ý thức xã hội là ý thức của con người, tồn tại và phát triển thông qua ý thức của
các cá nhân. Nhưng mỗi con người đều sống trong một xã hội nhất định nên ý thức cá
nhân của mỗi người đều mang những nội dung nhất định của ý thức xã hội. Tuy vậy giữa
ý thức xã hội và ý thức cá nhân không có sự đồng nhất tuyệt đối.
Ý thức cá nhân là ý thức của mỗi con người sống trong xã hội. Nó được hình
thành và phát triển trên cơ sở môi trường, điều kiện sống của mỗi cá nhân cụ thể. Do kết
quả của sự giáo dục, rèn luỵên, trường đời trải qua… ý thức cá nhân vươn lên tầm khái
quát, phản ánh cái chung, tính quy luật vận động xã hội khi đó ý thức cá nhân chuyển hoá
thành ý thức xã hội.
* Tính giai cấp của ý thức xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có địa vị xã hội khác nhau, vai trò xã hội
khác nhau điều kiện sinh sống khác nhau… nên ý thức xã hội mang tính giai cấp. Tính
giai cấp đó được thể hiện ở tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

* Tính dân tộc của ý thức xã hội.
Mỗi dân tộc có hoàn cảnh sống riêng, truyền thống riêng, lịch sử phát triển
riêng… nên ý thức xã hội mang tính dân tộc. Khi ý thức của một giai cấp phản ánh được
lợi ích dân tộc thì tính giai cấp và tính dân tộc của ý thức xã hội có sự phù hợp. Trường
hợp ngược lại thì không phù hợp, mâu thuẫn.
* Tính nhân loại của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội còn mang tính nhân loại. ở đây những giá trị được khẳng định trong
quá trình phát triển của nhân loại. Trong tâm lý thể hiện những đặc điểm mang tính loài
(loài người), trong hệ tư tưởng phản ánh tính hiện thực, xu hướng phát triển của lịch sử
nhân loại.
8
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
1.3. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Đã có không ít những nhận xét , đánh giávề mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội. Có những nhận xét rất chính xác và hoàn chỉnh nhưng bên cạnh đó không ít
những nhận xét sai lầm về mối quan hệ trên mà điển hình là sự đánh giá của những nhà
duy tâm.
Những người duy tâm đi tìm nguồn gốc sinh ra tư tưởng xã hội, học thuyết chính
trị, quan điểm tôn giáo, nghệ thuật và các thứ quan điểm khác trong lĩnh vực ý thức, trong
lĩnh vực tư tưởng, nhà lý luận tức là những người sáng tạo ra tư tưởng và lý luận đó. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử dạy chúng ta rằng: Chúng ta không nên đi tìm nguồn gốc chính để
ra tư tưởng xã hội, nguồn gốc thực sự làm cho sinh hoạt tinh thần xã hội hình thành,
trong đầu óc của người ta, mà nên đi tìm trong điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội. Chỉ có
đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật, chúng ta mới có thể hiểu được tại sao trong các
xã hội khác nhau, trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử lại có những tư
tưởng xã hội và quan điểm khác nhau, tại sao những quan điểm và tư tưởng ấy lại thay
đổi theo sự thay đổi của điều kiện sinh hoạt của chúng ta.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. ý thức xã hội vĩnh viễn không thể là cái gì
khác, mà chỉ có thể là phản ánh của tồn tại xã hội. Ngay đến cả quan niệm tôn giáo mơ
hồ và hoang đường của người ta tuy phản ánh xuyên tạc nhưng rút cục cũng là phản ánh

của điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội.
Ý thức xã hội của người ta lúc nào cũng phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của
người ta. còn muốn biết những điều kiện đó phản ánh như thế nào, thì phải xem trình độ
phát triển của lịch sử như thế nào? Phải xem phương thức sản xuất ra làm sao.
Cùng với thời gian đã qua đi, nhất là từ khi sinh ra phân công xã hội, từ khi xuất
hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp, từ khi lao động trí óc tách rời lao động chân tay thì
toàn bộ sinh hoạt xã hội của người ta gồm cả sinh hoạt tinh thần, dần dần trở nên phức
tạp. Nhà nước gia đời pháp quyền cũng từ đó mà xuất hiện. Các hình thái ý thức xã hội
mới sinh ra và phát triển nên: Quan điểm chính trị, quan điểm pháp quyền, cùng khoa học
9
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
và triết học xuất hiện; nghệ thuật một yếu tố của sinh hoạt tinh thần tức văn hoá cũng
phát triển lên và phân hoá thành các loại nghệ thuật.
Những người mang tư tưởng duy vật kinh tế tầm thường hoá và giản đơn hoá chủ
nghĩa Mác, định trực tiếp tìm nguồn gốc sinh ra quan điểm triết học, tôn giáo, đạo đức,
nghệ thuật… của người ta trong quá trình sản xuất, dùng trình độ kỹ thuật để giải thích
tính chất và phương hướng phát triển của nghệ thuật, triết học, đạo đức. Thái độ tầm
thường đối với các hiện tượng sinh hoạt tinh thần như thế là đi ngược lại và đối địch với
chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa duy vật lịch sử dạy chúng ta rằng ý thức xã hội, hệ thống tư
tưởng xã hội và hệ thống tư tưởng của giai cấp họp thành xã hội là do sự phát triển của
sản xuất, do hoạt động sản xuất của xã hội quy định, nhưng không phải quyết định trực
tiếp mà thông qua cơ sở kinh tế của xã hội, thông qua quan hệ sản xuất. í thức xã hội
không phản ánh một cách trực tiếp và tức khắc sự biến đổi của trình độ phát triển sức sản
xuất, mà phản ánh sau khi kinh tế biến đổi thông qua những chiết quang của những biến
đổi trong sản xuất phản chiếu ra những biến đổi trong chế độ kinh tế xã hội. Đồng thời,
một số hình thái ý thức xã hội không những trực tiếp chịu ảnh hưởng có tính quyết định
của cơ sở kinh tế mà còn chịu ảnh hưởng của cơ sở kinh tế thông qua quan hệ chính trị xã
hội, thông qua lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp, thông qua những hình thái ý thức xã
hội khác gần gũi cơ sở xã hội hơn.
Trong sự phát triển của mọi hình thái kinh tế xã hội (như triết học khoa học nghệ

thuật…), ở mỗi nước (và cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế, thì cũng là trên toàn
thế giới ) đều có truyền thống tư tưởng nhất định, đều có tính kế thừa nhất định. Ví dụ
như ở Nga, truyền thống của Chủ nghĩa duy vật khoa học bắt đầu tư Lô-mô-nô-xốp và
La-di-xep qua Ghec - xen. Bê- lin- ski đến Séc - ni- sếp- sky, Đa-bơ-ra-lu-bốp. Chủ nghĩa
Lênin ra đời nước Nga, nhưng không phải chỉ có chỉ do điều kiện kinh tế xã hội ở Nga
đẻ ra, mà còn do điều kiện kinh tế xã hội của quốc tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, và
điều kiện yêu cầu của phong trào công nhân thế giới đẻ ra. Chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa
Mác, tức là chủ nghĩa Mác được phát triển một cách có sáng tạo trong điều kiện cận đại.
Trong lĩnh vực văn học, cũng có quan hệ kế thừa. Ví dụ như giữa những sáng tác của
10
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
Putskin, Gôgông… đều có tính kế thừa. Giữa văn học cổ điển Nga vĩ đại thời xưa và văn
học Xô viết cũng có tính kế thừa. Nếu khi dùng quan điểm cách mạng để phê phán và
chiến thắng những quan điểm nghệ thuật, nhận thức khoa học và hệ thống triết học cũ kỹ,
mà không giữ lấy tất cả những cái gì chân thực và tiến bộ mà nhân loại đã đạt được trong
thời kỳ lịch sử trước, thì nghệ thuật, khoa học, triết học cũng không thể tiếp tục phát triển
được. Vì vậy Đảng cộng sản dạy chúng ta, phải tiếp thu tài sản văn hoá vĩ đại thời xưa để
lại một cách có phê phán, nhất là kho tàng quý báu của nghệ thuật cổ điển Nga tiên tiến,
và những kho tàng nghệ thuật tiên tiến quý giá do các dân tộc khác sáng tạo ra. Nếu nắt
bắt tất cả những kho tàng văn hoá tiên tiến do người xưa sáng tạo ra mà không phê phán,
thì không thể sáng tạo được văn hoá mới, tiên tiến, văn hoá xã hội chủ nghĩa của giai cấp
vô sản. Khi phê phán những kẻ tầm thường hoá chủ nghĩa Mác gọi là "phái văn hoá vô
sản" Lênin đã nói rằng:
"Văn hoá vô sản không phải là trên trời rơi xuống, và cũng không phải do những
người tự xưng là chuyên gia văn hoá vô sản nghĩ ra. Nếu như thế tức là nói láo. Văn hoá
vô sản phải là kết quả phát triển tất nhiên của những kho tàng tri thức mà loài người
sáng tạo ra dưới áp bức của TBXHCN, xã hội địa chủ, xã hội quan liêu ".
Do đó có thể thấy rằng không nên dùng tư tưởng để giải thích sự phát triển của
triết học, khoa học, nghệ thuật và những hình thái ý thức xã hội khác, không nên quy sự
phát triển ấy thành "quan hệ huyết thống của tư tưởng" như những người duy tâm đã làm.

Phải tìm nguồn gốc tư tưởng ở tồn tại xã hội của người ta, ở tồn tại giai cấp của người ta
và ở nền kinh tế của một xã hội nào đó. Nhưng đồng thời phải chú ý đến mối liên hệ và
tính kế thừa trong sự phát triển của các hình thái kinh tế. KHông nên giản đơn hoá sự vật,
không nên đi trực tiếp từ kinh tế nhất là đi từ quá trình sản xuất để suy luận tất cả những
hiện tượng tư tưởng.
Tính độc lập tương đối của sự phát triển các hình thái ý thức xã hội đã đem lại một
nhận thức sai trong đầu óc những nhà tư tưởng duy tâm: Cho rằng quá trình tư tưởng
không lệ thuộc vào điều kiện sinh họat vật chất của xã hội, không lệ thuộc vào đấu tranh
11
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
giai cấp. Sở dĩ nhận thức sai lầm ấy được củng cố trong ý thức của họ, là vì hình thái ý
thức xã hội tuy là phản ánh của điều kiện sinh hoạt vật chất nhưng sự phát triển của nó lại
đi sau sự biến đổi của sinh hoạt vật chất. Trước hết tồn tại xã hội biến đổi, rồi sau đó ý
thức xã hội mới biến đổi theo hoặc nhanh hoặc chậm.
Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quy định nhưng nó không hoàn toàn thụ động mà
có tính năng động, có tính độc lập tương đối trong sự phát triển của mình. Tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội được biểu hiện ở những mặt sau:
*Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
ý thức xã hội thường tồn tại hơn so với tồn tại xã hội . Về mặt nhận thức ý thức xã
hội là cái phản ánh, đặc biệt là phản ánh các hiện tượng, quy luật xã hội đòi hỏi phải có
thời gian. Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống. Do những lực lượng xã
hội, giai cấp lỗi thời tìm mọi cách duy trì những tư tưởng lỗi thời lạc hâụ chống lại ý thức
xã hội tiến bộ của những lực lượng cách mạng.
Sở dĩ ý thức xã hội lạc hậu hơn tồn tại xã hội là vì: Một là ý thức là phản ánh của
tồn tại, hai là một số hình thái ý thức nhất định và những tư tưởng bao gồm trong đó, nhất
là những tư tưởng tôn giáo và những quy định về đạo đức, những phong tục tập quán…
Bị tôn giáo thần thánh hoá đi, đều có tính chất bảo thủ. Không những tôn giáo và tư
tưởng tôn giáo có tính chất bảo thủ mà các hình thái ý thức xã hội khác cũng có. Các thứ
tư tưởng xã hội của những lực lượng xã hội đã thối nát, vì sức mạnh của tập quán nên
được củng cố và bảo tồn về mặt truyền thống, trở ngại cho sự phát triển của quan điểm

mới và tư tưởng mới. Nguyên nhân thứ ba làm cho ý thức lạc hậu hơn tồn tại xã hội là lực
lượng xã hội thối nát muốn giữ lấy tư tưởng cũ. Thế lực phản động dựa vào những cơ
quan mà chúng nắm giữ, để nâng đỡ cho những tư tưởng phản động cũ kỹ.
Tình trạng lạc hậu lại càng có trong loại ý thức hàng ngày của người ta, loại ý thức
này sinh ra, hình thành và biến đổi một cách tự phát do ảnh hưởng của điều kiện sinh
hoạt xung quanh. ý thức khoa học thì lại khác với ý thức hàng ngày, nó không phải sinh
ra một cách tự phát, mà do những nhà tư tưởng, những học giả đã tìm được quy luật phát
12
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
triển của giới tự nhiên, của xã hội và của sự suy nghĩ, nghiên cứu ra. Sự suy nghĩ về lý
luận nếu nó là khoa học thì trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển và nhận thức
được xu thế dần dần trưởng thành ra trong sinh hoạt và hiện thực, thì nó có thể làm cho
chúng ta dự kiến được những sự việc nhất định sẽ phát sinh ra sau này. Sau khi tìm ra quy
luật phát triển của xã hội TBCN, Mác đã từng nói trước rằng chủ nghĩa tư bản tất nhiên bị
duyệt vong, chủ nghĩa xã hội tất nhiên thắng lợi. Dự kiến khoa học ấy đã được toàn bộ
tiến trình phát triển của xã hội chứng thực.
* Tính tổ chức của tư tưởng tiến bộ, khoa học.
Trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt là những tư
tưởng khoa học có thể đóng vai trò tiên phong vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,
dự kiến được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người,
hướng hoạt động vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển của đời sống
vật chất của xã hội đạt ra. Nhưng điều này không có nghĩa ý thức xã hội không bị quyết
định bởi tồn tại xã hội. Vấn đề là ở chỗ ý thức xã hội đã phát hiện ra khuynh hướng phát
triển của tồn tại xã hội và phản ánh ít nhiều chính xác khuynh hướng đó, đem lại khả
năng sử dụng sức mạnh cải tạo của những tư tưởng xã hội tiên tiến đối với tồn tại xã hội.
* Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội.
Những quan điểm và lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất
chống không, mà được tạo ra trên cơ sở những tư liệu lý luận của các thời đại trước,
nghĩa là có quan hệ kế thừa với ý thức tư tưởng của thời đại trước. Tính kế thừa của ý
thức xã hội thể hiện rõ trong tập quán, truyền thống văn hoá của xã hội. Trong xã hội có

giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội bao giờ cũng gắn liền với giai cấp của nó. Những
giai cấp tiên tiến dựa vào những lý luận do xã hội cũ để lại, vớt bỏ những tư tưởng lỗi
thời không phù hợp với thời đại mình. Còn các giai cấp, các lực lượng xã hội lỗi thời,
phản tiến bộ thì tìm mọi cách làm sống lại những gì có liên quan đến lợi ích của mình, bất
kể những tư tưởng đó đã lạc hậu đến đâu và như thế nào.
13
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
* Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát
triển của chúng.
Ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể: ý thức chính trị, phong
tục tập quán đạo đức, triết học, nghệ thuật tôn giáo, khoa học. Mỗi hình thái ý thức xã hội
phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội nhưng chúng
có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội với tính cách là một
chỉnh thể phản ánh tồn tại xã hội dưới những góc độ khác nhau, nó mang trong mình
nhiều yếu tố phức tạp, bởi vậy chúng ta không thể giải thích một cách đơn tuyến, trực
tiếp tính chất của một hình thái ý thức xã hội từ tồn tại xã hội được.
Ở mỗi thời đại tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà thường có hình thái ý
thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu. ở chúng biểu hiện tập trung ý thức của thời đại và
tác động mạnh đến hình thái ý thức xã hội khác.
* Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Các nhà xã hội học tư sản vu khống chủ nghĩa duy vật lịch sử là bỏ qua tác dụng
của ý thức, tức là "nhân tố tư tưởng" trong sự phát triển của xã hội, hơn nữa còn trách
những người Mác xít quy kết toàn bộ sự phát triển của xã hội thành sự vận động tự động
của kinh tế. Những lời trách móc đó nếu không phải là kết quả của sự mê muội của các
nhà xã hội học tư sản thì là kết quả của việc họ cố ý xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa
Mác.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử vốn thừa nhận, và ngày nay vẫn thừa nhận tác dụng to
lớn của tư tưởng xã hội trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy mà Mác và Ăngghen,
Lênin và Sta-lin mới suốt đời biến cả sức lực mình cho việc nghiên cứu toàn diện lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ thống tư tưởng tư sản, và giáo dục tinh thần ý thức xã hội

chủ nghĩa cho giai cấp vô sản. Cũng chính vì thế mà tất cả những chính Đảng theo chủ
nghĩa Mác mới đặc biệt chú ý đến cuộc đấu tranh tư tưởng và lý luận với hệ thống tư
tưởng tư sản thù ghét giai cấp công nhân. Ngay từ năm 1843 Mác đã viết:
14
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
"Vũ khí phê bình đương nhiên không thể thay thế cho việc phê bình bằng vũ khí,
lực lượng vật chất thì cần phải dùng lực lượng vật chất để lật đổ, nhưng một khi lý luận
đã nắn được quần chúng nhân dân thì lập tức biến thành lực lượng vật chất".
Mác: Phê phán triết học pháp quyền Hêghen.
Khi đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, Mác và Ăng ghen không thể không tập trung
lực lượng chủ yếu để giải thích những nguyên lý cơ bản về lý luận xã hội của mình bị kẻ
thù phủ nhận, những nguyên lý đó là : Điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội có tác
dụng quyết định, nó là nguồn gốc phát sinh và biến đổi của tư tưởng quan điểm, lý luận,
chế độ chính trị, chế độ pháp quyền của xã hội. Còn nói đến vấn đề tác dụng tích cực trở
lại của tư tưởng đối với sự phát triển của sinh hoạt vật chất xã hội thì Mác và Ăng ghen
cũng đã trở lời dứt khoát trên nguyên tắc trong những tác phẩm của mình đặc biệt là
trong những tác phẩm về lịch sử, còn những tác phẩm triết học của Mác và Ăng ghen thì
vì hoàn cảnh lịch sử nên trọng tâm đều đạt vào việc bảo vệ và giải thích nguyên tắc chủ
yếu của chủ nghĩa duy vật lịch sử là : Điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội có tác dụng
quyết định, đặt vào việc giải thích nguyên nhân làm cho tư tưởng, lý luận, quan điểm
biến đổi. Về điểm này, năm 1890 Ăng ghen đã viết:
" Các bạn thanh niên! (những người theo chủ nghĩa Mác- Công-stăng-tinốp) có
lúc đã quá coi nặng mặt kinh tế, về điểm này Mác và tôi cũng phải chịu một phần trách
nhiệm. Chúng tôi vì phải chống lại kẻ thù, nên không thể không nhấn mạnh nguyên tắc
chủ yếu mà chúng phủ nhận, do đó không có đủ thời gian, địa điểm và cơ hội để làm cho
những yếu tố tác động lẫn nhau khác có một địa vị xứng đáng. Song một khi phải giải
thích một thời kỳ lịch sử nào đó, cũng có nghĩa là phải thực tế áp dụng (phương pháp duy
vật lịch sử - Công stăng- tinốp) thì tình hình lại khác, lúc ấy không thể có một chút sai
lầm nào nữa ".
15

Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
1.4. Các hình thái ý thức xã hội
1.4.1. Ý thức chính trị
Hình thái ý thức chính trị là bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh những quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị giữa các giai cấp, các dân tộc hay giữa
các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội.
Ý thức chính trị chỉ xuất hiện khi trong xã hội có nhà nước, giai cấp.
Ý thức chính trị bao gồm ý thức chính trị thực tiễn được nảy sinh trực tiếp từ thực
tiễn chính trị của các chủ thể, thể hiện ở tình cảm chính trị, tâm trạng chính trị…
- Những trạng thái tâm lý chính trị thường không bền vững nhưng đóng vai trò hết
sức quan trọng trong đời sống chính trị của quần chúng nhân dân.
- Hệ tư tưởng chính trị phản ánh trực tiếp, tập trung lợi ích giai cấp của một giai
cấp nhất định, nó thường được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của Đảng;
chính trị, luật pháp, chính sách của nhà nước, của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị
được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp truyền bá. Hệ
tư tưởng chính trị thường gắn với các tổ chức chính trị.
Ý thức chính trị của giai cấp thống trị thông qua nhà nước tác động trở lại tới kinh
tế và các hình thái ý thức xã hội khác. Sự tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức chính
trị đến kinh tế và tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết vào tính tích
cực, tiến bộ hay không của chủ thể mang ý thức chính trị.
Trong hiện thực xã hội, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị chi phối toàn
bộ hoạt động, đời sống chính trị - tinh thần của xã hội.
1.4.1. Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền ra đời gắn với xã hội có giai cấp và nhà nước. Ý thức pháp
quyền là hệ thống các quan điểm của một giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật; về
quyền hạn, nghĩa vụ của các thành viên trong xã hội, của nhà nước, các tổ chức xã hội
trên cơ sở những nguyên tắc đã được pháp luật và xã hội thừa nhận, thể hiện về tính hợp
pháp hay không hợp pháp của hành vi con người; cùng những nhận thức và tình cảm của
con người trong việc thực thi luật pháp.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức, tư tưởng pháp quyền của giai cấp thống trị được

thể chế hóa thành các điều luật, các quy định; trở thành những nguyên tắc buộc mọi thành
viên trong xã hội phải tuân theo. Pháp luật, thể hiện rõ rệt ý chí, mục đích của giai cấp
thống trị. Do vậy, mỗi nhà nước, mỗi chế độ chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp
nắm chính quyền.
16
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
1.4.2. Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nó hình thành rất sớm cùng
với tồn tại xã hội loài người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các
trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác; lương
tâm, trách nhiệm; hạnh phúc, công bằng,… và về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực
đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội và cá nhân với cá nhân trong
xã hội.
Mặt khác, nó còn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con
người.
Những giá trị phổ biến chung của ý thức đạo đức thể hiện trong các khái niệm
thiện, ác, công bằng, lương tâm, trách nhiệm. Trong xã hội có giai cấp thì ý thức đạo đức
cũng mang tính giai cấp.
1.4.3. Ý thức khoa học
Ý thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống tri thức phản ánh hiện
thực dưới dạng lôgíc trừu tượng và được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Đối tượng phản ánh
của ý thức khoa học bao quát tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác góp phần hình
thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó.
Ví dụ, ý thức chính trị và chính trị học; ý thức đạo đức và đạo đức học…
1.4.4. Ý thức thẩm mỹ
Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với
nhu cầu thưởng thức và sáng tạo “cái đẹp”. Nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất
của ý thức thẩm mỹ.

Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã hội,
nhưng khác với khoa học, triết học, nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ
thuật hết sức sinh động, cụ thể.
Ngay từ những ngày đầu tiên khi con người thoát khỏi thế giới động vật, thoát khỏi cuộc
sống bầy đàn đầy chất tự nhiên trong sinh hoạt cộng đồng người đã xuất hiện các yếu tố
nghệ thuật. Đây có thể coi là loại hình thái ý thức xuất hiện sớm nhất của con người, có
17
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
trước cả các hình thái ý thức: Chính trị, Triết học, Pháp quyền, Tôn giáo và đạo đức… Sự
xuất hiện của ý thức nghệ thuật là sản phẩm của quá trình đấu tranh của con người với tự
nhiên, là kết quả của sự phát triển các mối quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng và luôn gắn
liền với quá trình lao động sản xuất vật chất cũng như phụ thuộc vào từng giai đoạn phát
triển kinh tế – xã hội của xã hội loài người.
Nghệ thuật cũng hình thành rất sớm cùng với sự hình thành của xã hội loài người.
Là sự biểu hiện, phản ánh cuộc sống của con người, phản ánh thế giới thông qua các giá
trị nghệ thuật, các hình tượng nghệ thuật “tư duy trong các hình tượng”- Hêghen. Nghệ
thuật phát hiện cái đẹp trong hiện thực cuộc sống khái quát, điển hình hóa và phản ánh
cái đẹp bằng các hình tượng nghệ thuật và truyền đạt cái đẹp tới tình cảm và lý trí của
con người qua đó mà góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng và tình cảm của con người.
Những tác phẩm nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thực và
thấm nhuần những tư tưởng tiên tiến luôn có tác dụng lớn lao về mặt nhận thức và gây
ảnh hưởng to lớn về mặt tình cảm, tư tưởng thúc đẩy quần chúng hành động như những
tác phẩm của Phidiat, Esilơ… thời cổ đại; những tác phẩm của Raphaen, Lêona đơ
Vanhxi… thời phục hưng hay các tác phẩm cận đại trong thời kỳ cuộc cách mạng tư sản
như của Sêchpia, Gơt…
Những ý thức nghệ thuật đôi khi vượt ra ngoài giới hạn vốn có của nghệ thuật
trong từng thời điểm lịch sử nhất định và hòa nhập vào trong thành phần những giá trị
văn hóa nghệ thuật nói chung của toàn bộ nền văn hóa tinh thần của thời đại đó. Khi
những ý thức nghệ thuật, những tượng trưng nghệ thuật như vậy trong văn hóa nổi trội
hơn các khái niệm logic và bắt đầu có sự quyết định các nền giá trị chung thì khi đó các

tượng trưng nghệ thuât, các ý thức nghệ thuật sẽ biến thành huyền thoại, nơi con người
thể hiện khát vọng về thế giới mới, thế giới tương lại và điều đó góp phần thúc đẩy, tạo
điều kiện cho xã hội phát triển.
18
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
Hình tượng nghệ thuật cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực nhưng
thông qua cái cá biệt, cụ thể, cảm tính, sinh động. Nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội
nhưng gián tiếp.
Trong xã hội có giai cấp thì ý thức nghệ thuật cũng mang tính giai cấp. Triết học
Mác-Lênin khi đề cập đến tính giai cấp của nghệ thuật, không hạ thấp mà còn nhấn mạnh
tính dân tộc và tính nhân loại.
1.4.5. Ý thức tôn giáo
Bản chất của ý thức tôn giáo là sự phản ánh hiện thực một cách hư ảo. Thực chất
của quan niệm tôn giáo là người ta thần thánh hóa các lực lượng tự nhiên, quan hệ xã hội
thành cái siêu nhiên, thần thánh Ý thức tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã
hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của
quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.
Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và
truyền bá trong xã hội. Tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo tác động, bổ sung lẫn
nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một sắc thái riêng, một đặc trưng
tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo củng cố, “chứng minh” cho các hiện tượng tâm lý
tôn giáo, khái quát chúng, làm cho chúng có tính tư tưởng tôn giáo.
Ý thức tôn giáo thực hiện chức năng chủ yếu là chức năng đền bù hư ảo. Điều này
nói lên rằng, tôn giáo có khả năng bù đắp những thiếu hụt nhất định mà trong hiện thực
con người chưa đạt được.
Tôn giáo trong hình thức phát triển của nó bao gồm:
- Niềm tin tôn giáo;
- Tín điều tôn giáo;
- Tổ chức tôn giáo (giáo hội).

Trong đó, niềm tin tôn giáo là cơ sở của ý thức tôn giáo. Giải quyết vấn đề tôn
giáo (niềm tin tôn giáo) là một quá trình lâu dài, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội,
khoa học - kỹ thuật và đời sống tinh thần xã hội.
19
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
CHƯƠNG II - VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI CÔNG
CUỘC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ và mối quan hệ của chúng
2.1.1. Khái niệm tri thức khoa học – công nghệ
Ý thức là một hiện tượng tâm lý, xã hội, từ góc độ trung nhất có thể định nghĩa là
“hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” là “cái vật chất đã di chuyển vào bộ óc con
người và được cải biến đi ở trong đó” (theo Mác). Ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm
nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Trong đó tri thức là một yếu tố cơ bản
nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.Sự hình thành và phát triển của ý thức liên quan
mật thiết tới quá trình nhận thức của con người. Tri thức, hiểu biết của con người về thế
giới càng nhiều bao nhiêu thì ý thức càng sâu sắc bấy nhiêu.
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức có tính lịch sử-xã hội của con người về
thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế
giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thông ký hiệu khác nhau.
Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri
thức có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức thông thường được hình thành qua mỗi hoạt
động thường ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính, trực tiếp, bề ngoài và rời
rạc.
Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện
thực, là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm
nghiệm, nó phản ánh dưới dạng logic, trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, mối liên hệ
với bản chất về quy luật của tự nhiên-xã hội-con người. Hầu hết các nhà khoa học đều
thừa nhận tri thức khoa học bao gồm tri thức: kinh nghiệm và tri thức lý luận. Trong đó
tri thức kinh nghiệm là trình độ thấp, còn tri thức lý luận là trình độ cao của tri thức khoa
học. Giữa hai trình độ này các tri thức khoa học có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm

tiền đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển, phản ánh ngày càng gần đúng hơn, đầy đủ hơn và
sâu sắc hơn về thế giới vật chất đang vận động không ngừng.
20
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
2.1.2. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng và động lực cho quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Về thực chất công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình cải biến
lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm tạo
ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Do đó nói đến công nghiệp hóa hiện đại hóa
là nói đến việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội. Trong thời đại ngày nay khoa học và công
nghệ thực sự là nền tảng và là động lực của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phát
triển khoa học công nghệ, gắn khoa học công nghệ với đời sống chính là mấu chốt đảm
bảo sự thành công của công nghiệp hóa hiện đại hóa. Nhận thức được vấn đề đó, Đảng ta
đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ như : Tại hội nghị lần thứ
VII, ban chấp hành TƯ VII đã khẳng định “ Khoa học công nghệ là nền tảng của công
nghiệp hóa hiện đại hóa”, hội nghị lần thứ II ban chấp hành TƯ khóa VIII cũng nhấn
mạnh “ Cùng với giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân
tộc và xây dựng thành công CNXH. Công nghiệp hóa hiện đại hóa phải bằng và dựa vào
khoa học công nghệ ” Muốn vậy chúng ta phải gắn hoạt động nghiên cứu khoa học công
nghệ với thực tiễn,với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, phải tăng cường vốn đầu
tư và tìm ra động lực cho phát triển bản thân nó. Động lực đó chính là lợi ích của những
nhà nghiên cứu, phát minh, ứng dụng có hiệu quả của khoa học công nghệ.
2.2. Công nghiệp hoá hiện đại hoá
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các
ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về
giá trị gia tăng, v.v
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế
với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công

nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-
xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng
21
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết
học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay đổi về mặt
triết học là nguyên nhân của công nghiệp hóa hay ngược lại thì vẫn còn tranh cãi.
2.3. Vai trò của tri thức khoa học – công nghệ với quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá.
2.3.1. Tri thức khoa học –công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển kinh tế
Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học – công nghệ đối với quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam
nói chung được biểu hiện trên các mặt cụ thể sau:
Khoa học – công nghệ có vai trò quyết định trong việc trang bị và trang bị lại các
máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc
dân nói chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng cường sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới với mục tiêu không ngừng cải
thiện và nâng cao mức sống của người dân, sự phồn vinh và sức mạnh của Việt Nam. Đó
là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng nhất cuả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay.
Khoa học – công nghệ còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - một
nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta. Có nhiều cách thức để chung ta trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên
tiến cho các ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên dù bằng hình thức nào đi chăng nữa điều
quan trọng và có tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con người có đủ trí
tuệ và năng lực để có thể khai thác và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại. Văn
kiện đại hội Đảng IX đã chỉ rõ “ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của
người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo khoa học – công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệpcông nghiệp hóa, hiện đại hóa ”.

22
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
Khoa học – công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi trường thông tin
và thị trường thông tin – huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và của cả nền
kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây thì ngày nay thông tin có một vị trí cực kỳ
quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cả
những hoạt động tinh thần. Thông tin trong lĩnh vực khoa học – công nghệ có liên quan
rất chặt chẽ đến việc nắm bắt các bí mật, bí quyết công nghệ nằm trong các phương pháp,
các thiết bị, các dữ liệu khoa học – công nghệ mới nhất. Trong xã hội hiện đại,trình độ
phát triển của công nghệ thông tin có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của hàng
loạt công nghệ hiện đại.
Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học – công nghệ là cung cấp các trang thiết bị hiện
đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sạch để con người khắc phục được những
hậu quả tiêu cực do chính các phương tiện kỹ thuật chưa hoàn thiện trước gây ra.
2.3.2. Tiềm lực khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay
Nhờ có đường lối đúng đắn và sự quan tâm đầu tư của Đảng và nhà nước ta đối
với khoa học công nghệ trong suốt các thời kỳ vừa qua, cho đến nay Việt Nam đã có
những tiềm lực khoa học – công nghệ đáng kể, có khả năng cung cấp nhiều luận cứ khoa
học cho các chủ trương, chính sách phát triển đất nước, tiếp thu nhanh chóng các thành
tựu khoa học công nghệ được chuyển giao từ bên ngoài, từng bước vươn lên giải quyết
nhiều vấn đề khoa học – công nghệ do nhu cầu thực tiễn đất nước đặt ra.
Hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp định
hướng vào mục tiêu phục vụ thiết thực cho các ngành sản xuất công nghiệp, phục vụ phát
triển công nghiệp địa phương, phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, phục vụ
phát triển kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần cho khai thác sử dụng tài
nguyên, năng lượng, cải thiện và bảo vệ môi trường.
Đặc biệt trong thời gian gần đây việc CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
nước ta còn đạt được rất nhiều thành tựu trong việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ. Nước ta đã đạt được một số bước tiến nhất định trong quá
23

Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
trình cơ giới hoá nông nghiệp. Đến năm 1997 cả nước có hơn 115. 487 máy kéo các
loại sử dụng trong nông nghiệp với tổng công suất hơn 2 triệu CV, tăng gấp 1,5 lần
so với năm 1985. đặc biệt máy kéo nhỏ thích hợp với quy mô hộ gia đình tăng rất
nhanh, từ 17880 cái với 19,60 nghìn CV năm 1990 tăng lên 71208 cái với công suất
810027 CV năm 1995 và 83.289 cái với công suất hơn 863 nghìn CV năm 1997.
Công việc cơ giới hoá vận chuyển trong nông nghiệp cũng có nhiều khởi sắc. Trong
nông thôn hiện nay có 22.000 ô tô các loại (không kể máy kéo và các loại xe công
nông) trong đó có hơn 15.000 xe tải (90% là của hộ gia đình nông dân) tăng gấp 2
lần năm 1990. Các khâu công việc khác như xay xát lúa gạo, chế biến thức ăn gia
súc, cưa xẻ gỗ, cũng được từng bước cơ giới hoá cùng với sự phát triển của nguồn
điện lực quốc gia Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi.
Tính đến 1/10/1996 cả nước đã có 20.644 công trình thuỷ lợi lớn nhỏ trong đó có
20.502 công trình thuỷ nông (6727 hồ, đập chứa nước, 5899 cống, 2363 trạm bơm
điện, 671 trạm bơm dầu, 4.842 công trình phụ thuộc, 162 trạm thuỷ điện kết hợp
thuỷ nông) các công trình này đã đảm bảo tưới tiêu cho 3 triệu ha diện tích đất canh
tác (chiếm 53% tổng số) tiêu trên 2 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho
2 triệu ha. Thời gian vừa qua việc ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, trước hết là việc tạo ra nhiều giống cây trồng,
vật nuôi mới, đồng thời ta cũng đã sản xuất được nhiều loại phân bón, thuốc trừ sâu
vi sinh. Những thành tựu của tiến bộ khoa học- kỹ thuật trong nông nghiệp, nhất là
trong việc ứng dụng các giống cây trồng, vật nuôi mới đã tạo ra những tiền đề hết
sức quan trọng cho bước nhảy vọt về năng suất và chât lượng nông sản
2.3.3. Những yếu kém và hạn chế của khoa học – công nghệ Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, khoa học công nghệ nước ta vẫn còn
nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và chưa thực sự đóng vai trò động lực,
nền tảng cho phát triển. Sau đây là một số biểu hiện :
• Tiềm lực khoa học – công nghệ vãn còn ở mức thấp so với khu vực và thế giới,
chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu cầu phát triển. Tỷ lệ cán bộ khoa học – công nghệ

24
Tiểu luận triết học _ Nhóm 5_ KTVT_2015
trên tổng số dân chưa cao so với các nước khác. Đặc biệt còn thiếu nhiều chuyên gia đầu
ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến hành chậm, nguy cơ hụt hẫng trong đội ngũ rất
lớn, nhất là trong ngành mũi nhọn như công nghệ thông tin, sinh học, cơ khí chế tạo máy.
Việc xếp loại các cơ quan hoa học – công nghệ còn lúc túng, việc sử dụng đội ngũ tri
thức còn lãng phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghiên cứu khoa học còn thấp xa so với
nhu cầu thực tiễn.
• Cơ chế quản lý kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động khoa học – công nghệ
với kinh tế xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt động khoa học –
công nghệ phát triển. Mức đầu tư bình quân của các doanh nghiệp Việt Nam cho khoa
học còn thấp, chưa vượt quá 0.25 % trong khi thỉ lệ này ở các nước công nghiệp hóa là 5
– 6 %, các nước phát triển là 10 %.
• Cơ chế quản lý khoa học – công nghệ chậm và vẫn chưa được đổi mới một cách
căn bản, mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lý khoa học - công nghệ đã xuất hiện từ
rất sớm. Chưa có sự liên thong giữa cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế quản lý khoa học –
công nghệ.
2.3.4. Các cách tiếp cận khoa học – công nghệ tri thức
Một là, xây dựng chính sách, tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh mẽ
việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, đặc biệt trong các doanh nghiệp. Gắn
với nhiệm vụ này, cần đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, môi giới, dịch vụ về khoa học-
công nghệ để phát triển thị trường công nghệ. Chuẩn bị ngay việc xây dựng các văn bản
hướng dẫn để sớm thực thi có hiệu quả Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Chuyển giao công
nghệ sau khi được Quốc hội thông qua. Xây dựng phát triển các trung tâm giao dịch khoa
học-công nghệ tại các vùng kinh tế lớn trong cả nước.
Hai là, đổi mới cơ bản chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho khoa học-công
nghệ phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học-công nghệ và thúc đẩy đầu tư của toàn
xã hội cho đổi mới công nghệ để có thể đạt mức 1,5% GDP vào năm 2010. Chú ý tập
trung đầu tư cho con người để phát triển tài sản trí tuệ của đất nước và xây dựng các cơ
chế, chính sách đặc biệt để phát triển tiềm lực khoa học-công nghệ

25

×