Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Trần Nhân Tông – những số thành lịch sử và những thông điệp gửi cho hậu thế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.12 KB, 14 trang )

Trần Nhân Tông – những số thành lịch sử và những thông
điệp gửi cho hậu thế
(Trần Ngọc Vương)
Đối với đại đa số người Việt Nam qua các thời đại từ đầu thế kỷ XIV tới
nay, Trần Nhân Tông (1258 – 1308) là một cái “tên thiêng”, bao gồm nhiều kết
tinh trên nhiều phương diện. Tuy phần lớn những sự đánh giá về Ngài đều được
đưa ra và bảo lưu lại qua những tài liệu, thư tịch quan trọng hàng đầu, chủ yếu
được viết nên sau khi Ngài đãviên tịch, theo một quán tính ứng xử văn hóa thuộc
truyền thống khu vực là “cái quan định luận”, nhưng cũng trên thực tế, hầu như
mọi ghi chép của người đương thời về Ngài mà cho tới nay vẫn còn lưu lại được,
kể cả những ghi chép và ý kiến của những người từng là đối thủ, cũng đều đã toát
lên một tinh thần chủ đạo, đó là sự tôn trọng, mến mộ hay khâm phục không giấu
diếm hướng tới nhân vật lịch sử đặc biệt này.
Nhưng đã hơn bảy trăm năm qua, kể từ thời điểm kết thúc thắng lợi rực rỡ
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ ba, người Việt
vẫn phải tiếp tục và cơ hồ dai dẳng như định mệnh, gồng mình lên chiến đấu với
hết loại kẻ thù này đến loại kẻ thù khác. Ở cái xứ sở, nói theo cách của một nhà
thơ, “chiến tranh như gió mùa thổi quằn quại tháng năm” như Việt Nam trong cả
một lịch sử dằng dặc chưa xa, thì từ giới cầm quyền - vừa cai trị vừa lãnh đạo cộng
đồng quốc gia - dân tộc – cho tới những tầng lớp bị trị thấp nhất, việc phải trả lời
cho câu hỏi kiểu Hăm let “Tồn tại hay không tồn tại” cơ hồ thu gom và tiêu tán
mất phần lớn năng lực sinh tồn. Một truyền thống nghiệt ngã như vậy khiến cho
việc nhận thức toàn diện về các nhân vật lịch sử có tầm vóc kỳ lạ và cấu trúc nhân
cách vừa phức tạp vừa tinh tế cỡ Trần Nhân Tông trở nên là một công việc cứ rơi
vào tình cảnh “quy hoạch treo” cơ hồ đến vô thời hạn!
Nhưng nhu cầu sống xứng đáng và sống có hạnh phúc, nhất là hạnh phúc
được thụ hưởng những giá trị tinh thần trước hết của chính tổ tiên ông cha mình để
lại đã khiến cho những người trí thức lao động trong quỹ đạo các khoa học lịch sử
phải nỗ lực “rũ bụi gia phả”. Cho đến thời điểm hiện nay, có thể khẳng định rằng
cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông đang từng bước được soi chiếu bởi một
đội ngũ những người có chuyên môn. “Của báu trong nhà” (gia trung hữu bảo)


đang dần phát lộ ánh sáng vượt ra xa ngoài đường biên giới quốc gia, để đến với
cộng đồng khu vực, và xa hơn, cộng đồng nhân loại.
Hôm nay, đứng ở vị trí cách tổ quốc mình đúng nửa vòng trái đất, tôi vô
cùng xúc động và hân hạnh được là một trong những đại diện của giới khoa học
Việt Nam, một cá thể trong cộng đồng những người tự hào rằng mình là kẻ mang
dòng máu Việt trong huyết quản, với niềm hy vọng góp thêm một tiếng nói, bổ
sung thêm một vài gam màu, khắc họa rõ hơn nữa chân dung của một trong những
vĩ nhân, với niềm tin chắc rằng đó không chỉ là vĩ nhân của riêng cộng đồng người
Việt Nam chúng tôi, mà cũng là của loài người, của thế giới rộng lớn.
Nhận thức rằng đây là Hội thảo khoa học đầu tiên mang tầm quốc tế về Trần
Nhân Tông, diễn giả không dám dài lời, xin được trình bày trong bản báo cáo này,
theo lối liệt kê – thống kê thực chứng, những gì đích thực mà Trần Nhân Tông đã
làm nên và để lại, trước hết như là những di sản mang giá trị lịch sử, sau là như
những thông điệp, những ẩn ngữ của một thiện nghiệp, cho loài người cả hôm nay
và mai sau.

I. Những công tích và giá trị mang tính lịch sử:
I.1. Một mẫu người cầm quyền lý tưởng hãy còn là hiếm hoi trong lịch sử
hiện thực.
Là con trưởng của vị vua thứ hai vương triều Trần (Thánh Tông), theo
vương chế thời bấy giờ, Hoàng Thái Tử Trần Khâm mặc nhiên sẽ là người kế thừa
vương vị.
Những tranh chấp về ngôi vị này trên thực tế từng diễn ra quyết liệt vào mấy
thập kỷ đầu tiên của vương triều Trần. Như điều từng được biết tới một cách rộng
rãi, người lập nên vương triều Trần đích thực lại không phải là người đảm trách lấy
sứ mệnh của một Hoàng đế sáng nghiệp. Với hàng loạt những thủ đoạn, âm mưu
và hành vi chính trị phức tạp nhưng đều mang tính hướng đích quyết liệt, Trần Thủ
Độ dù sao cũng đáng được ghi nhận là một trong những nhà đảo chính cung đình
hiếm hoi trong lịch sử đã hoàn tất đại sự của mình với ít biến cố gây đảo lộn xã hội
nhất và ít đổ máu nhất.Đặt người cháu họ mới 8 tuổi lên ngai vàng, đương nhiên

Trần Thủ Độ (1194 -1264) phải nắm lấy vị trí Thái sư phụ chính, thực hiện vai trò
người cầm quyền tối cao trên thực tế. Sau trên dưới bốn chục năm giữ đại quyền,
trong đó có tới hơn hai chục năm nhiếp chính, Trần Thủ Độ đã góp công cực lớn
vào việc ổn định “trật tự nội bộ Hoàng gia”. Những biến cố lộn xộn tai tiếng nhất
liên quan tới việc tranh giành quyền lực tối cao cơ hồ đều liên quan tới An Sinh
Vương Trần Liễu và về cơ bản cục diện đã ngã ngũ theo hướng ổn định sau khi
ông này mất (1251).Tâm ý và lối hành xử của Trần Quốc Tuấn, người con trai lẫy
lừng của người từng nhăm nhe ngôi báu ấy vào những năm tháng tiếp theo đã góp
phần quyết định loại bỏ sự tranh chấp âm ỉ ngôi vua giữa các cá nhân và các chi
trong nội bộ hoàng tộc.
Ngôi vua đến thời điểm Trần Khâm làm Hoàng thái tử vậy là không còn bị
tranh giành, nhưng bản thân người được mặc định nắm giữ ngôi vị đó thì lại từng
có thời gian khá dài không muốn giữ nó. Cả chính sử lẫn các thư tịch bổ sung khác
( đặc biệt làThánh đăng ngữ lục) đều thuật rằng ngài từng muốn nhường ngôi cho
em trai là Đức Việp, chỉ đến lúc vua cha khóc mà yêu cầu thì ngài mới nguôi ý
định ấy. Ngài cũng từng lặp lại hành vi của ông nội mình, tức Trần Thái Tông, nửa
đêm bỏ Hoàng thành tìm lên Yên Tử, một địa chỉ tu hành Phật giáo nổi tiếng, nơi
mà về sau, khi gắn với tên tuổi của Điều Ngự Giác Hoàng Trúc Lâm đệ nhất tổ thì
trở thành thánh địa!
Miễn cưỡng nhận ngôi vị mà trong mắt hết thảy người đời là tột bậc cao
sang, còn trong nhận thức của người am tường chính sự cũng như theo lý luận của
các học thuyết - hệ tư tưởng lưu hành lúc bấy giờ (chủ yếu là theo lý luận Nho gia
và Pháp gia) thì là vị trí đòi hỏi người đảm trách cực kỳ nhiều phẩm chất, Trần
Nhân Tông đã hoàn thành sứ mệnh ấy theo cách không thể xuất sắc hơn. Có thể
khẳng định mà không sợ sai lầm rằng trong lịch sử các triều đại ở Việt Nam nói
riêng và cả khu vực Đông Á nói chung (dĩ nhiên bao gồm cả lịch sử Trung Quốc)
hiếm có một vị vua nào thực hiện bổn phận này một cách hiển hách và hoàn hảo
đến vậy.
Bổn phận đầu tiên của người làm vua là bảo vệ cho được sự toàn vẹn của
quốc gia, cả về chủ quyền và lãnh thổ, bảo vệ che chở được cho mọi thành viên của

cộng đồng. Đối kháng thành công với mọi thế lực ngoại xâm, người làm vua mới
có thể bảo vệ lợi ích riêng của vương triều một cách hữu hiệu. Không thể có một
lôgic nghịch đảo: khi chủ quyền quốc gia bị triệt bỏ, lãnh thổ quốc gia bị thôn tính,
thần dân của một vương triều phải quàng thêm lên vai một ách nô lệ nữa, thì không
bao giờ lợi ích của triều đại đang thống trị lại có thể còn “nguyên vẹn” hay về cơ
bản vẫn được bảo toàn.Tuy nhiên, cái bài học vỡ lòng, sơ đẳng ấy về chính trị lại
rất thường bị giới cầm quyền ở các chính thể yếu kém học mãi mà không thuộc!
Vào thế kỷ XIII - nửa đầu thế kỷ XIV, như mọi sử gia đều am tường, quân
Mông Cổ là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới, đế chế Nguyên – Mông là
đế chế rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại từ trước cho tới tận lúc bấy giờ, trải ra
trên cả hai châu lục (Á - Âu). Vó ngựa xâm lăng của đội quân này còn sang đến tận
châu Phi. Và như đã biết, chỉ ở nước Đại Việt, đội quân được coi là bách chiến
bách thắng này mới phải gánh chịu thất bại. Không phải một lần, hai lần, mà là ba
lần, cuộc chiến sau dữ dội hơn cuộc chiến trước, thất bại sau nặng nề hơn thất bại
trước. Trần Nhân Tông làm vua được 7 năm thì xảy ra cuộc kháng chiến chống
Nguyên - Mông lần thứ hai, được 10 năm thì phải tiến hành cuộc chiến thứ ba. Dù
rằng trong cả hai cuộc kháng chiến này, cạnh vua còn có Thượng hoàng ( Trần
Thánh Tông mất năm 1290), nhưng cả về danh chính ngôn thuận cả trên thực tế
phản ánh qua chính sử, Trần Nhân Tông thực sự là vị quốc chủ toàn quyền đưa ra
những quyết định tối hậu. Chỉ cần nhìn vào cách xử lý mức khen thưởng đối với
Đỗ Hành, người “chỉ được phong Quan nội hầu” trong khi về công trạng, đáng
“được ban quốc tính” và chức vụ cao hơn, vì “khi bắt được Ô Mã Nhi không dâng
lên Quan gia (tức vua) lại dâng lên Thượng hoàng” thì đủ rõ.
Như đã nói, thách thức mang tính sinh tử đối với bất cứ một nguyên thủ
quốc gia nào ở mọi thời và mọi xứ sở là nạn ngoại xâm. Những quyết sách chính
trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự và cả văn hóa nữa trong trường hợp đang diễn ra sự
đối đầu thực sự giữa hai thế lực quyền lực bao giờ cũng đòi hỏi sự xác đáng và tinh
tế cao độ. Từ xa xưa trong lịch sử, người Việt đã phải chịu đựng trạng thái mất cân
bằng truyền kiếp trong quan hệ với các thực thể quyền lực được tạo dựng nên trên
lãnh thổ của quốc gia phương Bắc, không kể đó là thực thể quyền lực gốc Hán hay

thực thể quyền lực có nguồn gốc ngoại lai. Vào thời chưa tồn tại cái gọi là công
pháp quốc tế, quy luật cạnh tranh sinh tồn vẫn là quy luật chủ yếu chi phối mối
quan hệ giữa các thực thể quyền lực, việc giữ gìn độc lập thực thụ cho quốc gia trở
nên là tiêu chuẩn đầu tiên xác định tính “chân chính” của bất cứ một vương triều
nào ở Việt Nam. Tuy về mặt lý thuyết, Nho giáo có nêu lên làm chuẩn mực mối
quan hệ giữa nước lớn và nước nhỏ là nước nhỏ phải biết kính sợ và tôn thờ, phục
tùng nước lớn, còn nước lớn phải thương yêu, che chở nước nhỏ, nhưng phạm vi
áp dụng thứ lý thuyết dường như ít nhiều “nhân bản” ấy chỉ giới hạn trong vùng
văn hóa, khu vực địa chính trị Đông Á truyền thống, nơi chỉ có một nước tự nhận
và trong ứng xử công khai cũng được các nước xung quanh coi là nước lớn, là triều
đình duy nhất được mệnh danh là Thiên triều, cho nên lý thuyết ấy khi triển khai
trong những mối quan hệ lịch sử hiện thực, thì hầu như bao giờ cũng mất gần hết ý
nghĩa văn hóa chính trị, chỉ trơ lại cái lõi “tự nhiên” là “trì cường lăng nhược” (lấy
mạnh hiếp yếu). Đối phó có hiệu quả với thế lực ngoại xâm từ phương Bắc từ hàng
ngàn năm trước đã luôn luôn là sứ mệnh khó khăn bậc nhất của giới lãnh đạo quốc
gia. Do vậy mà với ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên – Mông, vương triều
Trần trở nên là niềm tự hào vĩnh viễn của mọi người dân Đại Việt, đặc biệt hai vị
vua cha - vua con (Trần Thánh Tông - Trần Nhân Tông) hoàn toàn xứng đáng
được tôn vinh là anh hùng dân tộc.
Nguyên thủ của quốc gia nào dĩ nhiên cũng phải hành động trước hết vì lợi
ích của quốc gia ấy. Nhà cầm quyền thực tế ở bất cứ thời đại nào, xứ sở nào cũng
không thể là các nhà đạo đức thuần khiết, nhà nhân đạo chủ nghĩa “toàn tòng”,
tuân thủ nghiêm nhặt những chuẩn mực trừu tượng, lý tưởng nhưng cũng siêu hình,
phi thực tế. Những chủ trương và hành động thực tế của Trần Nhân Tông với tư
cách là bậc quốc chủ trong mối quan hệ với các láng giềng kể cả với nhà Tống, nhà
Nguyên được khai triển với rất nhiều dạng thức phong phú, nhưng điều đặc biệt
cần nhấn mạnh ở đây là tất cả đều toát lên khát vọng hòa bình, hay chí ít, trong
những trường hợp bất khả kháng, là ít tốn xương máu nhất, ít tổn thất sinh mạng
nhất, về cả mọi phía. Cuộc hôn nhân chính trị mà ngài chủ động và kiên trì xúc
tiến giữa công chúa Huyền Trân và vua Chiêm Thành Chế Mân dĩ nhiên có mục

đích mở rộng cương vực của vương triều, nhưng nói theo ngôn ngữ ngày nay, là
phát huy tối đa sức mạnh của “quyền lực mềm”, đưa lại lợi ích quốc gia theo một
cách thức hòa bình nhất có thể.
Sau ba lần chống ngoại xâm đối đầu với cùng một kẻ thù, và đó vẫn là một
kẻ thù mạnh sau cả ba lần thua, giới cầm quyền ở Đại Việt mà đứng đầu là Trần
Nhân Tông càng ngày càng ý thức sâu sắc hơn nhiệm vụ làm gia tăng sức mạnh
quốc gia trong thời bình, vừa để mang lại hạnh phúc và sự thịnh vượng cho cộng
đồng, vừa coi đó là biện pháp quốc phòng ít tốn kém nhất. Làm thế nào để vẫn bảo
đảm được lợi ích mang tính đặc quyền tối thiểu của Hoàng tộc và giới quý tộc,
nhưng vẫn phải làm cho đông đảo cư dân – thần dân cảm nhận rằng mình đang
được sống trong cảnh “thái bình thịnh trị”, nói cách khác, điều hòa được mối quan
hệ giữa các nhóm lợi ích trên thực tế là khác biệt và vẫn trên đà nới rộng sự khác
biệt, đó là một công việc không dễ dàng đối với người cầm quyền, nhất là ở vị trí
quyền lực tối cao, ở vị trí quốc chủ.
Với gần ba thập kỷ làm vua rồi làm Thượng hoàng (kể cả lúc đã xuất gia thì
vẫn không thôi là Thượng hoàng), nhìn lại tất cả những gì Trần Nhân Tông đã hiện
thực hóa được trong cả hai ngả nội trị và ngoại giao, có thể khẳng định một lần nữa
rằng Ngài là vị quốc chủ sáng giá, lỗi lạc nhất trong lịch sử quốc gia - dân tộc Việt.
Theo cảm nhận của người viết bài, càng ngày càng đông đảo người Việt hoặc gốc
Việt đồng tình với nhận định này.
I.2. Một trí giả anh minh, một nhà văn hóa kiệt xuất
Trong lịch sử Việt Nam từ sau thời điểm phục hưng được chủ quyền quốc
gia (939), hiện tượng những người có thân phận ra đời trong hoàng gia, được
quyền kế thừa ngôi vua hoặc ít nhiều có cơ hội để tranh đoạt ngôi vị đó nhưng lại
thờ ơ với nó trên thực tế không phải là hiếm. Cả khi đã đăng cơ, một vài trong số
họ vẫn nuôi giữ ý định rời bỏ ngôi vị. Có thể kể một số trường hợp tiêu biểu, chẳng
hạn như cháu đích tôn của Ngô vương Quyền là Ngô Xương Tỷ, xuất gia tu hành
ngay từ thời ông nội còn tại vị, về sau là vị Quốc sư của cả nhà Đinh và nhà Tiền
Lê: Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu; Lý Nhân Tông từng hờ hững với ngôi vua
để đến nỗi xảy ra vụ kỳ án Lê Văn Thịnh; Trần Thái Tông từng bỏ ngôi vua trốn

triều đình lên Yên Yử quyết chí tu hành với câu nói nổi tiếng “Ta đã trút bỏ ngôi
vua như trút bỏ đôi giày rách” tuy rồi lại không từ bỏ được…Sử gia nhà nho các
đời sau khi chép sử triều Trần đều chung hàm ý đánh giá, rằng nhà Trần “về khoan
hậu thì có thừa mà về nghiêm trọng (nghiêm khắc, trang trọng) thì không đủ”.
Đương nhiên, khuynh hướng vận động chung của hệ tư tưởng xuyên suốt từ Ngô,
Đinh cho tới tận triều Nguyễn vẫn là càng ngày càng thần thánh hóa, tuyệt đối hóa
ngôi vua, vì thế mà nhìn chung, lịch sử càng nối dài thì sự chồng tầng theo hình
kim tự tháp của kết cấu xã hội càng trở nên nặng nề, và khát vọng vươn lên địa vị
tột đỉnh ở mỗi cá thể, vì thế cũng ngày càng mãnh liệt. Nhưng cuộc đời và hành
trạng của Trần Nhân Tông trong thực tế lại đặt ra một số vấn đề theo một đường
hướng khác. Để hiểu Ngài, hẳn rằng phải trả lời một câu hỏi đặc biệt: rằng khi ai
đó đã có địa vị (thậm chí từ thuở lọt lòng) là “bề trên tự nhiên”, một vị trí độc đắc,
tối thượng mà bối cảnh lịch sử - cụ thể không làm xuất hiện đối thủ tranh giành, rồi
người đó lại được hưởng thụ một nền giáo dục hoàn hảo bậc nhất của thời đại
mình, tự giáo dục một cách ráo riết với một tư chất bẩm sinh là phi phàm, thì rốt
cuộc, người ấy có thể muốn gì và có thể làm gì với đời sống và sinh mệnh của
chính mình, theo yêu cầu tối ưu hóa tồn tại?
Triết lý sống xuất hiện từ xa xưa trong nền văn hóa Trung Hoa rồi phổ cập
ra toàn vùng Đông Á về mục tiêu rốt ráo của đời người là làm sao để “dự” được
vào một trong ba vị trí: lập đức, lập công hay lập ngôn, gọi là “tam bất hủ”. Mẫu
người cầm quyền lý tưởng theo Nho giáo là thánh vương, trên thực tế lịch sử
là hiền nhân lập đức. Thánh hiền Nho gia nói chung chính là mẫu người lập đức,
kết hợp nhiều ít với tiêu chí lập ngôn.Nhưng thánh hiền Nho gia không ai thực sự
lập được “đại công”, hiểu theo nghĩa có một sự nghiệp chính trị nổi bật lúc sinh
thời. Pháp gia không đưa ra hình mẫu mang tính lý tưởng thực thụ, vì đó là một
học thuyết cai trị theo tinh thần duy lợi, thực dụng nhưng tìm ra từ các công trình
mang tính lý thuyết cơ bản của các nhà tư tưởng thuộc phái này, thì mẫu người
cầm quyền đáng được đề cao nhất chính là mẫu người cầm quyền có đại công.
Trong lịch sử chính trị của Trung Quốc, một lịch sử chính trị có thực chất “nội
Pháp ngoại Nho”, “thập đại đế vương” chính là những Hoàng đế được ghi nhận

trên đường hướng này. Không ai trong số các đế vương nhờ lập ngôn mà trở nên
hiển hách trong lịch sử. Phần lớn các “đại đế vương” Trung Hoa có khuyết tật
trong nhân cách.
Với tất cả những dữ kiện lịch sử khả tín còn lại đến nay mà mình có thể biết,
với tư cách nhà khoa học, cá nhân tôi không tìm thấy những bằng chứng để nhận
xét rằng Trần Nhân Tông có thể có những tỳ vết nào đó về phương diện đức hạnh!
Sử thần Nho gia về sau từng đưa ra lời đại nghị, rằng Ngài “bẩm được tinh anh
thánh nhân, thần khí tươi sáng, thể chất hoàn hảo”. Dường như “luật thừa trừ”
(“bỉ sắc tư phong” – được cái này thì mất cái kia) đã lảng tránh Ngài, không đụng
chạm tới Ngài!
Kinh nghiệm cho thấy, để hiểu một nhân vật lịch sử ở những tầng sâu kín
nhất của họ, thường cần phải xâm nhập vào những trước tác hay những di ngôn, di
chúc mà họ để lại. Chả thế mà S. Freud cùng các đồ đệ đã nhất trí cho rằng nghệ
thuật và những giấc mơ cung cấp cho ta hình ảnh thăng hoa của những gì các
“đương sự” không hoặc chưa thể thực hiện trong đời thực. Vô số khát vọng của
con người, của cả các vĩ nhân, quằn quại, giãy dụa roi rói trong các con chữ, mặc
cho thể xác họ đã từ lâu tuần hoàn trong hoàn vũ. Nhưng đọc hết những trước tác
mà Trần Nhân Tông để lại, lại cơ hồ không tìm thấy dấu vết của những “mộng ước
chưa thành” ấy. Chỉ có thể cho rằng, Ngài đã sống một cuộc đời không còn gì đáng
để có thể ước mơ cao hơn, xa hơn!
Nhận chân về tính hữu hạn của đời người trên tất cả mọi bình diện, đó không
phải là một phát hiện gì mới mẻ, nhất là ở các bậc được coi là đại trí xưa nay.
Nhưng kể cả các bậc đại trí cũng chỉ thường nhận ra những giới hạn sau những thể
nghiệm thất bại, và cũng thường phải đợi tới độ tuổi “sang nửa bên kia” của đời
người. Vào một ngày “Xuân muộn” (Xuân vãn), Trần Nhân Tông cũng thể nhận
điều đó:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá Đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng

` (Tuổi trẻ chưa từng hiểu thế nào là “sắc”, “không”
Mỗi độ xuân về lòng để giữa trăm hoa
Nay khi đã khám phá ra khuôn mặt chúa xuân
Thì ngồi thiền trên tấm bồ đoàn nhìn hồng rụng).
Nhưng dường như sự thể nhận này ở Trần Nhân Tông không xuất lộ bởi
những trải nghiệm đắng cay nào đó trong đời sống của chủ thể, và cũng chỉ vào
thời khắc “muộn của mùa Xuân” chứ không là “buồn tàn thu” hay “sầu đông” ảo
não. Tính chấtan nhiên lộ rõ trong từng chữ.
Những bậc thánh triết Đông phương thường thường chỉ bàn về mọi lẽ một
khi đã “liễu sinh tử”, tức đã thông hiểu tận cùng “căn nguyên và cơ cấu của sự
sống và sự chết”. Làm chủ được “lẽ tử sinh”, với cơ hồ tất cả họ, mới xác lập được
tiên đề cho việc luận đàm về mọi điều còn lại. Không chỉ Phật giáo, mà các học
thuyết hay tôn giáo khác trong toàn khu vực cũng khá đồng quy trong tinh thần đó.
Đứng trên lằn ranh giới của cuộc sinh tồn, chính là xác lập một tọa độ lý tưởng để
có thể “quán chiếu” rốt ráo đối với mọi “ỉ eo đời thường” khác.
Nhậm ngôi cao, lập công lớn, sớm thành bậc thượng trí minh triết, Trần
Nhân Tông kịp dành phần lớn cuộc đời mình để phụng sự cho cộng đồng. Khác với
rất nhiều những triết nhân một khi đã tự cho mình là đấng toàn tri (omniscience)
thì cũng bị ám ảnh bởi một thứ chủ nghĩa bi quan triết học, Trần Nhân Tông truyền
cho đời sống một cảm xúc chí ít phải được đánh giá là lạc quan, nếu không cho
rằng đó là một thái độ “ngày hằng sống, ngày hằng vui”.Tinh thần “hòa quang
đồng trần”, “cư trần lạc đạo”, “tam giáo tịnh hành” … nhờ thế trở thành “phong
cách sống” của rất nhiều nhân vật văn hóa - lịch sử của thời đại. Dưới triều đại của
Ngài, từ quý tộc, văn nhân, võ tướng, nhân gian bách tính cho đến những người
thân phận thấp kém như hoạn quan, gia nô, nô tỳ, cho cả đến tù binh, tù nhân,
những nhóm dân cư do hoàn cảnh cụ thể lâm vào tình thế tha phương cầu thực hay
bị hạn chế tự do, đều nhất loạt trở nên “dễ sống” hơn, vui sống hơn. Cá nhân Trần
Nhân Tông, trong khi vừa tiếp tục thực thi những bổn phận “thế tục”, “hàng ngày”
của mình, vừa làm nhà cầm quyền tối cao, vừa làm nhà ngoại giao kỳ đặc(cả trong
những tình huống ứng xử đối nội lẫn đối ngoại), làm vị tướng song toàn, làm con

hiếu thuận, làm cha nghiêm từ, làm em, làm anh độ lượng , lại còn vừa lo nghĩ,
tính toán nhiều đại sự cho nhiều thế hệ tiếp theo.
Chỉ với những gì thư tịch còn sót lại đến nay, có thể khẳng định Trần Nhân
Tông là một tác giả văn chương vừa tinh tế vừa đa phong cách. Một trong những
đóng góp đặc biệt của Trần Nhân Tông với tư cách tác giả văn học thể hiện ở chỗ
Ngài chính là tác giả quan trọng đầu tiên còn để lại những tác phẩm lớn bằng chữ
Nôm (với hai tác phẩm Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca),
góp phần quan trọng kiến tạo nên bộ phận văn học viết bằng ngôn ngữ ghi lại tiếng
nói của dân tộc.
Như nhiều học giả đã khẳng định, Thiền phái Trúc Lâm do Ngài sáng lập và
trở thành Trúc Lâm đệ nhất tổ vừa kế thừa được tinh hoa của Thiền Tông nói
chung, vừa kết tinh những thành tựu tu tập và quán tưởng của các hành giả bản địa,
để trở thành một Thiền phái mang đậm sắc thái dân tộc mà đặc điểm hàng đầu là
tinh thần nhập thế lạc quan, lại cũng vừa là nơi thể nghiệm sự kết hợp, dung hòa
thêm các thành tố có nguồn gốc tôn giáo, tín ngưỡng hay học thuyết khác. Tinh
thần “dung tam tế” của các bậc quốc sư từ nhiều triều đại trước đến đây mở rộng
hết tầm vóc. Một trong những chứng tích có ý nghĩa nhiều mặt được truyền thông
rộng rãi gần đây chính là việc đấu giá phiên bản của bức họa Trúc Lâm đại sĩ xuất
sơn đồ mà bản gốc được coi là quốc bảo đang được bảo vệ và lưu trữ ở Trung
Quốc.

II. Những thông điệp hướng tới tương lai
II.1. Thông điệp từ một vị quốc chủ: có thể bảo vệ độc lập cho một quốc
gia, mưu cầu hạnh phúc cho một cộng đồng, vượt qua mọi hiểm họa khi
tạo được một cộng đồng đoàn kết nhất trí
Nước Đại Việt nửa sau thế kỷ XIII dưới sự trị vì của Trần Nhân Tông không
phải là một quốc gia lớn xét trên hầu hết mọi tiêu chí. Kể từ thời điểm phục hồi độc
lập thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc, sau triều Lý, nhà Trần mới là vương triều thứ
hai có thời gian tồn tại có thể đo bằng đơn vị thế kỷ. Chứng kiến thực tế đội quân
Nguyên – Mông tiêu diệt nhà Tống, xóa sổ nhà nước Đại Lý nhập toàn bộ vùng

Vân Nam vào lãnh thổ đế chế Nguyên (điều mà hàng nghìn năm các đế chế trên
đất Trung Quốc, kể cả nhà Đường, không thể làm được!), rồi qua việc trao đổi các
sứ đoàn, qua sự khoe khoang của các đại diện nhà Nguyên, chắc chắn vua tôi nhà
Trần nắm bắt khá chính xác tiềm năng mọi mặt của thế lực xâm lược mới này. Các
bộ quốc sử của Trung Quốc lẫn Việt Nam viết về giai đoạn này cung cấp vô số tư
liệu cho phép người ngày nay còn có thể hình dung về một sức mạnh dường như
“siêu nhiên” của cái đội quân đã từng làm mưa làm gió trên khắp hai lục địa Á –
Âu đó.
Lẽ thường, đối diện với một kẻ thù mạnh, trong hàng ngũ tầng lớp cầm
quyền của quốc gia bị đe dọa xâm lược không sớm thì muộn, không nhiều thì ít sẽ
xuất hiện một bộ phận hèn nhát, chỉ nhăm nhe bảo vệ lợi ích cục bộ của gia đình
riêng hoặc tính mạng, tài sản cá nhân của mình. Vương triều Trần cũng không là
ngoại lệ. Ngay từ cuộc xâm lăng đầu tiên của quân Nguyên – Mông đầu năm 1258,
trong vương thất cũng đã xuất hiện những kẻ bạc nhược như vậy. Tới cuộc xâm
lăng thứ hai của quân Nguyên năm 1285, rồi lần thứ ba ngay vài năm sau, với
quyết tâm vừa báo thù rửa hận lần thất bại trước, vừa kiên quyết xóa sổ nhà nước
Đại Việt, thì cái bộ phận tham sinh úy tử, quay lưng ngoảnh mặt với vận mệnh
quốc gia còn tăng lên nhiều hơn.
Vậy nhưng, hơn hẳn mọi vương triều trước đây trong lịch sử, bộ phận lãnh
đạo tối cao của quốc gia mà đặc biệt là vào thời điểm Trần Nhân Tông làm vua đã
vừa bày tỏ những phẩm hạnh và tinh thần trách nhiệm cá nhân theo những cách
thức mạnh mẽ nhất, hào hùng nhất, lại vừa biết cách tập hợp ý chí, khát vọng và
động viên sức người, sức của của mọi thành viên cộng đồng cũng theo một cách
thức vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết lại vừa cận nhân tình nhất có thể. Nếu trong lần
xâm lược đầu tiên của quân Nguyên – Mông người đọc sử ngày nay nhớ mãi lời
đáp khảng khái của Thái sư Trần Thủ Độ “ Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ
đừng lo” đè bẹp ấn tượng bi hài mà Thái úy Trần Nhật Hiệu vừa mới “trình diễn”
một cách ê chề trước đó[1], thì 27 năm sau, trong lần xâm lăng thứ hai của quân
Nguyên, khi mà nhà Tống đã hoàn toàn bị tiêu diệt, đế chế Nguyên Mông đã ổn
định về cơ bản, hàng loạt hoạt động nhằm cố kết nhân tâm, huy động tối đa sức

người sức của của toàn thể cộng đồng lẫn nhưng biện pháp tuyên truyền khích lệ
tinh thần hướng tới mọi tầng lớp cư dân đã được thực thi một cách đồng bộ và triệt
để. Hội quân chư hầu bến Bình Than, Hội nghị bô lão điện Diên Hồng, hàng chữ
Sát Thát trên cánh tay quân sĩ, tiếng thét kiêu hùng của Bảo Nghĩa Vương Trần
Bình Trọng khi sa vào tay giặc, cho tới việc xuất hiện của vị anh hùng thiếu niên
Trần Quốc Toản, người anh hùng xuất thân thôn dã Phạm Ngũ Lão, những lối ứng
xử “đẹp hơn cổ tích” của những người vốn mang thân phận gia nô như Yết Kiêu,
Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô…và nhiều nữa những người, những việc đã làm nên vẻ
đẹp đầy sắc thái huyền thoại của một thời kiêu hùng trong lịch sử quốc gia - dân
tộc.
Vẫn biết rằng, trong những cơn quốc nạn như thế, lũ người như Trần Ích
Tắc, Trần Lộng, Trần Kiện…xuất đầu lộ diện dường như cũng là tất yếu, là “không
tránh khỏi”, nhưng chắc chắn giai điệu chủ âm của thời đại vẫn là giai điệu anh
hùng ca.
Có một Đại Việt dưới và sau thời Trần Nhân Tông đầy hào khí, hào quang
và cũng đầy hạnh phúc. Tiếc rằng trạng thái đó đã không được duy trì lâu dài. Để
đến hôm nay còn quá nhiều người Việt Nam mơ về đầy nuối tiếc.
Lo toan mọi nhẽ cho quốc gia mình, cho cộng đồng mình, đề phòng những
bộ tộc tuy nhỏ yếu hơn nhưng vẫn có thể nảy sinh những tham vọng về lợi ích vật
chất và lãnh thổ, Trần Nhân Tông thân chinh cầm quân tiến hành những cuộc chinh
phạt mang tính ngăn ngừa, răn đe, nhưng không cho thấy Ngài có tham vọng bành
trướng. Việc chinh phạt Ai Lao được Ngài giải thích rõ cho triều thần:
“Vua thân đi đánh Ai Lao. Triều thần can rằng: “Giặc Hồ vừa rút, vết
thương chưa lành. Đâu đã có thể dấy binh đao?”.
Vua nói: “Chỉ có thể lúc này ra quân thôi. Vì sau khi giặc rút, ba cõi tất cho
là lính tráng, ngựa chiến của ta đã chết cả, thế không thể lên nổi, sẽ có sự khinh
nhờn từ bên trong, cho nên phải cất quân lớn để thị uy”.
Nhưng mối ưu tâm lớn nhất của Trần Nhân Tông về an ninh quốc gia chủ
yếu vẫn là đối với triều đình nhà Nguyên. Bằng tất cả sự mềm dẻo và uyển chuyển
nhất có thể, Trần Nhân Tông đã tiến hành rất nhiều những hoạt động ngoại giao

thời hậu chiến, mà mục đích hàng đầu là xác lập cho được một “đường biên giới”
hòa bình, thân thiện nữa, với thế lực hùng mạnh đang làm chủ đế chế ở phương
Bắc. Cảnh thái bình sau đó của quốc gia Đại Việt bên cạnh một đế chế có một đội
quân thiện chiến và tham vọng lãnh thổ cơ hồ không giới hạn là một minh chứng
rực rỡ của nền ngoại giao thời nhà Trần sau những võ công không tiền khoáng hậu
trước chính đối thủ đó.
Hơn bảy thế kỷ đã qua đi. Thế giới vẫn còn rất nhiều quốc gia nằm trong
tình trạng “nước nhỏ dân ít, xã hội kém phát triển, kinh tế đầy khó khăn, luôn luôn
bị các thế lực hùng mạnh bên ngoài chèn ép và đe dọa thôn tính”. Nước Việt Nam
sau hàng thiên niên kỷ tự cường, vẫn còn đối diện với rất nhiều thách thức. Những
thông điệp mà cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông với tư cách là đấng quốc
chủ truyền lại ngày hôm nay vẫn còn nóng bỏng tính thời sự, trước hết cho mọi
người Việt. Nhưng cũng chắc chắn rằng, đó còn là thông điệp cho các cộng đồng,
cho những người lãnh đạo quốc gia ở các cộng đồng khác nhau trên thế giới đang
phấn đấu để đạt tới vị thế quốc gia bình đẳng và cộng đồng hạnh phúc.
II.2. Thông điệp làm người: vẫn có thể làm một con người toàn hảo trong
một thế giới chưa hoàn thiện
Ở ngôi vua, mà đã là đời vua thứ ba của vương triều, Trần Nhân Tông dường
như vẫn coi địa vị mà mình và rồi cả con cháu mình có được chỉ là tạm bợ. Sử liệu
và cả tư liệu dã sử khẳng định nhà vua ngay từ thời trẻ đã thích ăn chay, thường
dùng bữa đạm bạc. Mọi nhu cầu trong đời sống hàng ngày của Trần Nhân Tông
được ghi nhận là “Nhìn xem phú quý tâm tình nhưng nhưng”, “Lòng hằng nhớ giữ
tôn phong nhà Thiền” (Thiền tông bản hạnh). Gần cuối đời, có lần “ ngự cung
Trùng Quang, vua (Anh Tông) đến chầu, quốc công Quốc Tuấn đi theo. Thượng
hoàng nói: “Nhà ta vốn là người mạn dưới, đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm
hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không
quên gốc”.(Đại Việt sử ký toàn thư).
Tuy nhiên, Ngài cũng biết rõ, rằng phú quý và đặc quyền, sự phân tầng về
địa vị và thân phận là điều vẫn tiếp tục diễn ra trong triều đình theo cách không thể
ngăn cản được. Nhân loại ở thời điểm ấy chưa nơi nào biết tới dân chủ và bình

đẳng, chưa ở đâu có thể thực hành việc xóa bỏ mọi cách bức giữa người với người,
trừ trong giáo lý Phật giáo. Được giáo dục kỹ lưỡng về nội dung các học thuyết lớn
lưu hành trong khu vực đương thời, tùy theo từng hoàn cảnh và tình huống cụ thể
mà Trần Nhân Tông phát huy sở học tương ứng, nhưng điểm hồi quy và sự lựa
chọn cá nhân tối hậu trong hành xử của Trần Nhân Tông là Thiền.
“Phật pháp bất ly thế gian pháp” vốn là lựa chọn hành xử của cả Đại tông
phái Đại thừa trong Phật giáo. Xét trên bình diện giáo lý lẫn trên bình diện tu tập,
Thiền tông ở Việt Nam trong các thế kỷ VIII - XIV không có nhiều sự đổi mới hay
bổ sung so với Thiền tông trong cả khu vực Đông Á. Điểm khác biệt lớn nhất nằm
ở địa vị của Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng trong bức tranh toàn cảnh
của đời sống tinh thần xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu từ trước tới nay thường cho rằng vào các thế kỷ đầu
của kỷ nguyên độc lập ở Việt Nam sau năm 939, Phật giáo là quốc giáo. Có lẽ đó
là một sự khẳng định theo hướng đơn giản hóa, có nguy cơ khi suy diễn tiếp tục sẽ
đưa lại những ngộ nhận. Tuy nhiên, việc trên dưới một nửa thiên niên kỷ Phật giáo
và đội ngũ tăng lữ có vị trí kề cận ngai vàng và từng có vai trò rất quan trọng trong
suốt cả 5 triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần lại là một sự thật lịch sử, và điều
đó không từng xảy ra trong lịch sử chính trị của các vương triều thuộc các quốc gia
Đông Á. Và đỉnh điểm của sự kết hợp Thiền tông với quyền lực chính trị tối cao
trong một vương triều diễn ra chính trong thời của Trần Nhân Tông. Như đã biết,
Ngài chính là vị vua duy nhất đồng thời trở nên giáo chủ, sáng lập ra hẳn một giáo
phái. Chính vì thế, đời sau mới xưng tụng duy nhất một mình Ngài là Phật hoàng.
Đây không phải chuyện danh xưng, không phải là hô ngữ chỉ nhằm vinh
danh một con người.
Chắc chắn rằng Trần Nhân Tông đã đủ thời gian và trí lự để đọc, nghiền
ngẫm và tự mình rút ra được rất nhiều những tri thức từ các lý luận quyền lực của
các học thuyết từng hiện hữu trong nền văn hóa khu vực và vô số bài học kinh
nghiệm từ các bộ sử lớn của Trung Quốc và Việt Nam cho công việc làm vua của
mình. Giữa các học thuyết ấy, Phật giáo cơ hồ không có lý luận về quyền lực thế
tục nói chung, chỉ quan tâm đến quyền năng của những ai sau khi đã giác ngộ. Học

thuyết Lão - Trang với chủ trương “vô vi nhi trị” nổi tiếng cũng chưa bao giờ trở
thành cẩm nang chính trị của những người cầm quyền giàu tham vọng, nhiều lắm
chỉ là lý tưởng chính trị (trong phần lớn trường hợp biến thành sáo ngữ) của những
“triết nhân sầu não” trót bị / được “đặt nhầm chỗ” lên ngai vàng. Khi học thuyết
này bị / được tôn giáo hóa thì sức hấp dẫn của nó về phương diện thể hiện tác động
vào “cõi nhân gian” cũng lại bắt nguồn từ “cõi trên” siêu nhiên. Tập trung bàn về
quyền lực cai trị và nghệ thuật cầm quyền với tư cách là những học thuyết nhập
thế, cứu thế, đó là nội dung căn bản của Pháp trị và Nho thuật, trong đó Pháp gia
nghiêng mạnh mẽ về thuật cai trị của nhà cầm quyền tối cao, trong khi Nho gia bàn
rộng, bàn kỹ hơn về bổn phận của cả tầng lớp sĩ và bộ máy quan lại với chức năng
“tả phù, hữu bật” giúp Hoàng đế đưa thiên hạ đến cảnh thái bình thịnh trị.
Không còn nguồn sử liệu đáng kể để ngày nay nhà nghiên cứu có thể hình
dung, dù chỉ trên những nét đại thể, về quá trình tiếp nhận tri thức liên quan đến
việc cầm quyền bính tối cao của các bậc vua chúa ở các thế kỷ X – XV nói chung,
nhưng qua sử liệu về diễn biến nền chính trị thực tế, có thể nhận ra không quá khó
khăn dấu ấn của các học thuyết đó. Với địa vị, tư chất và thân phận của mình, Trần
Nhân Tông chắc chắn đã được đào tạo và tự mình tìm hiểu kỹ lưỡng về lý thuyết
cùng những bài học về nghệ thuật cai trị từ cả nền chính trị trong nước lẫn nền
chính trị khu vực. Nhiều bằng chứng cho thấy Trần Nhân Tông hiểu rất rõ và vận
dụng một cách rất thuần thục, thậm chí đầy sáng tạo, nghệ thuật làm vua theo tri
thức và kinh nghiệm từ các vị vua chúa nổi bật chịu ảnh hưởng của Nho gia và cả
Pháp gia, nhưng với tư cách là một đấng quân vương, Ngài không phải là một
trong số họ. Hoàng đế Trần Nhân Tông thực thi bổn phận đế vương (với những
tiêu chí là dựa theo sự tổng kết của Nho gia và Pháp gia) của mình trên nền tảng
của một thiền sư đã đắc đạo sớm, đó mới chính là đặc điểm nổi bật hàng đầu khi
phục dựng lại chân dung của vị vua độc nhất vô nhị này.Và với một chân dung
như vậy, Trần Nhân Tông trở nên là một điểm ngưng kết tuyệt đẹp của tâm thức
lịch sử cộng đồng, một mẫu người cầm quyền lạ lẫm, kết hợp được tối đa chủ
nghĩa vị tha, tinh thần “từ, bi, hỉ, xả”của nền đạo đức và cũng là sản phẩm của sự
tu hành, nghiệm sinh và chứng ngộ theo Phật giáo với những phương diện tích cực

lịch sử mà lý thuyết và thực tiễn cai trị của các bậc đế vương thành công nhất theo
Nho giáo đã đúc kết được.
Sống trong cõi đời năm mươi năm, hai mươi năm đầu đời là hoàng trưởng tử
rồi Thái tử, cũng là hai mươi năm làm một người học trò của các vị sư phó thuộc
đủ các môn phái và lý thuyết, Trần Nhân Tông lên ngôi lúc vừa 20 tuổi. Ngài ở
ngôi 14 năm, rồi nhường ngôi làm Thượng hoàng, tiếp đó xuất gia, tuy vẫn tham
gia quyết định những công việc lớn của triều đình.Với một hành trạng như vậy, có
thể nói Trần Nhân Tông hội đủ điều kiện để đi từ suy ngẫm đến việc thực hành một
thứ “đạo làm người” và trong thực tế đã sống một cuộc đời hoàn hảo, tuyệt mỹ.Đối
diện với những vấn đề mang tầm quan trọng hàng đầu của đời sống, của thời đại,
kể cả những giới hạn vượt ra ngoài sự khắc phục của con người trong thời đại đó,
Trần Nhân Tông bằng cuộc đời mình cho thấy Ngài đã đạt tới những “đáp án” tràn
đầy “sự thành thục nhân tính”. Điều quan trọng nữa là những đáp án ấy không chỉ
dành cho một loại người đặc biệt nào, mà còn có thể dành cho mọi cuộc đời, mọi
thân phận trong xã hội. Thật khó hình dung một cuộc đời hoàn hảo hơn, cho dẫu
thế gian này, diễn đạt theo cách của R. Tagor, mãi mãi vẫn chỉ có thể là một “thiên
đường xộc xệch”!

T.N.V
(Nguồn: viet-studies.info)

[1] Đại Việt sử ký toàn thư :: “Thế giặc rất mạnh, vua phải lui giữ sông Thiên
Mạc. …Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền Thái úy Trần Nhật Hiệu hỏi kế sách. Nhật
Hiệu đang dựa mạn thuyền, cứ ngồi chứ không đứng dậy nổi, chỉ lấy ngón tay
chấm nước viết hai chữ “ Nhập Tống” lên mạn thuyền. Vua hỏi quân Tinh Cương
(là đội quân do Nhật Hiệu chỉ huy) ở đâu? Nhật Hiệu đáp “Không gọi được chúng
đến”. Vua lập tức dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ trả lời: “Đầu
thần chưa rơi xuống đất,xin bệ hạ đừng lo gì khác!”.


×