Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Lê Tuyên trong cái nhìn mơ mộng [Diễn giải về phê bình hiện tượng học văn học Lê Tuyên]

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.77 KB, 11 trang )

Lê Tuyên trong cái nhìn mơ mộng [Diễn giải về phê bình
hiện tượng học văn học Lê Tuyên]
(Nguyễn Mạnh Tiến)
Tóm tắt: Ngày nay nhìn lại, chúng ta thừa nhận, ngay từ những năm 60 thế kỷ
trước, Lê Tuyên qua hàng loạt những nghiên cứu, phê bình xuất sắc, mang chiều
sâu triết học văn học về ca dao, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Tú Xương, Vũ Hoàng
Chương, Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm… đã dịch chuyển thành công phê bình
văn học vào hệ hình hiện đại. Lê Tuyên với phương pháp phê bình hiện tượng học
văn học và phê bình phân tâm học văn bản kiểu Bachelard đã lấy văn bản làm
trung tâm của hoạt động diễn giải văn học.
Thế nhưng, thật kỳ lạ, di sản phê bình văn học của Lê Tuyên, cũng như của
phương pháp phê bình hiện tượng học văn học tại Việt Nam, lại hoàn toàn bị chìm
trong quên lãng. Cái tên Lê Tuyên, và hơn thế, tầm quan trọng của phương pháp
phê bình hiện tượng học, có thể nói không ngoa, đã bị lịch sử của lãng quên nuốt
chửng. Phục dựng lại phê bình văn học Lê Tuyên, tìm trở lại một tiếng nói đã mất,
điều này có ý nghĩa quan trọng, ý nghĩa ghi lại dấu mốc lần đầu tiên phê bình văn
học Việt Nam bước vào phê bình văn học hiện đại ngay từ những năm 1960 của
thế kỷ trước.
“Sen tàn cúc lại nở hoa” (Truyện Kiều)
Lần giở lại những “không gian mơ về từ mộng” như ý hướng phê bình nghệ thuật
của Lê Tuyên trình hiện, tiểu luận này gắng hướng đến một diễn giải trọn vẹn hơn
về phê bình hiện tượng học và phê bình phân tâm học văn bản kiểu Bachelard được
tác giả Lê Tuyên tiến hành rất sớm tại Việt Nam, ngay từ những năm 60 thế kỷ
trước. Những diễn giải ngắn gọn, dù vỡ vạc về phê bình văn học Lê Tuyên, nhưng
vẫn là chưa đủ (1), vị trí của ông, và ý nghĩa những phê bình mà ông đã tiến hành
cần được giới thiệu trở lại và phải có những nghiên cứu công phu, sao cho xứng
với đá vàng. Tiểu luận này lại làm vai trò anh lính tiên phong, giới thiệu để chào
đón trở lại Lê Tuyên - nhà phê bình đã dịch chuyển thành công hệ hình phê bình
văn học Việt Nam đi vào phê bình văn bản (2). Hướng phê bình văn học hiện đại,
lấy văn bản làm trung tâm, sau này hơn 30 năm, lại được các đồng nghiệp của ông
tiến hành rất thành công với phê bình phong cách học và thi pháp học. Những nỗ


lực không biết mệt của phê bình văn học Việt Nam từ nhiều phía, được thực hiện
bởi công sức độc lập của các nhà phê bình tài năng, chung vai sát cánh, góp sức lại,
cùng thúc đẩy phê bình văn học Việt Nam đi nhanh hơn đến hiện đại.
1. Lê Tuyên là người chịu ảnh hưởng trực tiếp của Husserl và Bachelard. Từng du
học gần mười năm bên Pháp, là một trong những người sáng lập và có vai trò quan
trọng của Văn khoa Huế. Cùng với Nguyễn Văn Trung, Lê Tuyên là một trong hai
gương mặt gây ảnh hưởng sâu rộng cho sinh viên văn khoa Huế và văn nghệ miền
Nam thời bấy giờ (3). Ông hiện sống tại hải ngoại.
Thời mà Lê Tuyên hoạt động văn nghệ là cái thời sôi nổi, khi mà cả thế giới và
giới trí thức miền Nam thịnh hành dòng triết học chủ đạo hiện tượng luận hiện
sinh. Để hiểu hiện tượng luận hiện sinh, dù là căn bản hay thấu đáo, người ta đều
buộc phải tìm hiểu hiện lượng luận Husserl. Hiện tượng luận Husserl với tư cách là
một phương pháp phân tích đặc thù về sự vật thế giới (hữu thể), nhằm hiểu các bản
chất về thế giới, nay được các nhà hiện tượng luận hiện sinh kế thừa, chuyển vào
phân tích con người (hữu thể hiện sinh), nhằm hiểu đúng các bản chất người.
Những bất đồng giữa Husserl và các học trò ông, hay giữa những người học trò với
nhau có thể rất sâu sắc trong việc truy tìm chân lý thế giới. Nhưng cái phương
pháp hiện tượng luận thì đều được các triết gia kế thừa sử dụng. Việc hướng
phương pháp hiện tượng luận vào các đối tượng khác nhau, kết hợp với nhiều nền
móng tư tưởng đặc thù, phong phú sẽ là tiền đề khai mở ra các trào lưu hiện tượng
luận hiện và hậu hiện đại. Ví dụ như Heidegger, Sartre, Jaspers, Marcel,
M.Ponty… dùng phương pháp hiện tượng học phân tích con người là tiền đề hình
thành hiện tượng luận hiện sinh; Heidegger, Gadamer dùng hiện tượng luận để
phân tích sự hiểu là tiền đề hiện tượng luận thông diễn; với khoa văn học,
H.R.Jauss và trường phái Constance dùng hiện tượng luận phân tích văn bản là cơ
sở mỹ học tiếp nhận… Hiện tượng luận với sự bành trướng khủng khiếp của nó
trong khoa học xã hội đã cho thấy, tư tưởng thế kỷ XX, và kéo dài đến tận ngày
nay, vẫn là những hình thức tư tưởng được nối dài và trương rộng ra từ hiện tượng
luận.
Học thuật khối đô thị miền Nam 1954 – 1975 giữ sự liên lạc mật thiết với thế giới

tư tưởng phương Tây, các trí thức đi du học nhiều ở Pháp, Bỉ, Hoa Kỳ, với nguồn
tư liệu ngoại văn dồi dào, liên tục được cập nhật đưa về nước, đã tiến hành truyền
bá một cách sâu rộng hiện tượng luận và nhất là hiện tượng luận hiện sinh (4). Các
triết gia như Husserl, Heidegger, Sartre, Jaspers, Marcel, M.Ponty, Mounier…
được giới thiệu và chuyển dịch với số lượng lớn. Ở miền Nam, những nhân vật
thời danh đều là môn đệ vừa trực tiếp, vừa qua sách vở của các triết gia hiện tượng
luận, như Lê Tôn Nghiêm là môn đệ Heidegger, Nguyễn Văn Trung là môn đệ
Sartre, Trần Thái Đỉnh từng theo học M.Ponty, Đặng Phùng Quân môn đệ Marcel,
Lê Tuyên theo Husserl và Bachelard…. Do đó, ở đô thị miền Nam, hệ tư tưởng
chủ đạo là hiện tượng luận và hiện tượng luận hiện sinh (5). Một học thuyết khi đã
bắt đầu bám rễ chắc chắn vào trong một xã hội, cụ thể hơn là một cộng đồng trí
thức bao giờ cũng có tham vọng vươn tới sự chuẩn định bằng rất nhiều hình thức,
trong đó có hoạt động chuẩn định dưới hình thức giáo dục học đường với các sách
mang tính giáo trình. Đại học miền Nam 1954 – 1975, bộ môn triết Tây thường
giảng dạy về hiện tượng luận và hiện sinh. Sinh viên miền Nam thời bấy giờ, luôn
có nhiều hơn một sự lựa chọn về các giáo trình hiện tượng luận và hiện tượng luận
hiện sinh (6). Điều này cho thấy, hiện tượng luận đã đóng rễ sâu bền trong căn não
học thuật khối đô thị miền Nam. Nên, không ngạc nhiên, như một chuyển biến nội
tại mang tính biện chứng của tư tưởng, từ rất sớm, phê bình miền Nam đã hình
thành phê bình hiện tượng luận. Không đi sâu vào phân tích lực lượng đông đảo
phê bình theo phương pháp hiện tượng luận và hiện tượng luận hiện sinh (7) ở
miền Nam, chúng tôi chỉ tập trung phân tích phê bình văn học Lê Tuyên, người mà
chúng tôi cho rằng đã có ý thức về phương pháp phê bình hiện tượng luận và phân
tâm học theo Bachelard một cách sâu sắc, có dụng ý, thể hiện bởi sự trung kiên với
phương pháp phê bình, qua chất lượng, số lượng công trình để lại (8).
Lê Tuyên – người học trò xứ Việt đông phương trầm lắng của G.Bachelard, đã
thực sự tìm thấy bản thể phương pháp và bút pháp phê bình của mình trong tư
tưởng thâm trầm và tài hoa của ông thầy người Pháp. Người mộng mơ Bachelard
bằng việc biến cải tư tưởng về ý hướng tính (intentionnalité) trong hiện tượng luận
Husserl, được diễn giải khác đi, lãng mạn hóa qua phạm trù mơ về (rêver à) để

phân tích thế giới và văn bản. Phân tâm học Bachelard được biết đến như hành vi
phân tích các trạng thái tâm lý đặc thù của chủ thể khi hoạt động ý hướng tâm
lý mộng mơ về các chất liệu thế giới (nước, lửa, đất, khí được nói tới rất sớm từ các
triết gia L’école de Milet). Nói gọn lại, theo Bachelard, văn bản văn học là một
hành vi mơ về cụ thể. Phân tích văn bản theo phương pháp Bachelard là phân tích
các ý hướng mơ về được bộc lộ ngay trong cấu trúc nội tại đang bốc tỏa ra từ văn
bản (9).
2. Lê Tuyên là người có ý thức rất rõ về phương pháp phê bình mà mình chọn lựa,
ngay ở những bài viết đầu tiên Lê Tuyên đã nhấn mạnh: “như nhiều lần tôi đã quan
niệm, cái nhìn của chúng ta là một cái nhìn nội giới, và khi ta phóng vào hiện
tượng là chỉ để tìm bản thể của ta” (TTTC, tr.3). Cái nhìn này là cái nhìn hiện
tượng luận, mang đậm chủ quan tính của ý thức phóng chiếu vào vật giới và kiến
tạo nghĩa cho vật giới. Bởi vậy, thế giới thông qua hệ thống vật giới đã được tôi
kiến tạo, cấp cho một quy chế nghĩa là thế giới của tôi và cho tôi, mang dấu ấn
chính tôi, nó thiết thân với tôi; còn cái thế giới tồn tại khách quan kia, luôn có đấy,
nhưng xa lạ với tôi. Cái nhìn hiện tượng học mang dấu ấn tâm lý cá nhân sâu đậm
này, từ đây sẽ được Lê Tuyên vận dụng linh hoạt trong suốt đường dài hoạt động
phê bình văn học của ông. Mọi tín hiệu trong hoạt động diễn giải của Lê Tuyên, do
đấy, đều được phát đi từ trong văn bản, bởi vì với ông, nội giới văn bản là nơi đã
thu giảm trọn vẹn tất cả mọi ý nghĩa bên ngoài rọi phóng vào. Nên, cứ xuất phát từ
văn bản, giảm trừ (reduction – phương pháp hiện tượng học) các lớp nghĩa khác
nhau phủ lên văn bản thì bản chất văn bản sẽ tỏ lộ.
Tìm vào với thế giới ca dao – “một lối hiện tượng luận sơ đẳng” (TTTC, tr. 14) Lê
Tuyên đã có những phát hiện độc đáo. Theo đó thì, ca dao là một hình thức “mơ
về” (thuật ngữ Bachelard) cuộc đời đặc thù của người dân quê: “tôi mơ về vũ trụ,
vậy vũ trụ hiện hữu như tôi mơ về”. Câu nhại Descartes này của Lê Tuyên đã nói
thay vũ trụ quan của người dân quê (TTTC, tr.26). Ca dao – một hình thức “mỹ hóa
cảnh đời” bình thường của người dân quê, cất cánh thi tính trong sinh hoạt tại thế
cuộc đời. Ca dao ra đời trong quá trình tham dự, có mặt, sinh hoạt, lao động của
người dân quê trong thế giới. Ca dao vì thế là thực chất hiện hữu con người dân

quê. Luận điểm này, gợi nhắc đến mệnh đề nổi tiếng của hiện tượng luận hiện sinh:
hiện hữu là hiện hữu trong sinh hoạt tại thế. Cái nhìn rất Tây bằng phương pháp
hiện tượng luận của Lê Tuyên về một thể loại văn học dân gian quê mẹ đã thấy
được cái đẹp ẩn khuất, chìm lặng vào trong những câu hát mộc mạc. Cái nhìn mơ
mộng của người nghệ sỹ ca dao “cho thấy một vũ trụ của tâm hồn qua cuộc đời và
vũ trụ ngoại giới; chứng minh rằng một hình ảnh của ca dao là nhân tố cho một
tâm thức đang khám phá được vũ trụ của mình, vũ trụ mà mình muốn sống, khát
vọng được sống và thực ra cũng xứng đáng được sống với cuộc đời này vì nó
không đòi hỏi gì hơn là chính cuộc đời ấy” (TTTC, tr.17). Qua nghiên cứu của Lê
Tuyên, lời-ca-dao-quê-mẹ đã vỗ đôi-cánh-mỹ-cảm-bình-dân, vút bay trên những
vùng trời mộng tưởng.
Những nghiên cứu về các hướng đối thoại trong Lâm tuyền kỳ ngộ và trong Bích
câu kỳ ngộ, Thời gian hiện sinh trong “Đoạn trường tân thanh” lại tiếp tục cho
thấy sự linh động về phê bình hiện tượng luận của Lê Tuyên. Trong các nghiên cứu
về các hướng đối thoại trong Lâm tuyền kỳ ngộ và trong Bích câu kỳ ngộ, Lê Tuyên
sử dụng thêm hiện tượng luận M.Ponty để nghiên cứu về các tình thế đối thoại độc
đáo, qua đối thoại hay đánh mất đối thoại con người hiện hữu hay trở nên vong
thân. Để cuối cùng, chống lại Sartre trong một quan niệm chật chội về tình yêu
không thể có, bởi với Sartre, cảm thông là không thể vì con người còn mải tranh
chấp thế nhìn ngắm, áp đặt cái nhìn lên tha nhân để bảo toàn hiện sinh. Lê Tuyên
qua phân tích các truyện thơ trên đã chứng minh điều ngược lại với Sartre về mối
cảm thông trong tình yêu là hoàn toàn có thể, thậm chí sự thông giao giữa người
với người là một điều kiện cần để có hiện hữu ở đời. Còn trong nghiên cứu Thời
gian hiện sinh trong “Đoạn trường tân thanh” với việc phát hiện ra một thời gian
hiện sinh của cuộc đời qua con người hiện hữu gồm: 1/thời gian ngoại tại và sự
chuyển vần, 2/thời gian nội tâm và dòng tâm lý, 3/thời gian xã hội và sự phối hợp
giữa người cùng vũ trụ, Lê Tuyên dịch chuyển phê bình hiện tượng luận và phân
tâm học văn bản của mình đứng trên cả chân đế thi pháp học. Những phát hiện của
Lê Tuyên hoàn toàn trừu xuất ra từ các dữ liệu mà văn bản Đoạn trường tân
thanh đưa đến. Những tình thế phê bình ngoài văn bản đã trở nên xa lạ đối với Lê

Tuyên.
Trong khuôn khổ một tiểu luận, chúng tôi không thể làm gì khác mà chỉ có thể
điểm qua các nghiên cứu trên, vốn rất công phu của Lê Tuyên. Nhưng để thấy cho
được tính độc đáo của phương pháp phê bình và tài năng của Lê Tuyên, chúng tôi
xin đi sâu hơn vào phân tích chuyên luận đỉnh cao của phê bình văn học Lê
Tuyên: Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầy. Một phê bình văn
học độc đáo, là sự kết hợp tinh tế của phê bình hiện tượng học và phân tâm học văn
bản. Trong công trình trọng điểm này, mã làm việc của Lê Tuyên được hiểu như
sau: toàn bộ Chinh phụ ngâm là (ý hướng) mơ vềngười chinh phu trong tâm thức
lãng mạn của kẻ lưu đày – người chinh phụ. Như vậy, văn bản Chinh phụ ngâm là
một sự phóng chiếu tâm lý lên bề mặt chữ nghĩa của người chinh phụ. Từ đấy, Lê
Tuyên bám chặt vào tác phẩm mà diễn giải nội dung Chinh phụ ngâm từ/qua các
phạm trù lưu đày, cô đơn, lãng mạn, đau thương, ước vọng, cộng thông… của
người chinh phụ. Chinh phụ ngâm đúng như phát hiện của Lê Tuyên, vắng mặt
tình cảm của người chinh phu, tất cả chỉ là một gói ghém vào trong chữ nghĩa
những nỗi lòng người chinh phụ: “Người chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm không
nói về tình của tha nhân mà chỉ nói về tình của chính mình” (CPN, tr.16). Sự rọi
phóng nội tâm lên bề mặt chữ nghĩa của người chinh phụ làm hiển lộ ra tâm thức
lãng mạn của kẻ lưu đày. Tâm thức lãng mạn luôn là tâm thức mơ mộng hướng về
hạnh phúc lứa đôi, khát khao cộng thông liên kết “như chim liền cánh như cây liền
cành” giờ đây đã vụt mất. Những phũ phàng của cuộc đời thực đã dội ném vào
trong hoàn cảnh “thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây”. Sự chia lìa, cách
trở như vậy tự nó đã nói ra, phô bày hết, réo gọi lên tính bi thiết về cuộc đời.
“Tâm thức lãng mạn vì vậy là tâm thức của kẻ cảm thấy mình bị lưu đày” (CPN,
tr.13). Bởi bị tù hãm trong những không gian chia cách, trong đắng cay của cảnh
đời hạn giới nhưng lại không ngừng mơ về người yêu, khát khao yêu, người chinh
phụ do đó luôn đắm chìm trong tâm thức lãng mạn để có thể bôi xóa không gian,
vùi dập thời gian, làm sao trong một khoảnh khắc mộng tưởng lãng mạn là đã có
thể trở ra biên ải, tìm vào phòng khuê cùng với người tình. Nhưng đời không là
mơ, nên còn đó “sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng”. Nhưng ý nghĩa hiện sinh đích

thực thì không chịu bị kìm hãm mãi trong ngục tù hạn giới của cảnh đời bi đát. Ý
nghĩa làm người, được sống trong tình yêu hạnh phúc vẫn tha thiết khôn nguôi, lại
réo gọi, lại giục giã, lại cháy lên trong lòng người chinh phụ khát khao vượt thoát
ra khỏi thực tại tù túng. Người chinh phụ trong hiện hữu thâm sâu của mình, như
Heidegger nói, xuất-tính-thể qua con đường mộng mơ để vươn tới hiện hữu tròn
đầy. Một hiện hữu có khi táo bạo, cuồng nhiệt trong đê mê “hoa giải nguyệt,
nguyệt in một tấm, / nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông…”. Cái ái ân rồi đây có
khi là cái khổ đau. Tâm thức lưu đày của người chinh phụ vì thế phải luôn luôn xê
dịch giữa thực tại bi ai và mộng mơ hạnh phúc. Những cảm trạng “khách má hồng
nhiều nỗi truân chuyên”, rốt cục tự nó đã bao hàm theo bao nỗi tủi nhục trong kiếp
nhân sinh của người đào liễu. Nên có thể nói: “Toàn bộ tác phẩm Chinh Phụ Ngâm
là tiếng kêu đau thương của con người, như toàn bộ thi phẩm Baudelaire là một
tiếng kêu tội lỗi” (CPN, 87). Lê Tuyên đã viết tiếp những dòng xót xa mà bừng
sáng sau: “Người chinh phụ đã lịm trong đau thương để làm dịu xuống tâm hồn, để
từ đau thương sáng ra quan lộ nhớ thương trong sự thương mình và thương nhớ
người tình muôn thuở: “nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời” (CPN, tr.90)
Trong nỗi đau nhớ thăm thẳm của riêng mình, “ý hướng tự do lãng mạn” của người
chinh phụ mặc sức “mơ về”. Cấu trúc linh hồn “mơ về” giờ đây không còn là
phương tiện mà đã là cứu cánh cho hiện hữu người chinh phụ. “Người đàn bà trong
Chinh Phụ Ngâm là một người đàn bà không ly khai được, mà cũng không biến cải
được. Sở dĩ như thế, chỉ vì nàng đã lựa chọn rồi” (CPN, tr.39). Nàng đã chọn lựa
vĩnh viễn sự mơ về người chinh phu – người tình vĩnh cữu của nàng. Nàng là một
thực thể lãng mạn lưu đày không còn có thể cải biến được nữa. Hiện tượng luận
hiện sinh gọi đấy là thái độ tự quyết (se décider), một thái độ phản tỉnh sâu sắc để
từ đấy chọn lấy, quyết định lấy những khả thể hiện sinh cho đời sống một cách dứt
khoát. Khi xưa, Nietzsche hùng cường đã kêu gọi anh em có dám đốt cháy bùng
lên chí cường lực không, có dám vươn lên làm người siêu nhân không? Sartre nhẹ
nhàng và bi đát hơn, chỉ đòi hỏi anh em có dám “liều” không? Đời sống phải là đời
sống dám liều. Người chinh phụ đã quyết ý, dám vươn lên, dám liều những mộng
mơ lãng mạn để sống với, sống mãi, sống vĩnh viễn bên người tình. Thế nên, chính

tâm thức lãng mạn lưu đầy mới có thể đảm bảo cho nàng “ý hướng tự do lãng
mạn”, bởi tự do trong duy lý hay duy thần là những tự do bị hướng dẫn trước bởi
một mục tiêu cần đạt được, mang tính phổ quát. Trong khi tự do lãng mạn, là một
thứ tự do có ý hướng của riêng mình, không giống ai bởi nó là biến cố cá nhân vì
thế rất linh động. Nó là “không gian như chỉ một thực thể duy nhất đã đem lại cho
ta một lời giải đáp vì đã thay đổi theo Ta chứ không phải thay đổi theo đời, theo
người, theo hiện hữu!” (CPN, tr.97). Do đó, mơ mộng không có nghĩa đánh mất
hiện sinh mà mơ mộng chính là một cách làm phong phú hiện sinh, bù vào hiện
sinh đang trở nên thiếu khuyết vì giam hãm, chia lìa với mạch nguồn hạnh phúc là
người chinh phu. Mơ mộng như hình thức nối dài cuộc đời ngột ngạt tù hẹp, nay
trương rộng ra mọi nẻo, làm đầy thêm các cách thế hiện hữu. Mơ mộng vì thế như
Lê Tuyên viết: “Với quan điểm của hiện tượng luận, chiêm bao là lối tìm về ý
nghĩa của cuộc đời” (CPN, tr.131). Và là một phát hiện của Lê Tuyên, trong
cả Truyện Kiều và Chinh phụ ngâm, không gian mơ mộng bao giờ cũng là không
gian về đêm và đặc biệt là không gian đêm trăng. Lê Tuyên đã khơi đúng cái mạch
nguồn mơ mộng của Việt tính, gắn với đêm, với trăng là nơi để tình yêu, nhớ
nhung muôn đời lên ngôi, dịu dàng sáng những không gian mềm mượt, nuôi
dưỡng, mang theo những yếu tố nữ tính của nền văn minh nông nghiệp Việt Nam.
Phát hiện này của Lê Tuyên làm chúng tôi nhớ đến nghiên cứu về Hát đối của nam
nữ thanh niên Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên. Ông Huyên trong nghiên cứu nổi
tiếng của mình cũng cho thấy môi trường hát đối thường gắn với không gian đêm,
cụ thể những đêm trăng tròn. Cái mối tình hay nói cho đúng hơn, cái ẩn tình của
nam nữ Việt ngàn đời vẫn thường sáng về đêm, để từ đêm, nhờ đêm sẽ thắp lên lời
ca, tiếng hát trong hồn dân tộc. Diễn giải Chinh phụ ngâm kiểu Lê Tuyên đã cho
thấy được giá trị làm người cao quý hiển lộ qua khát vọng sống, khát vọng yêu
mãnh liệt nơi người chinh phụ. Đồng thời, thấy luôn thiên tài của Đặng Trần Côn
và Đoàn Thị Điểm trong việc đã cấu trúc nên một cốt truyện thơ tâm lý tinh tế và
phức tạp, đáng mặt của gia bảo, thứ tinh hoa trong kho tàng văn học Việt.
Đọc phê bình văn học của Lê Tuyên, chúng ta thấy được mộng mơ của ông rất kiên
trinh, không khi nào bay ra ngoài quỹ đạo văn bản. Một cách đọc văn bản đặc thù

theo hiện tượng luận và phân tâm học văn bản Bachelard, vì thế, đã đẩy đưa Lê
Tuyên chạm vào những mảnh lộng lẫy găm nơi bề sâu văn bản. Làm triển nở thêm
mãi những lớp nghĩa bất tận, được phát sinh cũng bất tận từ những tình thế đọc cụ
thể. Kiểu phê bình văn bản hiện đại của Lê Tuyên đã đem đến cho phê bình văn
học nước nhà nhiều hơn một ngọn gió mát. Vì, đây là lần đầu tiên phê bình văn học
Việt Nam đã dịch chuyển vào hệ hình hiện đại lấy văn bản làm trung tâm. Với Lê
Tuyên, cái mốc hiện đại hóa trong phê bình văn học Việt Nam được đẩy lên rất
sớm, chỉ chậm thua hơn 30 năm so với thế giới nếu nhìn từ các nhà Hình thức Nga.
Hơn nữa, đứng giữa ngày hôm nay, khi vừa tròn đúng nửa thế kỷ kể từ những phê
bình đầu tiên của Lê Tuyên hiện hữu, đọc Lê Tuyên trong tình thế hiện thời, phê
bình của ông vẫn mới. Có thể nói không quá lời, những phê bình kiểu Lê Tuyên thì
vẫn xa lạ với phê bình văn học Việt Nam đương đại. Hướng phê bình hiện tượng
luận kiểu Lê Tuyên đã không có truyền nhân. Có một sự đứt gãy nhất định trong
lịch sử phê bình văn học dân tộc, cái hiện thời và cái quá khứ đã có lúc đôi ngả
chia lìa. Thế nên, giới thiệu lại Lê Tuyên, không chỉ là nhìn lại nỗ lực của một cá
nhân viết, hay kéo gần hơn nữa mốc hiện đại hóa, mà hơn thế, giới thiệu lại
một phương pháp phê bình. Một nền phê bình văn học dân tộc nếu thực sự muốn
tiến triển thì phải là một nền phê bình luôn sẵn lòng đối thoại, biết lắng nghe và
không ngừng thâu thái thêm vào trong nó các truyền thống, các phương
pháp khác mình. Phê bình văn học hiện đại khi chấp nhận nguyên lý không bao giờ
tồn tại một phương pháp tối thượng, duy nhất có thể dẫn đưa đến chân lý văn bản,
thì đồng thời, phê bình văn học hiện đại cũng biết chấp nhận luôn sự cộng sinh,
chung vai sát cánh giữa các phương pháp, từ nhiều hướng cùng tác động vào hữu
thể văn bản, khiến văn bản phải hiển lộ những giá trị, rộng mở thêm mãi các chân
trời nghĩa.

Ở Nam Việt 1954 – 1975, Nguyễn Văn Trung luôn ồn ào náo nhiệt. Nguyễn Văn
Trung đã thực hành một quy phạm sống và một quy phạm viết như đúng triết lý
của người thầy mà ông tôn thờ J.P.Sartre: hiện sinh hành động. Lê Tuyên trái lại,
thu mình và kín tiếng. Cuộc đời ông và phê bình của ông mang nhiều sắc màu của

một thi gia, nên kiệm lời và mơ mộng. Nietzsche kỳ vỹ đã từng phán quyết: cô đơn
và kiên trinh là độc đạo của sáng tạo; lời này, nay dành gửi tặng Lê Tuyên.
Số phận phê bình văn học Lê Tuyên vì thế cũng như ngọn lửa nến. Lửa nến nào đã
cháy từ Bachelard? Cháy leo lét, cô đơn, tịch mịch, cháy thẳm thẳm xuyên qua thời
gian. Ngọn lửa có chứa rất nhiều những thơ, như khói xám, như sương mù, dù bị
lãng quên nhưng không ngừng cháy. Một ngày nào, khơi lại những mạch nguồn
phê bình văn học dân tộc, ngọn lửa nơi Lê Tuyên vẫn sáng, sáng hiu hắt, sáng lẻ loi
nhưng sáng đủ để soi tỏ con đường đưa phê bình văn học nhích dần lên phía trước.
Sách Đạo đức kinh có dạy rằng: Cái gì cong thì lại ngay. Cái gì sâu thì lại đầy./.

N.M.T
Chú thích:
(1) Chúng tôi và Đỗ Lai Thúy trong những bài viết gần đây, cùng một quan điểm
xem Lê Tuyên là người có công đầu tiên trong việc dịch chuyển phê bình văn học
Việt Nam vào hệ hình hiện đại lấy văn bản làm trung tâm của hoạt động phê bình.
Những nhận định ngắn gọn trước đây của chúng tôi và Đỗ Lai Thúy là tiền đề mở
ra nghiên cứu này. Xem: Đỗ Lai Thúy, “Phê bình văn học Việt Nam và vấn đề tiếp
nhận lý thuyết văn học nước ngoài”, Viện Khoa học xã hội – Viện văn học – Viện
Harvard-Yenching – Quỹ Japan Foundation, 2011; Văn hóa Nghệ An, số 198/2011.
Nguyễn Mạnh Tiến, “Tính lưỡng thê của phê bình văn học”, Văn hóa Nghệ An, số
193 & 194/2011; Văn hóa nghệ thuật, số 324/2011; và đặc biệt, xem: Trịnh Nữ,
“Phê bình hiện tượng học ở Việt Nam”,Văn nghệ Trẻ, số 52 (790)/2011 & số 1
(791)/2012.
(2) Còn Lê Tuyên với tư cách là một dịch giả các sách phổ biến kiến thức và
nghiên cứu Phật học thì đã được tái bản lại tương đối nhiều trong thời gian vừa
qua. Lê Tuyên theo chúng tôi có thể là một cư sỹ Phật giáo. Tư tưởng Phật giáo đã
xuất hiện rất sớm, và luôn bàng bạc trong các nghiên cứu của Lê Tuyên (nhất là
xem Vân Muội – nghiên cứu lộ dấu vết Hoa Nghiêm Kinh và Duy Thức học; hay
cách mượn cặp phạm trù Thể – Tánh của Đạo Phật trong cách đặt tên Thể tánh của
thi ca là ví dụ). Điều này nếu có thì dễ hiểu. Nhìn từ cái nổi trội, Huế đô, quê

hương Lê Tuyên (ở Vạn Xuân, Kim Long) vốn là mảnh đất rất thịnh của Đạo Phật
bác học (phân biệt với Đạo Phật bị dân gian hóa sâu rộng như ngoài miền Bắc hiện
nay), nên giới trí thức Phật giáo Huế (mở rộng ra là cả miền Nam) thường nhiều về
số lượng và thực có trình độ. Lê Tuyên có thể đã chảy trong nguồn mạch này.
Ngoài ra, Lê Tuyên còn được biết là thành viên sáng lập tờ Lập trườngcùng với
Tôn Thất Hanh, Cao Huy Thuần.
Ngoài ra, cần nói thêm, cả sáng tác và nghiên cứu, phê bình văn học trong giới
Phật học, gồm tu sỹ và cư sỹ, dưới các mái chùa đàng trong là đáng kể. Tuy nhiên,
phần đông vẫn là phê bình theo các phương pháp ngoại quan dựa trên kinh nghiệm
cảm thụ và tư tưởng Phật giáo. Hai tác phẩm văn học được nhà chùa nghiên cứu
nhiều nhất, để lại nhiều chuyên luận có lẽ là Truyện Kiều và Tây Du Ký; tất nhiên,
phải loại trừ ra đây đối tượng ưu tiên số một là văn học Phật giáo.
(3) Dịch giả, nhà nghiên cứu Bửu Ý, một học trò trường miền Nam ngày xưa,
trong tác phẩm Trịnh Công Sơn một nhạc sỹ thiên tài (Trẻ, 2003, tr.19), cho biết,
giới giáo sư đại học thời ấy có Lê Tuyên và Nguyễn Văn Trung đã gây được nhiều
ấn tượng và ảnh hưởng đối với sinh viên .
(4) Điều này có thể dễ dàng nhận thấy khi lục lại các tủ sách gia đình và các kho tư
liệu miền Nam còn sót lại ở Huế, Đà Lạt và Tp Hồ Chí Minh. Không chỉ các học
thuyết hiện đại, các danh tác cổ điển về triết học phương Tây từ khởi thủy cũng
thấy có mặt với số lượng lớn, đa ngữ. Chỉ cần xem lại một tạp chí tiêu biểu thời
bấy giờ là Tư tưởng (Viện đại học Vạn Hạnh), chúng ta có thể nhận ra các học
thuyết như phân tâm học, cấu trúc luận (cơ cấu luận), hiện tượng học, Heidegger,
Nietzsche, văn học so sánh (văn học đối chiếu), xã hội học hiện đại, rải rác một số
các nhà giải cấu và hậu hiện đại như Foucault, Derrida, Lyotart… Lần đầu tiên,
đều đã được phiên dịch, giới thiệu, đề cập đến tại Việt Nam, công phu có mà sơ
lược cũng nhiều.
(5) Giới chính trị cầm quyền ở miền Nam cộng hòa thời bấy giờ đã cố gắng dựng
lên học thuyết duy linh nhân vị, một học thuyết phục vụ chính trị đã bóp méo mó
đi tư tưởng nhân vị tiến bộ của Mounier (Personalism). Học thuyết nhân vị không
có nhiều ảnh hưởng với giới trí thức cấp tiến thời bấy giờ. Chúng ta có thể theo dõi

rất nhiều tạp chí sinh hoạt tư tưởng tiêu biểu thời bấy giờ như Tư tưởng, Đại
học, Bách khoa, Văn,Sáng Tạo… Những tạp chí cho thấy một sự khác biệt, thậm
chí có lúc phản kháng gay gắt với học thuyết nhân vị duy linh phản động của các
nhà cầm quyền miền Nam thời bấy giờ.
(6) Có thể kể ra đây những bộ sách khá thông dụng như Hiện tượng học là
gì? (Trần Thái Đỉnh, Hướng Mới, 1968), Chủ đề hiện tượng học của Husserl (Tư
tưởng, số 1/1969), Triết học hiện sinh (Trần Thái Đỉnh, Thời Mới , 1967; Văn học,
2005), Hiện tượng luận hiện sinh (Lê Thành Trị, BQGGD, 1974), Những chủ đề
triết hiện sinh(Mounier, Nhị Nùng, 1970), Chủ nghĩa hiện sinh (Foulquié, Thế Sự,
1968)… Những công trình này, cho đến nay, vẫn là những tài liệu có uy tín bậc
nhất bằng Việt ngữ về hiện tượng luận và hiện tượng luận hiện sinh. Nên dễ hiểu,
khi ở miền Nam có hàng loạt luận văn chất lượng được tiến hành nghiên cứu về
hiện tượng học [có thể tạm kể ra đây vài dẫn chứng: Mối liên hệ người với người
trong triết học G. Marcel của Nguyễn Văn Phiên; L’existence d’autrui et la fidélié
dans l’oeuvre de G. Marcel của Đặng Phùng Quân; Từ Hiện tượng luận Husserl
đến Hiện tượng luận Heidegger của Trần Công Tiến;Vấn đề thân xác trong triết
học Merleau Ponty của Nguyễn Học Sĩ… (xem thêm xác nhận của Nguyễn Văn
Lục, 20 năm triết lý Tây phương ở miền Nam Việt Nam 1955-1975,
nguồn: )].
(7) Có thể kể ra đây Nguyễn Văn Trung, với nhiều tác phẩm đã phổ biến trở lại
trong giới nghiên cứu Việt Nam hiện nay như Lược Khảo văn học (3 tập, Nam
Sơn, Bộ QGGD, 1963 – 1968), Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Tự do, 1962)…;
Nguyên Sa Trần Bích Lan với Quan điểm văn học và triết học (nhất là hai
mục Nhận định hiện tượng luận về sự sáng tạo I & II) (Nam Sơn, 1960); Huỳnh
Phan Anh với quan niệm tự trị của tác phẩm (Không gian & khoảnh khắc văn
chương, Hội nhà Văn, 1999); Thanh Lãng trong cách phân chia tiểu thuyết theo Ý
hướng (đấu tranh, tình cảm, thi vị, truyền kì, hồi ký, hài biếm, phong tục, tả thực
[Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Quyển hạ), Trình Bầy, 1967]; và bàng bạc chất
hiện tượng luận trong nhiều cây bút gạo cội miền nam như Đỗ Long Vân, Đặng
Tiến, Đàm Quang Thiện, Đặng Phùng Quân… Để thấy rằng hiện tượng luận có

một ảnh hưởng sâu sắc như thế nào, chúng ta cũng nên theo dõi thêm hoạt động
sáng tác của các nhà văn miền Nam, những người có lối viết theo hiện tượng luận.
Nhiều bài viết về chủ đề này đã được đăng tải trên các tạp chí đương thời. Những
nghiên cứu khoa học khách quan và công phu gần đây về hiện tượng luận vẫn rất
lý thú và cần thiết, ví dụ, xem: Huỳnh Như Phương, “Hồi chuông tắt lửa và cái
nhìn hiện tượng luận”,Nghiên cứu Văn học, số 5/2011, Thụy Khuê, Dương Nghiễm
Mậu con người nội soi trong bạo lực chiến tranh và thân phận nhược tiểu,
nguồn: ; và…
(8) Những tác phẩm của Lê Tuyên, do hoàn cảnh lịch sử đã thất tán đi ít nhiều.
Cho đến nay, theo chỗ chúng tôi biết thì vẫn còn có tác phẩm của Lê Tuyên chưa
thể khôi phục lại. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tiếp cận những nghiên cứu
sau đây của Lê Tuyên, phần lớn ra đời vào những thập niên 60, 70 thế kỷ
trước: Triết lý cuộc đời trong ca dao Việt Nam, Bản thể và hiện tượng trong thi ca
Việt Nam, Thời gian hiện sinh trong “Đoạn trường tân thanh” , “Vân Muội”- Một
bài giảng về Vũ Hoàng Chương – Niên khóa 1961-1962 (In lại, Thể tánh của thi
ca, USA, 2000. Trích dẫn lại trong bài, chúng tôi viết tắt: TTTC). Chinh phụ ngâm
và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầy (In lại, USA, 1988. Trích dẫn lại trong bài,
chúng tôi viết tắt: CPN). [Bạn đọc quan tâm có thể xem thêm các bài viết xuất sắc
của Lê Tuyên về Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Nguyễn
Khuyến… có thể tìm thấy ở Tạp chí Đại Học, hoặc in lại trong Tập sanDòng Việt ở
Hoa Kỳ].
(9) G.Bachelard là lý thuyết gia quen thuộc của khối học thuật miền Nam Việt thời
bấy giờ, trong cũng như ngoài nhà trường. Chúng tôi đã từng tiếp cận với luận văn
cao học Triết lý, nghiên cứu khá công phu về Bachelard của Nguyễn Châu do Giáo
sư Nguyễn Văn Trung hướng dẫn có tên: Ảnh tượng trong triết học Gaston
Bachelard (ĐH Văn khoa SG, 1971). Chính ông thầy hướng dẫn Nguyễn Văn
Trung trong công trình quan trọng bậc nhất về lý luận văn học miền Nam 1954 –
1975: Lược khảo văn học đã sớm đề cập đến phê bình văn bản của Sartre (người
kết hợp hiện tượng luận hiện sinh và phân tâm học – phân tâm học hiện sinh) và
Bachelard (người kết hợp hiện tượng luận và phân tâm học phân tích chất liệu thế

giới) (Lược Khảo văn học, Tập 3, sđd). (Trước đó, đã được Nguyễn Văn Trung
đăng tải dưới hình thức tiểu luận “Những quan niệm phê bình mới”, Nghiên cứu
văn học, số 7/1968).

(Nguồn: phebinhvanhoc.com.vn)

×