Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

của vợ chồng.Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này, em làm bài tập 4 là :“ Tìm hiểu những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện quy định của Luật HN & GĐ về chế độ tài sản của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.09 KB, 15 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là nhu cầu khách quan
của toàn xã hội trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trên cơ sở việc kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật Hôn nhân và Gia đình,
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những điểm tiến bộ, khắc phục những
hạn chế của những bộ Luật Hôn nhân và gia đình trước đó. Quá trình thực hiện và
áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về chế dộ tài sản của vợ chồng
những năm qua ở nước ta đã thu được nhiều kết quả to lớn. Luật đã thực sự đi vào
cuộc sống, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân. Và chế độ tài sản
của vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong các
chế định cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật về Hôn nhân và gia đình.Tuy nhiên,
do nhiều nguyên nhân khác nhau mà những quy định của Luật về chế độ tài sản
của vợ chồng vẫn mang tính định khung, chưa cụ thể; thiếu các văn bản hướng dẫn
áp dụng về chế độ tài sản của vợ chồng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
vì vậy mà các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình vẫn còn tồn tại những
vướng mắc, bất cập về chế độ tài sản của vợ chồng.Nhận thấy rõ tầm quan trọng
của vấn đề này, em làm bài tập 4 là :“ Tìm hiểu những vướng mắc, bất cập và
hướng hoàn thiện quy định của Luật HN & GĐ về chế độ tài sản của vợ chồng”.
Sau đây là phần phân tích để có được cái nhìn rõ nét và sâu sắc hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG:
Theo TS. Nguyễn Văn Cừ trong cuốn Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật hôn nhân và gia định Việt Nam thì :
“Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về
sở hữu tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và
nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng.”
1
Sở dĩ các nhà lập pháp phải dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng là bởi :
Thứ nhất, do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập – tính
cộng đồng của quan hệ hôn nhân. Kể từ khi nam, nữ kết hôn trở thành vợ chồng ,


họ cùng chung sống, gánh vác chung công viẹc gia đình, cùng nhau tạo dựng tài
sản chung…Do đó muốn bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì cần
phải có tài sản, tiền bạc, sản nghiệp của vợ chồng. Nếu nhà làm luật không dự liệu
“cách xử sự” theo quy định chung thì khó lòng kiểm soát, định hướng trong việc
điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng trong các giao dịch dân sự. Thứ hai,
việc dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở đề vợ chồng thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong suốt
thời kỳ hôn nhân; như việc luật quy định các căn cứ, nguồn gốc, phạm vi các loại
tài sản thuộc sơ hữu chung của vợ chồng hoạc tài sản riêng của vợ chồng.Theo đó,
vợ, chồng xác định rõ được các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến tài sản của
mình. Thứ ba, việc quy định chế đọ tài sản của vợ chồng trong pháp luật là cơ sở
pháp lí để các cơ quan nhà nước co thẩm quyền giả quyết các tranh chấp về tài sản
giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với những người khác.
II.NH ỮNG VƯỚNG MẮC VÀ BẤT CẬP TRONG QUI ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ
TÀI SẢN VỢ CHỒNG:
Qua nghiên cứu nội dung của chế độ tài sản giữa vợ chồng, một số bất cập, vướng
mắc của những quy định trong luật về vấn đề này cũng dã bộc lộ, do luật dự liệu
chưa đầy đủ và cụ thể : quyền liên quan đến tài sản của vợ chồng vẫn còn rất “ ít
ỏi”; mới chỉ có Nghị định số 70/2001/NĐ – CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia định ( Chương II, các điều từ 4 đến
điều 13; Chương V, từ điều 23 đến điều 30) và Nghị quyết số 02/2000/NQ –
HĐTP tối cao về việc hướng dẫn ấp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình (HN&GĐ) năm 2000 (mục , 4, 12). Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển
nhanh chóng, cùng với những quy định của hệ thống pháp luật được Nhà nước ta
ban hành ( bộ luật Dân sự, Luật đất đai, Luật Doanh nghiệp…) có liên quan đến
2
chế độ tài sản của vợ chồng đã là điều kiện khách quan đòi hỏi phải có các quy
định cụ thể hơn về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật.
1.Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng:
* Vấn đề tài sản chung của vợ chồng:

- Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại trước pháp luật,
tính từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật . Tuy nhiên,
theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình, trong một số trường hợp
cụ thể, việc xác định “thời kỳ hôn nhân” chưa được luật dự liệu; các văn bản
hướng dẫn áp dụng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa đề cập tới
các vấn đề liên quan đến nguyên tắc xác lập tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân đối với trường hợp này.
- Luật HN&GĐ năm 2000 đã khắc phục được phần nào những vướng mắc, phức
tạp trong vấn đề xác định, phân chia tài sản của vợ chồng. Khoản 2 Điều 27 quy
định : “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải
ghi tên của vợ chồng”. Đây là quy định mới khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và
chồng trong quan hệ tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở
hữu của cả hai bên vợ, chồng. Qua đó có thể tránh được những tranh chấp phát
sinh từ quyền tài sản vợ chồng, đồng thời tạo cơ sở để Toà án giải quyết một cách
đúng đắn việc phân chia tài sản, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của phụ nữ. Tuy nhiên,
việc áp dụng trên thực tiễn các quy định của pháp luật về chứng minh nguồn gốc
của tài sản là tài sản chung hay là tài sản riêng cũng hết sức khó khăn, phức tạp.
Thứ nhất, theo Nghị quyết số 02/2000, “trong trường hợp tài sản do vợ,
chồng có được trong thời kì hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền sở
hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng,
nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là
tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh
3
dựoc tài san này do dược thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân
hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tài khoản 1, điều 32 (điểm
3.b). Điều này nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bên trong
quan hệ hôn nhân vì “thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đói
vớiđời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của vợ
chồng”. Đến Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ hướng

dẫn thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 quy định : không buộc vợ chồng phải đăng
kí lại những tài sản chung đã đứng tên một người trước đó ( trước ngày Nghị định
có hiệu lực); nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của
mình, thì có nghĩa vụ chứng minh (khoản 3, điều 5). Như vậy, các quy định hiện
nay thể hiện giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản , giấy đăng kí tài sản hay giấy
chựng nhận quyền sử dụng đất là bằng chứng có giá trí pháp lý cao trong việc
chứng minh tài sản của vợ chồng là tài sản chung hay tài sản riêng. Tuy nhiên, đến
thời điểm hiện nay, các quy định của Nghị định số 70/2001 vẫn chưa được áp dụng
một cách dồng bộ và hiệu quả trong việc ghi tên chung cho các giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản chung, việc đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sự
dụng tài sản chung. Điều này cho thấy, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản chưa
được xem là loại bằng chứng có giá trị phát lí cao nhất để chứng minh việc tài sản
tranh chấp là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng.
Trong trường hợp có tranh chấp giữa vợ chồng về tài sản chung hay riêng tồn tại
trong thời kì hôn nhân của họ thì cần phải đưa ra những loại bằng chứng nào để
chứng minh? Pháp luật HN&GĐ lại không quy định rõ. Vì vậy, trong thực tiễn, có
nhiều loại bằng chứng đều có thể được chấp nhận, cả bằng chứng viết (các giấy tờ
chứng minh quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng với tài sản đang tranh chấp),
lời khai của nhân chứng, hoá đơn, chứng từ,…thậm chí là cả sự thừa nhận của bên
còn lại.
Thứ hai, theo khoản 1 điều 5 Nghị định số 70/2001 thì tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng khi đăng kí phải ghi tên cả vợ và chồng, bao gồm “nhà ở,
quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền
4
s hu: hin nay, cỏc c quan Nh nc cú thm quyn khi thc hin quy nh ny
ó cp giy chng nhn quyn s dng t, cp giy chng nhn quyn s hu nh
v giy ng kớ ụ tụ, xe mỏy ghi tờn v v chng, nhng ngi ó c cp giy
chng nhn cú th yờu cu cp li giy t ghi tờn c v c chng. Tuy nhiờn, ngoi
nhng ti sn núi trờn thỡ nhng ti sn khỏc l ti sn gỡ thỡ vn cha c qui
nh rừ.

Th ba, i vi trng hp v, chng b To ỏn tuyờn b l ó cht, m sau
ny vỡ lý do no ú li tr v ( cha cht), thỡ vic xỏc nh ti sn chung ca v
chng rt phc tp vỡ phỏp lut dõn s v hụn nhõn gia ỡnh ca Nh nc ta vn
cha cú d liu v vn ny.
iu 83 B lut Dõn s nm 2005 mi ch qui nh mt s hu qu phỏp lớ khi
To ỏn hu b quyt nh tuyờn b mt ngi l ó cht, ú l:
1. Khi một ngời bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là ngời đó còn
sống thì theo yêu cầu của ngời đó hoặc của ngời có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra
quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố ngời đó là đã chết.
2. Quan hệ nhân thân của ngời bị tuyên bố là đã chết đợc khôi phục khi Toà án ra
quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố ngời đó là đã chết, trừ các trờng hợp sau đây:
a) Vợ hoặc chồng của ngời bị tuyên bố là đã chết đã đợc Toà án cho ly hôn theo quy
định tại khoản 2 Điều 78 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp
luật;
b) Vợ hoặc chồng của ngời bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với ngời khác thì việc kết
hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
3. Ngời bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những ngời đã nhận tài
sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trong trờng hợp ngời thừa kế của ngời bị tuyên bố là đã chết biết ngời này còn sống
mà cố tình giấu giếm nhằm hởng thừa kế thì ngời đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận,
kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thờng.
iu 26 Lut HN&G nm 2000 dó quy nh v quan h hụn nhõn khi mt bờn
v, chng b tuyờn b l ó cht m tr v nh sau :
Khi Tũa ỏn ra quyt nh hy b tuyờn b mt ngi l ó cht theo quy nh ti
iu 93 ca B lut dõn s m v hoc chng ca ngi ú cha kt hụn vi ngi khỏc
thỡ quan h hụn nhõn ng nhiờn c khụi phc; trong trng hp v hoc chng ca
ngi ú ó kt hụn vi ngi khỏc thỡ quan h hụn nhõn c xỏc lp sau cú hiu lc
phỏp lut.
Tuy nhiờn cỏc qui nh ny mi ch cp v quan h nhõn thõn gia v
chng, khi mt bờn v, chng b tuyờn b l ó cht m li tr v, cũn quan h ti

5
sản giữa vợ chồng ( nhất là hậu quả pháp lý đối với khối tài sản chung của vợ
chồng) thì chưa được pháp luật dự liệu.Vấn đề đặt ra là :
Trong trường hợp trên,khi toàn án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người
vợ, chồng đã chết, quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên được khôi phục( nếu
người chồng hoặc vợ kia chưa kết hôn với người khác). Vậy quan hệ tài sản gồm
khối tài sản chung của hai vợ chồng có được khôi phục hay không? Hơn nữa,
những tài sản do người chồng, vợ tạo dựng cùng các hoa lợi, lợi tức thu được từ
các loại tài sản kể từ khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết cho đến ngày trở
về, thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay chỉ là tài sản riêng của người chồng,
người vợ đó? Ngoài ra, những hợp đồng mà người chồng, vợ đã ký kết, với người
khác nhưng chưa thực hiện; các mốn nợ mà người chồng hoặc vợ vay của người
khác sẽ thuộc nghĩa vụ chung của vợ chồng hay chỉ thuộc nghĩa vụ riêng của người
chồng hoặc người vợ.
Như vậy, căn cứ để xác lập tài sản chung của vợ chồng, trước hết phải dựa trên cơ
sở “thời kì hôn nhân” của vợ chồng. Toàn bộ những tài sản do vợ, chồng tạo ra
trong thời kì hôn nhân này được coi thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Thứ t ư, qua nghiên cứu nội dung Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 về căn cứ
xác lập tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, liên quan đến các loại
hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân, có
những quan điểm không thống nhất khi xác định các hoa lợi, lưọi tức đó thuộc khối
tài sản chung của vợ chồng hay vẫn “ là tài sản riêng của vợ, chồng”. Trước đây,
hệ thống HN&GĐ ở nước ta dưới chế độ cũ đã quy định cụ thể về vấn đề này.
Khoản 4 Điều 54 Sắc luật só 15/64 ngày 23/7/1964 và khoản 4diều 151 Bộ luật
Dân sự năm 1972 đã quy định hoa lợi của tất cả các tài sản thủ đắc trước hay trong
thời gian hôn thú đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Em cho rằng, Luật
HN&GĐ của Nhà nước ta cần quy định cụ thể các hoa lợi, lưọi tức thu đựoc từ tài
sản riêng của vợ hoặc chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng
phù hợp với nguyên tắc xác lập tài sản chung của vợ chồng.
* Tài sản riêng của vợ, chồng.

6

×