Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Hoàn thiện các quy định về cách xác định của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.14 KB, 7 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội Bài tập lớn học kì I

LỜI NÓI ĐẦU
Thềm lục địa có một vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế của mỗi
quốc gia ven biển.Nơi đây luôn xảy ra các tranh chấp về chế độ pháp lý của mỗi quốc
gia.Nhằm tránh xảy ra các tranh chấp này và giữ gìn trật tự hòa bình an ninh trên biển mà
luật biển quốc tế phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định
cũng như quy chế pháp lý của thềm lục địa .Tuy nhiên luật biển quốc tế vẫn phải thể hiện rõ
nguyên tắc của mình, đó là nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của mỗi quốc gia.
Trong phạm vi bài tập em xin đưa ra các quy định xuất hiện đầu tiên được nêu trong
Công ước Giơnevo năm 1958 đến những quy định được cho là rõ ràng và công bằng nhất
hiện nay về phương pháp xác định thềm lục địa của quốc gia trong Công ước về biển của
Liên hiệp quốc 1982 để chứng minh rằng : quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về
cách xác định và quy chế pháp lý của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự
bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển.
I.Quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định của
thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các
quốc gia trong khai thác và sử dụng biển.
1.Cách xác định thềm lục địa trong Công ước Giơ-ne-vơ năm 1958.
Thực tiễn khai thác tài nguyên ở đáy biển đã dẫn đến việc hình thành và thừa nhận chế
định thềm trong luật biển quốc tế.Khái niệm về thềm lục địa đầu tiên trong luật pháp quốc
gia và được thừa nhận rộng rãi xuất hiện ở Công ước Giơnevo năm 1958.Công ước đã quy
định thềm lục địa là “ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của phần ngập nước tiếp giáp với
bờ biển, nhưng nằm ở ngoài lãnh hải, đến độ sâu 200 mét hoặc sâu hơn nữa, tới một độ sâu
có thể cho phép khai thác các tài nguyên thiên nhiên ở đó”.Sau khi khái niệm về thềm lục
địa này được ra đời, có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau qua góc nhìn của khái niệm này về
thềm lục địa.Qua đây chúng ta có thể thấy trong khái niệm về thềm lục địa có một số nhược
điểm sau:
Định nghĩa pháp lý về thềm lục địa được quy định trong Công ước 1958 đã lấy những
yếu tố địa lý chứ không lấy những yếu tố địa chất làm cơ sở.Điều này dẫn đến việc trong
định nghĩa không có đủ những tiêu chuẩn làm cơ sở để xác định chế độ của thềm.Trong khái


Môn Luật Thương mại 1
Trường Đại học Luật Hà Nội Bài tập lớn học kì I
niệm không xác định rõ dốc và khối nhô lục địa có thuộc thành phần của thềm lục địa hay
không, thềm lục địa bắt đầu từ đâu và kết thúc ở đâu.Đây là một trong những vấn đề mà
Công ước 1958 chưa điều chỉnh và cũng là một trong số những nhược điểm của khái niệm
này ( dốc và khối nhô lục địa được thể hiện ở hình 1 Phụ lục).
Theo quy định của Công ước thì thềm lục địa là một phần của đáy biển, ranh giới tiếp
giáp với bờ biển nhưng nằm ngoài lãnh hải.Có nghĩa là ranh giới phía trong của thềm lục địa
trùng với ranh giới phía ngoài của lãnh hải và tùy thuộc vào chiều rộng của lãnh hải.Trong
khi Công ước 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp không có những điều khoản quy định chiều
rộng tối đa của lãnh hải, các quốc gia vì vậy cũng quy định rất khác nhau và cũng tùy thuộc
vào lợi ích của quốc gia mình.Do vậy, ranh giới ngoài của thềm lục địa không được xác định
rõ và ranh giới trong của thềm cũng được coi là chưa xác định.
Tiếp theo, Công ước 1958 đưa ra tiêu chuẩn về “độ sâu” 200 mét để xác định chiều
rộng của thềm.Thềm lục địa được cấu thành bởi 3 thành phần : thềm lục địa với độ dốc thoai
thoải 0,07 – 1°, dốc lục địa thay đổi dốc đột ngột trung bình khoảng 4-5° và bờ lục địa quay
lại độ dốc thoải ban đầu khoảng 0,5°.Rõ ràng nhận thấy rằng đối với những quốc gia có
thềm lục địa rộng và nông sẽ có lợi rất nhiều khi áp dụng quy định này, và ngược lại với
những quốc gia có thềm lục địa sâu thì việc áp dụng quy định của Công ước gây thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của các quốc gia ven biển này.Vì vậy, những quy định của Công
ước về “ độ sâu” cũng gây ra sự không công bằng cho các quốc gia ven biển.
Còn về yếu tố “khả năng khai thác” đã thể hiện sự bất hợp lý hơn.Những quốc gia có lợi
thế về kĩ thuật có thể lợi dụng yếu tố này làm thay đổi thềm lục địa của chính quốc gia mình,
hay nói cách khác yếu tố này không được xây dựng trên cơ sở khách quan mà phụ thuộc vào
lợi thế của quốc gia ven biển trong việc khai thác tài nguyên của thềm.Hơn nữa trong cuộc
cách mạng khoa học đang ngày càng đạt được những thành tựu mới thì ranh giới phía ngoài
lục địa sẽ thay đổi hàng ngày theo những thành tựu khoa học- kĩ thuật và chiều rộng của
thềm cũng tăng lên do khả năng kĩ thuật cho phép các quốc gia lấn tới những vùng sâu hơn ở
đại dương.Như vậy không bao lâu nữa toàn bộ đáy biển dưới đại dương sẽ được chia cho
các quốc gia ven biển.Có thể thấy rằng quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các nước

công nghiệp phát triển có khả năng kỹ thuật và tài chính tha hồ khai thác tài nguyên thiên
nhiên.Do vậy tiêu chuẩn này trong quy định của Công ước Giơnevo cho thấy tính không rõ
ràng, không xác định, không chuẩn xác và rất tùy tiện của quy định.
Tất cả những điều nói trên chứng tỏ rằng vấn đề ranh giới, đặc biệt là ranh giới phía
Môn Luật Thương mại 2
Trường Đại học Luật Hà Nội Bài tập lớn học kì I
ngoài thềm lục địa chưa được Công ước Giơnevo năm 1958 điều chỉnh.Tình trạng trên đã
dẫn đến chỗ là ngay sau khi được ký kết, Công ước Giơnevo đã gặp phải sự chỉ trích kịch
liệt và yêu cầu được đặt ra là phải xây dựng một điều chỉnh pháp lý quốc tế đối với vấn đề
xung quanh chế độ pháp lý của thềm lục địa.
2.Ghi nhận của Công ước 1982 về cách xác định thềm lục địa thể hiện sự bình đẳng
giữa các quốc gia.
Về bản chất, thềm lục địa phải được thể hiện rõ cả về phương diện tự nhiên và phương
diện pháp lý. Về tự nhiên, đó là phần lãnh thổ đất liền mở rộng ra hướng biển, tại đó danh
nghĩa chủ quyền tạo cho quốc gia các đặc quyền có tính chất đương nhiên. Về pháp lý, sự
mở rộng lãnh thổ này không có ý nghĩa thiết lập vùng lãnh thổ mới của quốc gia, vì theo
Luật biển quốc tế, biên giới biển của quốc gia được giới hạn bởi đường ranh giới phía ngoài
lãnh hải và đó là sự bắt đầu của thềm lục địa pháp lý có cơ sở từ lãnh thổ đất liền.Công ước
luật biển năm 1982 ra đời đã đưa ra những quy định rõ ràng và công bằng về phương pháp
xác định thềm lục địa của quốc gia.
Căn cứ khoản 1 Điều 76 Công ước luật biển năm 1982: “Thềm lục địa của một quốc gia
ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó,
trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài
của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi
bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn.” .
Công ước 1982 quy định kết hợp hài hòa tiêu hai tiêu chí cơ bản để xác định ranh giới
thềm lục địa pháp lý, đó là tiêu chuẩn địa chất (dựa vào ranh giới ngoài rìa lục địa, vào chân
dốc lục địa và đường đẳng sâu 2500m) và tiêu chuẩn khoảng cách (chủ yếu căn cứ vào
đường cơ sở). Mục đích của việc kết hợp này là để có được kết quả phân định phù hợp giữa
điều kiện tự nhiên của nước ven bờ với sự tồn tại của vùng di sản chung, sao cho không ảnh

hưởng một cách thái quá đến sự hiện hữu của vùng di sản mà vẫn đảm bảo để nước ven biển
có được một vùng thềm lục địa vốn thuộc về nước này. Như vậy, thềm lục địa quốc gia ven
biển theo Điều 76 Công ước 1982 được xác định:
 Trong mọi trường hợp, ranh giới bên trong của thềm lục địa pháp lý chính là biên
giới quốc gia trên biển (bắt đầu từ ranh giới bên ngoài lãnh hải).
 Đối với việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa pháp lý, do điều kiện tự nhiên
của bờ biển và cấu trúc thềm lục địa địa chất của các quốc gia hoặc thậm chí ngay tại từng
Môn Luật Thương mại 3
Trường Đại học Luật Hà Nội Bài tập lớn học kì I
vùng trong một quốc gia có thể không giống nhau nên Công ước 1982 đã đưa ra các cách
xác định trong từng trường hợp.
- Một là đối với các quốc gia ven biển khoảng cách từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải đến bờ ngoài của rìa lục địa nhỏ hơn 200 hải lý thì ranh giới ngoài của thềm
lục địa pháp lý nước này sẽ bằng hoặc mở rộng đến khoảng cách không quá 200 hải lý kể từ
đường cơ sở. Như vậy, Công ước đã mặc định một ranh giới thềm lục địa pháp lí tối thiểu để
đảm bảo cho quốc gia ven biển có được lợi ích công bằng nhất tại những nơi mà thềm lục
địa địa chất được xem là bất lợi (tức là ở nơi mà thềm lục địa hẹp hơn so với khoảng cách
trung bình).
- Hai là khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá
khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở và dao động ở khoảng cách từ ngoài giới hạn
200 hải lý ra đến các khoảng cách 250 hải lý; 300 hải lý; 350 hải lý hoặc rộng hơn thế.Bằng
công thức Gardiner (cách tính được đi kèm Phụ lục) thì trong mọi trường hợp chiều rộng tối
đa của thềm lục địa không được vượt quá 350 hải lý (theo khoản 6 Điều 76).(Hình 2 Phụ lục
).
Mỗi quốc gia ven biển đều có quyền quy định các vùng biển nội thủy, lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây là quyền được hiện bằng hành vi pháp lý đơn
phương của từng quốc gia khi những vùng biển này tồn tại độc lập không chồng lấn với
vùng biển các quốc gia khác. Tuy nhiên, đối với các quốc gia có vùng biển tiếp giáp hoặc
đối diện nhau thì khi các quốc gia này thực hiện yêu sách về các vùng biển danh nghĩa pháp
lý của mình có thể dẫn đến thực tiễn là có sự chồng lần về các vùng này.

Căn cứ theo Điều 83 Công ước luật biển 1982: “Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa
giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường
thỏa thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38 của Quy chế tòa án
quốc tế, để đi tới một giải pháp công bằng…”
Như vậy, nguyên tắc chung thường được viện dẫn trong quá trình phân định biển là
nguyên tắc thỏa thuận, công bằng và tự do lựa chọn các phương pháp phân định như phương
pháp trung tuyến, cách đều, vùng khai thác chung, các dàn xếp tạm thời. Trong phân định
biển, áp dụng nguyên tắc công bằng không có nghĩa là sửa chữa lại tự nhiên mà là đảm bảo
cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng một vùng biển đúng và công bằng, có tính đến hoàn
cảnh hữu quan (Nguyên tắc công bằng trong phân định đã được đề cập trong phán quyết về
thềm lục địa biển Bắc năm 1969 và hàng loạt các phán quyết của các cơ quan tài phán quốc
Môn Luật Thương mại 4
Trường Đại học Luật Hà Nội Bài tập lớn học kì I
tế). Mặc dù, không bắt buộc nhưng thực tiễn và các phán quyết của Tòa án quốc tế khuyến
nghị áp dụng phương pháp đường cách đều (hoặc trung bình) như một đường tạm thời đưa
ra để đàm phán do tính chất đơn giản, thực tiễn, dễ xác định và ngay từ đầu bảo đảm phân
chia đồng đều về diện tích. Đường tạm thời này sẽ được điều chỉnh bởi các hoàn cảnh hữu
quan để đi đến một kết quả công bằng mà hai bên có thể chấp nhận. Kết quả này có thể được
kiểm nghiệm bằng công thức tỉ lệ chiều dài bờ biển phải phù hợp với tỉ lệ diện tích được
hưởng…
II.Quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về quy chế pháp lý
của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các
quốc gia trong khai thác và sử dụng biển.
1.Quy chế pháp lý của thềm lục địa trong Công ước 1958.
Tại khoản 1 Điều 2 của Công ước quy định rằng : “Quốc gia ven biển thực hiện các
quyền chủ quyền của mình đối với thềm lục địa nhằm thăm dò và khai thác tài nguyên thiên
nhiển của vùng này”.Trong đó để các quốc gia ven biển thực hiện quyền chủ quyền của
mình, Công ước Giơvevơ quy đinh một loạt các nguyên tắc và quy phạm tiến bộ đảm bảo
quyền chính đáng của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa của họ.Song bên cạnh những
mặt tích cực Công ước vẫn còn những hạn chế về quyền của quốc gia ven biển đối với thềm

lục địa,dẫn đến sự thiếu công bằng giữa các quốc gia.Đó là:
- Xung quanh vấn đề công trình, thiết bị và vùng an toàn thì Công ước chưa đề cập đến
một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và to lớn là tàu thuyền nước ngoài va đụng vào các
công trình, thiết bị và máy móc được xây dựng ở thềm lục địa.Thực tiễn này sẽ dẫn đến việc
giải quyết những va đụng này một cách thiếu công bằng hay ảnh hưởng tới quyền thực hiện
hoạt động thăm dò, khai thác biển chính đáng của các quốc gia.
- Ngoài ra Công ước còn để ngỏ vấn đề về vùng trời nằm trên vùng an toàn, các thiết bị
và công trình.Các quốc gia ven biển có quyền xây dựng các công trình, thiết bị và vùng an
toàn nhằm mục đích thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên và cũng có quyền đảm bảo an
toàn cho hoạt động của công trình, thiết bị đó.Với quyền năng này thì việc thiết lập một
vùng an toàn trên không cho các công trình, thiết bị là cần thiết để tránh việc các công trình,
thiết bị này bị phá hoại bởi các quốc gia khác, đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia.
2.Quy định về chế độ pháp lý của thềm lục địa trong Công ước 1982 thể hiện rõ sự
Môn Luật Thương mại 5

×