Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN, PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG TIN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THÔNG TIN tại Công ty bánh kẹo Hải Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.41 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
“Ai nắm được thông tin người đó nắm được quyền” . Đây là một trong những đặc tính
của thông tin và nó thể hiện được sự cần thiết của thông tin trong toàn xã hội nói
chung và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường nói riêng. Muốn đứng vững trên thị
trường thì bản thân doanh nghiệp đó phải có thông tin, để từ đó có những quyết định
đúng đắn. Để làm được điều đó đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có thông tin.
Nó có cả những điều kiện thuận lợi và có cả những khó khăn, thách thức diễn ra, bởi
vì thông tin luôn luôn méo nên cần phải phân
tích kỹ, khoa học trước khi đưa ra quyết định.
Quyết định quản trị kinh doanh là hành vi sáng tạo của chủ doanh nghiệp, nhằm đề ra
mục tiêu, chương trình và tính chất hoạt động của doanh nghiệp, để giải quyết một
vấn đề đã chín muồi trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động khách quan của hệ
thống và việc phân tích các thông tin về hiện trạng của hệ thống và môi trường.
Do vậy, để có một quyết định đúng, chính xác yêu cầu chủ doanh nghiệp cần phải có
thông tin và phân tích thông tin. Điều này thể hiện tầm quan trọng của công tác
dự đoán, tiếp nhận thông tin và ra quyết định cho công tác quản lý doanh nghiệp
là cần thiết đối với mỗi doanh nghiêp nói chung và với Công ty bánh kẹo Hải Hà
nói riêng.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN, DỰ ĐOÁN
THÔNG TIN VÀ RA QUYẾT ĐỊNH
I, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO THÔNG TIN
1.1 Thông tin
1.1.1 Khái niệm thông tin
Thông tin thường được hiểu là các tin tức mà con người trao đổi với nhau, hay rộng
hơn thông tin bao gồm cả những tri thức về các đối tượng
Hiểu một cách tổng quát thông tin là kết quả phản ánh các đối tượng trong sự tương
tác và vận động của chúng
1.1.2 Đơn vị đo lường thông tin
Ta sẽ dùng phương pháp xác suất để đo số lượng thông tin mà người nghiên cứu nhận
được từ một thông báo, dữ liệu về đối tượng xét theo một phương diện nghiên
cứu nào đó


- Độ đa dạng và độ bất định – Đơn vị đo:
Độ đa dạng V của một hệ thống phụ thuộc vào số các trạng thái n của nó: V= f(n)
thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Nếu hệ thống X chỉ có một trạng thái duy nhất(n=1) thì độ đa dạng bằng 0: f(n)=0
+ Nếu hệ thống có càn nhiều trạng thái có thể có thì độ đa dạng càng lớn tức là độ đa
dạng tăng theo số các trạng thái :f(n) là hàm tăng hay f’(n)>0.
+ Nếu hai hệ thống X(X
1
, X
2
…Xn) và Y(Y
1
, Y
2
…Yn) độc lập với nhau , nếu kết hợp
2 hệ thống này lại thì độ đa dạng của hệ thống mới bằng độ đa dạng của hai hệ
thống thành phần
- Để đo độ bất định của hệ thống X ta đưa vào khái niệm entrobi
1.1.3 Thông tin trong quản tr kinh doanh
1.1.3.1 Định nghĩa thông tin trong quản trị kinh doanh: Thông tin là những tin tức
mới, được thu nhận, được cảm thụ và dánh giá là có ích cho việc ra quyết định
hoặc giải quyết một nhiệm vụ nào đó trong quản trị kinh doanh.
1.1.3.2 Vai trò của thông tin trong quản tri kinh doanh:
- Thông tin là đối tượng lao động của cán bộ quản trị nói chung và nhà lãnh đạo nói
riêng.
- Thông tin là công cụ của quản trị kinh doanh
- Thông tin là căn cứ để tiến hành xây dựng chiến lược của doanh nghiệp
- Thông tin là cơ sở để thực hiện hạch toán kinh tế
- Thông tin trực tiếp tác động đến các khâu của quá trình quản trị kinh doanh.
1.1.3.3 Phân loại thông tin

• Xét theo mối quan hệ giữa bên trong và bên ngoài doanh nghiệp môi trường
gồm:
- Thông tin bên trong: là những thông tin phát sinh bên trong nội bộ của doanh
nghiệp gồm các số liệu về đội ngũ cán bộ, nhân lực, vốn, tài sản thiết bị, nguyên
nhiên vật liệu…
- Thông tin bên ngoài: gồm các thông tin trên thị trường như giá cả, chất lượng,
chủng loại sản phẩm, sự biến động của tiền tệ, dân cư…
• Xét theo chức năng thông tin gồm:
- Thông tin chỉ đạo:
+ Mang các mệnh lệnh, chỉ thị, chủ trương, nhiệm vụ mục tiêu nền kinh tế đã định
+ Có các tác động quy định đến mọi phương hướng hoạt động của đối tượng quản lý
- Thông tin thực hiện: phản ánh toàn diện kết quả thực hiện mục tiêu của doanh
nghiệp
• Xét theo cách truyền thông tin:
- Thông tin có hệ thống: truyền đi theo nội dung và thủ tục đã định trước theo định kỳ
và trong thời hạn nhất định.
- Thông tin không có hệ thống: là những thông tin được truyền đi khi có sự kiện đột
xuất nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc xảy ra trên thị trường,
mang tính chất ngẫu nhiên, tạm thời
• Theo phương pháp thu nhận và xử lý thông tin:
- Thông tin về khoa học kỹ thuật:
+ Làm cơ sở cho việc chế tạo
+ Do các cơ quan khoa học kỹ thuật thu thập
- Thông tin về tình hình kinh tế như giá cả, doanh thu, lãi suất, cung cầu tiền trên thị
trường
• Xét theo hướng chuyên động của thông tin
- Thông tin theo chiều ngang
- Thông tin theo chiều dọc
• Xét theo số lần gia công:
- Thông tin ban đầu

- Thông tin thứ cấp
1.1.3.4 Yêu cầu đối với thông tin
- Tính chính xác và trung thực
+ Thông tin cần được đo lường chính xác và phải được chi tiết hóa đến mức độ cần
thiết làm căn cứ cho việc đề ra quyết định được đúng đắn mà tiết kiệm được chi phí
+ Thông tin cần phản ánh trung thực tình hình khách quan của đối tượng quản lý và
môi trường xung quanh để có thể trở thành kim chỉ nam tin cậy cho nhà quản trị
- Tính kịp thời và linh hoạt
+ Thời gian là kẻ thù của thông tin, thời gian làm cho thông tin lỗi thời và vô ích
+ Tính kịp thời của thông tin được quyết định bởi những điều kiện cụ thể, bởi độ chín
muồi của vấn đề
+ Thu thập và xử lý thông tin quá sớm sẽ không có mục đích đích vì vấn đề chưa chín
muồi và sự thay đổi của tình hình diễn ra sau đó làm cho thông tin trở nên vô dụng
+ Thu thập và xử lý thông tin quá muộn dẫn đến ra quyết định không kịp thời, làm
cho quyết định trở nên kém hiệu quả
+ Mâu thuẫn giữa tính đầy đủ và tính kịp thời được khắc phục bằng cách hoàn thiện
kỹ thuật và công nghệ xử lý thông tin, nâng cao trình độ chuyên môn cho ngời làm
công tác thông tin.
+ Thông tin cần tiện lợi cho việc sử dụng
- Tính đầy đủ
+ Bảo đảm cung cấp cho chủ thể quản lý những thông tin cần và đủ để ra quyết định
có cơ sở khoa học và tác động có hiệu quả đến đối tượng quản trị
+ Tránh tình trạng thiếu hoặc thừa thông tin
- Tính hệ thống và tổng hợp
+ kết hợp các loại thông tin theo trình tự nghiêm ngặt nhằm khắc phục cho việc quản
lý có hiệu quả
+ Làm cho chủ thể quản lý có thể xem xét đối tượng quản lý với toàn bộ tính phức
tạp, đa dạng của nó, điều chỉnh sự hoạt động của đối tượng quản lý cho phù hợp với
tình huống cụ thể
- Tính cô đọng và logic

Thông tin phải có tính nhất quán , tính có luận cứ, không có chi tiết thừa, tính có
nghĩa của vấn đề, tính rõ ràng của mục tiêu đạt tới nhờ sử dụng thông tin.
1.1.3.5 Bảo đảm thông tin cho các quyết định trong quản trị kinh doanh
• Xác định nhu cầu thông tin trong quản trị kinh doanh
Dịch vụ thông tin phải tổ chức sao cho phù hợp với các cấp quản trị, vì mỗi cấp
quản trị đều có phạm vi hoạt động nhất định và chỉ cần những thông tin có liên
quan đến quyền hạn và trách nhiệm đã quy định
Trong công tác quản trị kinh doanh, người ta chia người lãnh đạo ra làm 3 cấp:
- Người lãnh đạo cấp cao
- Người lãnh đạo cấp trung
- Người lãnh đạo cấp thấp
Dựa vào chức năng, nhiệm vụ của họ để xác định nhu cầu về thông tin cho phù
hợp
• Tổ chức hệ thống thông tin trong kinh doanh
- Sự cần thiết phải tổ chức hệ thống thông tin trong kinh doanh
+ Mở rộng khả năng thu thập thông tin của cơ quan quản trị và người lãnh đạo có
thể nhanh chóng đưa ra được quyết định đúng đắn
+ Bảo đảm cho người quản trị nhanh chóng nắm được thông tin chính xác về tình
hình hoạt động của thị trường và của đối tượng quản trị, để có thể tăng cường tính
linh hoạt trong quản trị sản xuất kinh doanh
+ Tạo điều kiện để thực hiện nguyên tắc hệ thống trong quản trị: tiết kiệm được
thời gian và chi phí về thu thập, xử lý thông tin.
- Chức năng hệ thống thông tin của doanh nghiệp
- Thu thập thông tin
+ Thu thập thông tin thị trường bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp khách
hàng:
→Ưu điểm:
Thu thập thông tin nhanh
Người đi phỏng vấn vẫn nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng một cách cụ
thể

→Nhược điểm:
Không hỏi được nhiều người vì hỏi nhiều sẽ lâu và tốn kém
Rất tùy thuộc vào quan điểm của người đi hỏi
Khó khăn trong công tác tổng hợp vì mỗi nhân viên hỏi một kiểu nên độ đa dạng
khi khách hàng trả lời là rất lớn
+ Thu thập thông tin bằng tị trường bằng phương tiện kỹ thuật như điện thoại, Fax
hoặc qua mạng máy tính
→Ưu điểm:
Thu thập thông tin nhanh
Tu thập được tất cả những thông tin gần, cả những thông tin từ rất xa
→Nhược điểm:
Sẽ tốn kém chi phí
Độ đa dạng của cách trả lời nên khó tổng hợp
+ Thu thập thông tin bằng các phiếu điều tra tức là các vấn đề cần hỏi khách hàng
được thể hiện trên một văn bản và gửi cho khách hàng
→Ưu điểm:
Câu hỏi chuẩn xác
Thuận lợi cho công tác tổng hợp phân tích đánh giá
Có chứng từ lưu trữ sử dụng cho nhiều lần
→Nhược điểm
Tỷ lệ thu hồi ít, theo kinh nghiệm thì cao nhất cũng chỉ đạt 20% số phát ra,, chính
vì vậy để nâng tỷ lệ thu thập ý kiến khách hàng một số hãng dùng phương pháp
khuyến khích có thưởng cho ý kiến của khách hàng gửi về sớm và có chất lượng,
nhờ cách này mà tỷ lệ thu hòi tăng lên rõ rệt
Thời gian tu hồi thông tin chậm, vì vậy người ta hay dùng cho việc đánh giá thông
tin trong việc ra quyết định chiến lược
• Nguyên tắc xây dựng hệ thống thông tin
- Căn cứ vào nhu cầu thông tin của cơ quan quản trị các cấp để xác định cấu
trúc của hệ thống thông tin
- Thuận tiện cho việc sử dụng, hệ thống thông tin cần gọn nhẹ, phù hợp với trình

độ của cán bộ quản trị , dịch vụ thông tin cần được tổ chức cho phù hợp với
quy chế về quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận quản trị với tác phong của
người lãnh đạo
- Đưa tin vào một lần và sử dụng nhiều lần
- Đảm bảo sự trao đổi qua lại giữa các hệ thống
- Mô hình hóa các quá trình thông tin
- Kết hợp xử lý thông tin: làm cho cán bộ quản trị nói chung và người lãnh đạo
nói riêng phải bận tâm về việc xử lý thông tin, dành thời gian tập trung vào các
hoạt động sáng tạo như xây dựng và lựa chọn các phương án quyết định
- Đảm bảo cho sự phát triển liên tục, không ngừng của hệ thống thông tin, phải
từng bước hợp lý hóa hệ thống thông tin để có thể đảm bảo thu thập, xử lý và
cung cấp cho quản lý những thông tin chính xác và kịp thời
- Cán bộ quản trị và người lãnh đạo phải trực tiếp tham gia vào việc thiết kế và
xây dựng hệ thống thông tin
- Bảo đảm tính hiệu quả của hệ thống thông tin
1.2 Dự báo trong quản trị kinh doanh
1.2.1 Khái niệm
Dự báo đã hình thành từ đầu những năm 60 của thế kỉ 20. Khoa học dự báo với
tư cách một ngành khoa học độc lập có hệ thống lí luận, phương pháp luận và phương
pháp hệ riêng nhằm nâng cao tính hiệu quả của dự báo. Người ta thường nhấn mạnh
rằng một phương pháp tiếp cận hiệu quả đối với dự báo là phần quan trọng trong
hoạch định. Khi các nhà quản trị lên kế hoạch, trong hiện tại họ xác định hướng tương
lai cho các hoạt động mà họ sẽ thực hiện. Bước đầu tiên trong hoạch định là dự báo
hay là ước lượng nhu cầu tương lai cho sản phẩm hoặc dịch vụ và các nguồn lực cần
thiết để sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ đó.
Như vậy, dự báo là một khoa học và nghệ thuật tiên đoán những sự việc sẽ xảy
ra trong tương lai, trên cơ sở phân tích khoa học về các dữ liệu đã thu thập được.
Khi tiến hành dự báo ta căn cứ vào việc thu thập xử lý số liệu trong quá khứ và hiện
tại để xác định xu hướng vận động của các hiện tượng trong tương lai nhờ vào một số
mô hình toán học.

Dự báo có thể là một dự đoán chủ quan hoặc trực giác về tương lai. Nhưng để
cho dự báo được chính xác hơn, người ta cố loại trừ những tính chủ quan của người
dự báo.
Ngày nay, dự báo là một nhu cầu không thể thiếu được của mọi hoạt động kinh
tế - xác hội, khoa học - kỹ thuật, được tất cả các ngành khoa học quan tâm nghiên
cứu.
1.2.2 Ý nghĩa và vai trò của phân tích và dự báo trong quá trình ra quyết định kinh
doanh
1.2.2.1 Ý nghĩa
- Dùng để dự báo các mức độ tương lai của hiện tượng, qua đó giúp các nhà
quản trị doanh nghiệp chủ động trong việc đề ra các kế hoạch và các quyết định cần
thiết phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư, quảng bá, quy mô sản xuất,
kênh phân phối sản phẩm, nguồn cung cấp tài chính… và chuẩn bị đầy đủ điều kiện
cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự phát triển trong thời gian tới (kế hoạch cung cấp các
yếu tố đầu vào như: lao động, nguyên vật liệu, tư liệu lao động… cũng như các yếu tố
đầu ra dưới dạng sản phẩm vật chất và dịch vụ).
- Trong các doanh nghiệp nếu công tác dự báo được thực hiện một cách
nghiêm túc còn tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Dự báo chính xác sẽ giảm bớt mức độ rủi ro cho doanh nghiệp nói riêng và
toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Dự báo chính xác là căn cứ để các nhà hoạch định các chính sách phát triển
kinh tế văn hoá xã hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nhờ có dự báo các chính sách kinh tế, các kế hoạch và chương trình phát
triển kinh tế được xây dựng có cơ sở khoa học và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Nhờ có dự báo thường xuyên và kịp thời, các nhà quản trị doanh nghiệp có
khả năng kịp thời đưa ra những biện pháp điều chỉnh các hoạt động kinh tế của đơn vị
mình nhằm thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
1.2.2.2 Vai trò
- Dự báo tạo ra lợi thế cạnh tranh
- Công tác dự báo là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của các

doanh nghiệp, trong từng phòng ban như: phòng Kinh doanh hoặc Marketing, phòng
Sản xuất hoặc phòng Nhân sự, phòng Kế toán – tài chính.
1.2.3 Các loại dự báo
1.2.3.1 Căn cứ vào độ dài thời gian dự báo:
Dự báo có thể phân thành ba loại
- Dự báo dài hạn: Là những dự báo có thời gian dự báo từ 5 năm trở lên. Thường
dùng để dự báo những mục tiêu, chiến lược về kinh tế chính trị, khoa học kỹ thuật
trong thời gian dài ở tầm vĩ mô.
- Dự báo trung hạn: Là những dự báo có thời gian dự báo từ 3 đến 5 năm. Thường
phục vụ cho việc xây dựng những kế hoạch trung hạn về kinh tế văn hoá xã hội… ở
tầm vi mô và vĩ mô.
- Dự báo ngắn hạn: Là những dự báo có thời gian dự báo dưới 3 năm, loại dự báo
này thường dùng để dự báo hoặc lập các kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội chủ yếu ở
tầm vi mô và vĩ mô trong khoảng thời gian ngắn nhằm phục vụ cho công tác chỉ đạo
kịp thời.
Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối tuỳ thuộc vào từng loại hiện tượng để
quy định khoảng cách thời gian cho phù hợp với loại hiện tượng đó: ví dụ trong dự
báo kinh tế, dự báo dài hạn là những dự báo có tầm dự báo trên 5 năm, nhưng trong
dự báo thời tiết, khí tượng học chỉ là một tuần. Thang thời gian đối với dự báo kinh tế
dài hơn nhiều so với thang thời gian dự báo thời tiết. Vì vậy, thang thời gian có thể đo
bằng những đơn vị thích hợp.
( ví dụ: quý, năm đối với dự báo kinh tế và ngày đối với dự báo dự báo thời tiết).
1.2.3.2 Dựa vào các phương pháp dự báo:
Dự báo có thể chia thành 3 nhóm
- Dự báo bằng phương pháp chuyên gia: Loại dự báo này được tiến hành trên cơ
sở tổng hợp, xử lý ý kiến của các chuyên gia thông thạo với hiện tượng được nghiên
cứu, từ đó có phương pháp xử lý thích hợp đề ra các dự đoán, các dự đoán này được
cân nhắc và đánh giá chủ quan từ các chuyên gia. Phương pháp này có ưu thế trong
trường hợp dự đoán những hiện tượng hay quá trình bao quát rộng, phức tạp, chịu sự
chi phối của khoa học - kỹ thuật, sự thay đổi của môi trường, thời tiết, chiến tranh

trong khoảng thời gian dài. Một cải tiến của phương pháp Delphi – là phương pháp dự
báo dựa trên cơ sở sử dụng một tập hợp những đánh giá của một nhóm chuyên gia.
Mỗi chuyên gia được hỏi ý kiến và rồi dự báo của họ được trình bày dưới dạng thống
kê tóm tắt. Việc trình bày những ý kiến này được thực hiện một cách gián tiếp
( không có sự tiếp xúc trực tiếp) để tránh những sự tương tác trong nhóm nhỏ qua đó
tạo nên những sai lệch nhất định trong kết quả dư báo. Sau đó người ta yêu cầu các
chuyên gia duyệt xét lại những dự báo của họ trên xơ sở tóm tắt tất cả các dự báo có
thể có những bổ sung thêm.
- Dự báo theo phương trình hồi quy: Theo phương pháp này, mức độ cần dự báo
phải được xây dựng trên cơ sở xây dựng mô hình hồi quy, mô hình này được xây
dựng phù hợp với đặc điểm và xu thế phát triển của hiện tượng nghiên cứu. Để xây
dựng mô hình hồi quy, đòi hỏi phải có tài liệu về hiện tượng cần dự báo và các hiện
tượng có liên quan. Loại dự báo này thường được sử dụng để dự báo trung hạn và dài
hạn ở tầm vĩ mô.
- Dự báo dựa vào dãy số thời gian: Là dựa trên cơ sở dãy số thời gian phản ánh sự
biến động của hiện tượng ở những thời gian đã qua để xác định mức độ của hiện
tượng trong tương lai.
1.2.3.3 Căn cứ vào nội dung (đối tượng dự báo)
Có thể chia dự báo thành: Dự báo khoa học, dự báo kinh tế, dự báo xã hội, dự
báo tự nhiên, thiên văn học…
- Dự báo khoa học: Là dự kiến, tiên đoán về những sự kiện, hiện tượng, trạng thái
nào đó có thể hay nhất định sẽ xảy ra trong tương lai. Theo nghĩa hẹp hơn, đó là sự
nghiên cứu khoa học về những triển vọng của một hiện tượng nào đó, chủ yếu là
những đánh giá số lượng và chỉ ra khoảng thời gian mà trong đó hiện tượng có thể
diễn ra những biến đổi.
- Dự báo kinh tế: Là khoa học dự báo các hiện tượng kinh tế trong tương lai. Dự
báo kinh tế được coi là giai đoạn trước của công tác xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và dự án kế hoạch dài hạn; không đặt ra những nhiệm vụ cụ thể,
nhưng chứa đựng những nội dung cần thiết làm căn cứ để xây dựng những nhiệm vụ
đó. Dự báo kinh tế bao trùm sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước có tính đến

sự phát triển của tình hình thế giới và các quan hệ quốc tế. Thường được thực hiện
chủ yếu theo những hướng sau: dân số, nguồn lao động, việc sử dụng và tái sản xuất
chúng, năng suất lao động; tái sản xuất xã hội trước hết là vốn sản xuất cố định: sự
phát triển của cách mạng khoa học – kĩ thuật và công nghệ và khả năng ứng dụng vào
kinh tế; mức sống của nhân dân, sự hình thành các nhu cầu phi sản xuất, động thái và
cơ cấu tiêu dung, thu nhập của nhân dân; động thái kinh tế quốc dân và sự chuyển
dịch cơ cấu (nhịp độ, tỉ lệ, hiệu quả); sự phát triển các khu vực và ngành kinh tế (khối
lượng động thái, cơ cấu, trình độ kĩ thuật , bộ máy, các mối liên hệ liên ngành); phân
vùng sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên và phát triển các vùng kinh tế trong
nước, các mối liên hệ liên vùng; dự báo sự phát triển kinh tế của thế giới kinh tế. Các
kết quả dự báo kinh tế cho phép hiểu rõ đặc điểm của các điều kiện kinh tế - xã hội để
đặt chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, xây dựng các chương trình, kế hoạch phát
triển một cách chủ động, đạt hiệu quả cao và vững chắc.
- Dự báo xã hôi: Dự báo xã hội là khoa học nghiên cứu những triển vọng cụ thể
của một hiện tượng, một sự biến đổi, một qúa trình xã hội, để đưa ra dự báo hay dự
đoán về tình hình diễn biến, phát triển của một xã hội.
- Dự báo tự nhiên, thiên văn học, loại dự báo này thường bao gồm:
+ Dự báo thời tiết: Thông báo thời tiết dự kiến trong một thời gian nhất định trên
một vùng nhất định. Trong dự báo thời tiết có dự báo chung, dự báo khu vực, dự báo
địa phương, v.v. Về thời gian, có dự báo thời tiết ngắn (1-3 ngày) và dự báo thời tiết
dài (tới một năm).
+ Dự báo thuỷ văn: Là loại dự báo nhằm tính để xác định trước sự phát triển các
qúa trình, hiện tượng thuỷ văn xảy ra ở các sông hồ, dựa trên các tài liệu liên quan tới
khí tượng thuỷ văn. Dự báo thuỷ văn dựa trên sự hiểu biết những quy luật phát triển
của các quá trình, khí tượng thuỷ văn, dự báo sự xuất hiện của hiện tượng hay yếu tố
cần quan tâm. Căn cứ thời gian dự kiến, dự báo thuỷ văn được chia thành dự báo thuỷ
văn hạn ngắn (thời gian không quá 2 ngày), hạn vừa (từ 2 đến 10 ngày); dự báo thuỷ
văn mùa (thời gian dự báo vài tháng); cấp báo thuỷ văn: thông tin khẩn cấp về hiện
tượng thuỷ văn gây nguy hiểm. Theo mục đích dự báo, có các loại: dự báo thuỷ văn
phục vụ thi công, phục vụ vận tải, phục vụ phát điện,v.v. Theo yếu tố dự báo, có: dự

báo lưu lượng lớn nhất, nhỏ nhất, dự báo lũ, v.v.
+ Dự báo địa lý: Là việc nghiên cứu về hướng phát triển của môi trường địa lí
trong tương lai, nhằm đề ra trên cơ sở khoa học những giải pháp sử dụng hợp lí và bảo vệ
môi trường.
+ Dự báo động đất: Là loại dự báo trước địa điểm và thời gian có khả năng xảy ra
động đất. Động đất không đột nhiên xảy ra mà là một quá trình tích luỹ lâu dài, có thể
hiện ra trước bằng những biến đổi địa chất, những hiện tượng vật lí, những trạng thái sinh
học bất thường ở động vật,v.v. Việc dự báo thực hiện trên cơ sở nghiên cứu bản đồ phân
vùng động đất và những dấu hiệu báo trước. Cho đến nay, chưa thể dự báo chính xác về
thời gian động đất sẽ xảy ra.
1.2.4 Các phương pháp dự báo
1.2.4.1 Phương pháp dự báo định tính
Các phương pháp này dựa trên cơ sở nhận xét của những nhân tố nhân quả, dựa
theo doanh số của từng sản phẩm hay dịch vụ riêng biệt và dựa trên những ý kiến về
các khả năng có liên hệ của những nhân tố nhân quả này trong tương lai. Những
phương pháp này có liên quan đến mức độ phức tạp khác nhau, từ những khảo sát ý
kiến được tiến hành một cách khoa học để nhận biết về các sự kiện tương lai. Dưới đây
là các dự báo định tính thường dùng:
• Lấy ý kiến của ban điều hành
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp. Khi tiến hành dự
báo, họ lấy ý kiến của các nhà quản trị cấp cao, những người phụ trách các công việc,
các bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, và sử dụng các số liệu thống kê về những
chỉ tiêu tổng hợp: doanh số, chi phí, lợi nhuận Ngoài ra cần lấy thêm ý kiến của các
chuyên gia về marketing, tài chính, sản xuất, kỹ thuật.
Nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là có tính chủ quan của các thành
viên và ý kiến của người có chức vụ cao nhất thường chi phối ý kiến của những người
khác.
• Lấy ý kiến của người bán hàng
Những người bán hàng tiếp xúc thường xuyên với khách hàng, do đó họ hiểu
rõ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Họ có thể dự đoán được lượng hàng tiêu thụ

tại khu vực mình phụ trách.
Tập hợp ý kiến của nhiều người bán hàng tại nhiều khu vực khác nhau, ta có
được lượng dự báo tổng hợp về nhu cầu đối với loại sản phẩm đang xét.
Nhược điểm của phương pháp này là phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của
người bán hàng. Một số có khuynh hướng lạc quan đánh giá cao lượng hàng bán ra
của mình. Ngược lại, một số khác lại muốn giảm xuống để dễ đạt định mức.
• Phương pháp chuyên gia (Delphi).
Phương pháp này thu thập ý kiến của các chuyên gia trong hoặc ngoài doanh
nghiệp theo những mẫu câu hỏi được in sẵn và được thực hiện như sau:
- Mỗi chuyên gia được phát một thư yêu cầu trả lời một số câu hỏi phục vụ cho
việc dự báo.
- Nhân viên dự báo tập hợp các câu trả lời, sắp xếp chọn lọc và tóm tắt lại các ý
kiến của các chuyên gia.
- Dựa vào bảng tóm tắt này nhân viên dự báo lại tiếp tục nêu ra các câu hỏi để
các chuyên gia trả lời tiếp.
- Tập hợp các ý kiến mới của các chuyên gia. Nếu chưa thỏa mãn thì tiếp tục
quá trình nêu trên cho đến khi đạt yêu cầu dự báo.
Ưu điểm của phương pháp này là tránh được các liên hệ cá nhân với nhau,
không xảy ra va chạm giữa các chuyên gia và họ không bị ảnh hưởng bởi ý kiến của
một người nào đó có ưu thế trong số người được hỏi ý kiến.
• Phương pháp điều tra người tiêu dùng
Phương pháp này sẽ thu thập nguồn thông tin từ đối tượng người tiêu dùng về
nhu cầu hiện tại cũng như tương lai. Cuộc điều tra nhu cầu được thực hiện bởi những
nhân viên bán hàng hoặc nhân viên nghiên cứu thị trường. Họ thu thập ý kiến khách
hàng thông qua phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp hay điện thoại Cách tiếp cận này
không những giúp cho doanh nghiệp về dự báo nhu cầu mà cả trong việc cải tiến thiết
kế sản phẩm. Phương pháp này mất nhiều thời gian, việc chuẩn bị phức tạp, khó khăn
và tốn kém, có thể không chính xác trong các câu trả lời của người tiêu dùng.
1.2.4.2 Phương pháp dự báo định lượng
Mô hình dự báo định lượng dựa trên số liệu quá khứ, những số liệu này giả sử

có liên quan đến tương lai và có thể tìm thấy được. Tất cả các mô hình dự báo theo
định lượng có thể sử dụng thông qua chuỗi thời gian và các giá trị này được quan sát
đo lường các giai đoạn theo từng chuỗi .
- Tính chính xác của dự báo:
Tính chính xác của dự báo đề cập đến độ chênh lệch của dự báo với số liệu
thực tế. Bởi vì dự báo được hình thành trước khi số liệu thực tế xảy ra, vì vậy tính
chính xác của dự báo chỉ có thể đánh giá sau khi thời gian đã qua đi. Nếu dự báo càng
gần với số liệu thực tế, ta nói dự báo có độ chính xác cao và lỗi trong dự báo càng
thấp.
1.2.5 Quy trình dự báo
Quy trình dự báo được chia thành 9 bước. Các bước này bắt đầu và kết thúc với sự
trao đổi (communication), hợp tác (cooperation) và cộng tác (collaboration) giữa
những người sử dụng và những người làm dự báo
• Bước 1: Xác định mục tiêu
- Các mục tiêu liên quan đến các quyết định cần đến dự báo phải được nói rõ.
Nếu quyết định vẫn không thay đổi bất kể có dự báo hay không thì mọi nỗ lực thực
hiện dự báo cũng vô ích.
- Nếu người sử dụng và người làm dự báo có cơ hội thảo luận các mục tiêu và
kết quả dự báo sẽ được sử dụng như thế nào, thì kết quả dự báo sẽ có ý nghĩa quan
trọng.
• Bước 2: Xác định dự báo cái gì
- Khi các mục tiêu tổng quát đã rõ ta phải xác định chính xác là dự báo cái gì
(cần có sự trao đổi)
+ Ví dụ: Chỉ nói dư báo doanh số không thì chưa đủ, mà cần phải hỏi rõ
hơn là: Dự báo doanh thu bán hàng (sales revenue) hay số đơn vị
doanh số (unit sales). Dự báo theo năm, quý, tháng hay tuần.
+ Nên dự báo theo đơn vị để tránh những thay đổi của giá cả.
• Bước 3: Xác định khía cạnh thời gian
Có 2 loại khía cạnh thời gian cần xem xét:
- Thứ nhất: Độ dài dự báo, cần lưu ý:

+ Đối với dự báo theo năm: từ 1 đến 5 năm
+ Đối với dự báo quý: từ 1 hoặc 2 năm
+ Đối với dự báo tháng: từ 12 đến 18 tháng
- Thứ hai: Người sử dụng và người làm dự báo phải thống nhất tính cấp thiết của
dự báo
• Bước 4: Xem xét dữ liệu
- Dữ liệu cần để dự báo có thể từ 2 nguồn: bên trong và bên ngoài
- Cần phải lưu ý dạng dữ liệu sẵn có ( thời gian, đơn vị tính,…)
- Dữ liệu thường được tổng hợp theo cả biến và thời gian, nhưng tốt nhất là thu
thập dữ liệu chưa được tổng hợp
- Cần trao đổi giữa người sử dụng và người làm dự báo
• Bước 5: Lựa chọn mô hình
- Làm sao để quyết định được phương pháp thích hợp nhất cho một tình huống
nhất định?
+ Loại và lượng dữ liệu sẵn có
+ Mô hình (bản chất) dữ liệu quá khứ
+ Tính cấp thiết của dự báo
+ Độ dài dự báo
+ Kiến thức chuyên môn của người làm dự báo
• Bước 6: Đánh giá mô hình
- Đối với các phương pháp định tính thì bước này ít phù hợp hơn so với
phương pháp định lượng
- Đối với các phương pháp định lượng, cần phải đánh giá mức độ phù hợp của
mô hình (trong phạm vi mẫu dữ liệu)
- Đánh giá mức độ chính xác của dự báo (ngoài phạm vi mẫu dữ liệu)
- Nếu mô hình không phù hợp, quay lại bước 5
• Bước 7: Chuẩn bị dự báo
- Nếu có thể nên sử dụng hơn một phương pháp dự báo, và nên là những loại
phương pháp khác nhau (ví dụ mô hình hồi quy và san mũ Holt, thay vì cả 2 mô hình
hồi quy khác nhau)

- Các phương pháp được chọn nên được sử dụng để chuẩn bị cho một số các
dự báo (ví vụ trường hợp xấu nhất, tốt nhất và có thể nhất)
• Bước 8: Trình bày kết quả dự báo
- Kết quả dự báo phải được trình bày rõ ràng cho ban quản lý sao cho họ hiểu
các con số được tính toán như thế nào và chỉ ra sự tin cậy trong kết quả dự báo
- Người dự báo phải có khả năng trao đổi các kết quả dự báo theo ngôn ngữ mà
các nhà quản lý hiểu được
- Trình bày cả ở dạng viết và dạng nói
- Bảng biểu phải ngắn gọn, rõ ràng
- Chỉ cần trình bày các quan sát và dự báo gần đây thôi
- Chuỗi dữ liệu dài có thể được trình bày dưới dạng đồ thị (cả giá trị thực và dự
báo)
- Trình bày thuyết trình nên theo cùng hình thức và cùng mức độ với phần trình
bày viết
• Bước 9: Theo dõi kết quả dự báo
- Lệch giữa giá trị dự báo và giá trị thực phải được thảo luận một cách tích cực,
khách quan và cởi mở
- Mục tiêu của việc thảo luận là để hiểu tại sao có các sai số, để xác định độ lớn
của sai số
- Trao đổi và hợp tác giữa người sử dụng và người làm dự báo có vai trò rất
quan trọng trong việc xây dựng và duy trì quy trình dự báo thành công.
II, CƠ SỞ LÝ THUYẾT RA QUYẾT ĐỊNH
2.1 Khái niệm
Quyết định quản trị kinh doanh là hành vi sáng tạo của chủ doanh nghiệp (giám
đốc) nhằm đề ra mục tiêu, chương trình và tính chất họat động của doanh nghiệp,
để giải quyết một vấn đề đã chín muồi trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động
khách quan của hệ thống và việc phân tích các thông tin về hiện trạng của hệ
thống và môi trường
2.2 Phân loại quyết định
2.2.1 Theo phản ứng của người ra quyết định

- Các quyết định trực giác là các quyết định xuất phát từ trực giác của con người
- Các quyết định lý giải là các quyết định dựa trên sự nghiên cứu và phân tích có
hệ thống một vấn đề
2.2.2 Theo tính chất của quyết định
- Quyết định về sản phẩm
- Quyết định về giá cả của sản phẩm
-Quyết định về thị trường
2.2.3 Xét theo tầm quan trọng của quyết định
- Quyết định chiến lược ( ví dụ quyết định xây dựng doanh nghiệp mới và quyết
định mua doanh nghiệp khác)
- Quyết định sách lược là để khai thác hết tiềm năng của doanh nghiệp
- Quyết định ác nghiệp là những quyết định dùng để khai thác các quyết định
chiến lược
2.2.4 Xét theo thời gian
-
Quyết định dài hạn thường từ 5 năm trở lên
-
Quyết định trung hạn thường từ 1 đến dưới 5 năm
-
Quyết đinh ngắn hạn là những quyết định thực hiện từ 1 tháng, 1 quý hoặc 1
năm
2.3 Các yêu cầu đối với quyết định trong quản trị kinh doanh
2.3.1 Tính khoa học
Các quyết định là những cơ sở cho việc đảm bảo tính hiện thực và hiệu quả của
việc thực hiện chúng, cho nên các quyết định không được chủ quan tùy tiện, thoát
ly thực tế. Vì quyết định là sản phẩm chủ quan sáng tạo của con người, do đó việc
bảo đảm tính khách quan không đơn giản, nhất là trong những trường hợp việc
thực hiện các quyết định có liên quan đến lợi ích của người ra quyết định
Tính khoa học của các quyết định là sự thể hiện cửa những cơ sở, căn cứ, thông
tin, nhận thức, kinh nghiệm của nhà quản trị trong việc xử lý, giải quyết những

tình huống cụ thể, đòi hỏi có sự can thiệp bằng quyết định của nhà quản trị. Ngoài
ra, các quyết định phải tuân thủ đòi hỏi của các quy luật khách quan
2.3.2 Tính tối ưu
Trước mỗi vấn đề đặt ra cho mỗi doanh nghiệp thường có thể xây dựng được
nhiều phương án khác nhau nhằm đạt tới mục tiêu. Yêu cầu phải đảm bảo tính tối
ưu có nghĩa là phương án quyết định sẽ đưa ra để thực hiện tốt hơn những phương
án quyết định khác và trong trường hợp có thể thì đó phải là phương án quyết định
tốt nhất
2.3.3 Tính cô đọng dễ hiểu
Dù được biểu hiện dưới hình thức nào các quyết định đều phải ngắn gọn, dễ hiểu,
để một mặt tiết kiệm được thông tin tiện lợi cho việc bảo mật và di chuyển, mặt
khác làm cho người thực hiện không thể hiểu sai lệch về mục tiêu, phương tiện và
cách thực hiện
2.3.4 Tính pháp lý
Đòi hỏi các quyết định đưa ra phải hợp pháp và các cấp thực hiện phải thực hiện
nghiêm chỉnh
2.3.5 Tính có độ đa dạng hợp lý
Trong nhiều trường hợp, các quyết định phải được điều chỉnh trong quá trình thực
hiện. Những quyết định quá cứng nhắc sẽ khó thực hiện và hoàn thành để cấp thực
hiện không kéo dài thời gian thực hiện
2.4 Các căn cứ ra quyết định
- Quyết định phải bám sát mục tiêu chung của doanh nghiệp: muốn làm gì thì cái
đích đặt ra hằng năm hoặc nhiều năm của doanh nghiệp cũng phải trở thành hiện
thực
- Quyết định của doanh nghiệp phải tuân thủ theo pháp luật và thông lệ thị
trường: chẳng hạn không được vi phạm pháp luật lao động, không thể chà đạp lên
nhân phẩm con người
- Quyết định phải được đưa ra trên cơ sở phân tích thực trạng và thực lực của
doanh nghiệp: ban quản lý không thể đưa ra quyết định vượt quá mức tiềm năng
của doanh nghiệp ( về sức người, sức của, về cả khả năng công nghệ…)

- Quyết định quản trị kinh doanh khi đưa ra còn phải xuất phát từ thực tế của
cạnh tranh trên thị trường mà doanh nghiệp là một trong những bên tham dự: rõ
ràng doanh nghiệp làm ra những sản phẩm chất lượng thấp , giá thành cao thì khó
có thể tồn tại so với các doanh nghiệp cạnh tranh có chất lượng sản phẩm cao hơn,
giá thành thấp hơn
- Quyết định quản tị kinh doanh còn phải được đưa ra dựa trên yếu tố thời cơ và
thời gian
2.5 Quá trình ra quyết định
Quá trình ra quyết định bao gồm các bước sau:
-
Sơ bộ đề ra nhiệm vụ: Muốn đề ra nhiệm vụ, trước hết cần phải xác định:
Vì sao phải đề ra nhiệm vụ, nhiệm vị đó thuộc loại nào, tính cấp bách của nó, tình
huống trong sản xuất- kinh doanh có liên quan đến nhiệm vụ đề ra, khối lượng
thông tin cần thiết đã có để đề ra nhiệm vụ, cách thu thập những thông tin còn
thiếu
-
Chọn tiêu chuẩn đánh giá các phương án: Thực hiện mục đích đề ra cần phải
có tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả
Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả: sơ lượng và chất lượng, phản ánh đầy đủ kết quả dự
tính sẽ đạt
Chi phí nhỏ nhất, năng suất cao nhất, sử dụng thiết bị nhiều nhất, sử dụng vốn sản
xuất tốt nhất
-
Thu thập thông tin để làm rõ nhiệm vụ đề ra
-
Chính thức đề ra nhiệm vu: Bước này có ý nghĩa rất quan trọng để đề ra quyết
định đúng đắn. Chỉ có thể chính thức đề ra nhiệm vụ sau khi đã xử lý thông tin
thu được do kết quả nghiên cứu
-
Dự kiến các phương án có thể

-
Xây dựng mô hình ra quyết định: Nhờ mô hình và máy tính người ta xác định
hiệu quả các phương án theo tiêu chuẩn đánh giá đã chọn. Trên cơ sở đó, có
thể chọn được phương án quyết định tối ưu
-
Để ra quyết định: Trực tiếp đề ra quyết định và chịu trách nhiệm trực tiếp về
quyết định đó
2.6 Triển khai thực hiện quyết định
2.6.1 Truyền đạt quyết định đến người thi hành và lập kế hoạch tổ chức thực hiện
- Trước hết quyết định cần được nêu thành mệnh lệnh hay chỉ thị để nó có hiệu
lực của một văn bản hành chình
- Tiếp theo là tuyên truyền và giải thích cho những người thực hiện về ý nghĩa
và tầm quan trọng của quyết định đã đề ra. Sau đó vạch ra chương trình thực hiện
quyết định này
- Kế hoạch tổ chức phải xuất phát từ việc quy định rõ giới hạn hiệu lực của
quyết định và phải theo đúng giới hạn đó trong quá trình thực hiện. Việc tổ chức
phải cụ thể, chi tiết nghĩa là thùy theo tính chất và mức độ phức tạp của nhiệm vụ
đã đề ra mà phân định toàn bộ khối lượng công việc theo các đối tượng và khoảng
thời gian. Trong kế hoạch phải nêu rõ: ai làm, bao giờ thì bắt đầu và lúc nào là kết
thúc, thực hiện bằng phương tiện nào.
2.6.2 Kiểm tra việc thực hiện quyết định
Kiểm tra tình hình thực hiện có vai trò quan trọng vì 2 lý do. Thứ nhất, kiểm tra sẽ
có tác động tới hành vi của con người, nâng cao trách nhiệm của họ và động viên
họ thực hiện nhưng hoạt động nằm trong kế hoạch vạch ra. Thứ hai, việc tiến hành
kiểm tra sẽ thúc đẩy sự thực hiện kịp thời và có trình tự các nhiệm vụ đã đặt ra
2.6.3 Điều chỉnh quyết định
Các nguyên nhân dẫn đến điều chỉnh quyết định trong quá trình thực hiện chúng
là:
-
Tổ chức không tốt việc thực hiện quyết định

-
Có những thay đổi đột ngột do nguyên nhân bên ngoài gây ra
-
Có sai lầm nghiêm trọng trong bản thân quyết định và một số nguyên nhân
khác. Không nên do dự trong điều chỉnh quyết định khi một số tình huống đã
hình thành làm cho một quyết định trước đây mất hiệu lực, không còn là một
nhân tố tổ chức mà trái lại trên một chừng mực nào đó đang trở thành một
nhân tố phá hoại
2.6.4 Tổng kết việc thực hiện ra quyết định
Đây là một yếu tố quan trọng trong công tác quản trị doanh nghiệp
Trong mọi trường hợp bất kể cac quyết định có được thực hiện đầy đủ và đúng
hạn hay không đều cần tổng kết các kết quả thực hiện quyết địn. Qua việc tổng kết
các kết quả, các tập thể biết được họ đã làm như thế nào, làm phong phú kho tàng
kinh nghiệm quản lý, kiểm tra hiệu quả của cách đề ra các cách thực hiện quyết
định quản lý. Trogn quá trình tổng kết các kết quả, cần xem xét chu đáo tất cả các
giai đoạn công tác, phân tích rõ tất cả những thành công cũng như những sai lầm
thiết sót, phát hiện các tiềm năng chưa được sử dụng: hệ thống các chỉ tiêu và
nhân tố của hoạt đọng kinh tế, mối liên hệ qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
chúng. Khi tổng kết cần xây dựng kế hoạch tổng hợp, lựa chọn và tra những
thông tin cần thiết, phân tích và so sánh các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật, tìm ra
nguuyeen nhân thành công hay thất bại và đánh giá tổng hợp
2.7 Các trở ngại khi ra quyết định
Các trở ngại thường xảy ra là sự thiếu chuẩn xác, thiếu đồng bộ hay bất hợp lý của
hệ thống luật pháp nhà nước, mâu thuẫn giữa tham vọng và khả năng có hạn, sự
biến động hàng ngày của thị trường
2.8 Các phương pháp ra quyết định
2.8.1 Trường hợp có đủ thông tin
Việc ra quyết định sử dụng các công cụ của toán kinh tế
2.8.1.1 Các mô hình thống kê
Bao gồm các mô hình toán xử lý các bài toán quản trị kinh doanh mà các thông tin

thu lượm được mang tính chất tản mạn, ngẫu nhiên được thống kê theo những quy
luật ngẫu nhiên
2.8.1.2 Các mô hình tối ưu
Đây là mảng công cụ về hạch toán, lý thuyết đồ thị,sơ đồ mạng, lý thuyết trò
chơi…
a) Trường hợp có ít thông tin
Trường hợp này phải sử dụng kết hợp hai phương pháp: chuyen gia và so sánh
hiệu quả
Các phương pháp trên dựa vào việc rút tỉa kinh nghiệm của các chuyên gia rồi loại
bỏ phần sai sót chủ quan của hộ để tìm ra tiếng nói chung của nhiều chuyên gia
làm quyết định phải lựa chọn.
-
Bước 1: Sau vài ba ngày các chuyên gia thảo luận đưa ra 8 sản phẩm từ P1- P8
-
Bước 2: Tổ chức các chuyên gia phân loại tầm quan trọng và tính khả thi thực
hiện của các phương án sản phẩm
Các mô hình
thống kê
Các mô hình tối
ưu
Tin học và máy
tính điện tử
Các phương pháp toán
kinh tế
-
Bước 3: Cho điểm theo cả nhóm. Nhóm 1 được 2
3
= 8 điểm, nhóm 2 được 2
2
=

4 điểm, nhóm 3 được 2
1
=2 điểm, nhóm 4 được 2
0
=1 điểm
-
Bước 4: Cộng ma trận so sánh hệ số quan trọng, hiệu quả và hiện thực giữa các
sản phẩm với nhau. P1 với P3 sẽ được hệ số quan trọng so sánh là r
13
-
Bước 5: Nhân hệ số r
ij
tương ứng với các điểm số của từng sản phẩm đã tính ở
trên rồi cộng cột ta sẽ tu được một chuỗi 8 số liệu cho tương ứng với tầm quan
trọng tổng thể cua r8 sản phẩm
b) Trường hợp có rất ít thông tin hoặc không có thông tin
Người lãnh đạo phải sử dụng kết hợp 2 phương pháp: cây đồ thị hoặc cây mục tiêu
và các phương pháp ngoại cảm để xử lý
-
Phương pháp cây đồ tâm lý
Đó là sử dụng những thông tin về tâ lý cá nhân, về đặc điểm nhân cách, tác phong
làm việc mà thủ lĩnh hoặc các nhà lãnh đạo có thể lực của các tổ chức ( mà các tổ
chức đang nghiên cứu quan tâm) để tiên liệu các khả năng hoạt động của các tổ
chức
-
Phương pháp ngoại cảm cua con người
Đó là khả năng tự cân nhắc, tự chịu trách nhiệm của người lãnh đạo khi phải ra
các quyết định có tính thời điểm mà thông tin có quá ít, hoặc quá nhiều hoặc quá
phân vân.
-

Phương pháp dự đoán dịch học
+ Bước 1: Đổi ngày, tháng, năm dương lịch sang hệ âm lịch
+ Bước 2: Tìm “thượng quái” bằng cách cộng ngày,tháng, năm rồi chia cho
moodun 8
+ Bước 3: Tìm “hạ quái” bằng cách công ngày, tháng, năm giờ âm lịch chia cho
moodun 8, số dư lẻ được tra bảng có sẵn để tìm hạ quái
+ Bước 4: Tìm “chánh quái” bằng cách đặt thượng quái lên hạ quái
+ Bước 5: Tìm “hỗ quái” bằng cách tạo từ các hào cho trước của chánh quái. Lấy
hào 1,2,3,4,5,6 của hỗ quái là các hào 2,3,4,3,4,5 của hỗ quái
+ Bước 6: Tìm hào động: cộng giờ, ngày, tháng, năm rồi chia cho modun 6 lấy số

B
M N P
M
1
N
1
M
2
N
2
PN
3
a
1
% a
3
%
a
2

%
+ Bước 7: Tìm “biến quái” lẻ ở hào động nào thì chuyển từ âm sang dương, từ
dương sang âm
+ Bước 8: Tìm “thể” và “dụng” của chánh quái. Quẻ đơn ở nửa chứa hào động
được gọi là “dụng” ( biểu thị chủ thể mối quan hệ, chỉ bản thân người đang lựa
chọn việc ra quyết định quản trị), quẻ đơn ứng với nửa còn lại gọi là “ thể” ( chỉ
khách thể của mối quan hệ)
+ Bước 9: Suy đoán để đưa ra quyết định
Toàn bộ quá trình xử lý có thể được lập trình trên máy vi tính giúp cho việc ra
quyết đinh nhanh gọn, chính xác, bảo mật và văn minh
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN,
PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG TIN
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THÔNG TIN
2.1 Giới thiệu quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Công
nghiệp, chuyên sản xuất kinh doanh bánh kẹo, chế biến thức phẩm do
Nhà nước đầu tư và quản lý chủ sở hữu. Công ty là đơn vị chuyên ngành
có quy mô lớn nhất nước ta hiện nay. Được thành lập năm 1960 đên nay
bước sang tuổi 44.
Trụ sở Công ty đặt tại: số 25 Trương Định – quận Hai Bà Trưng – Hà Nội
Tên giao dịch: HAIHA COFETIONERY COMPANY
Viết tắt: HAIHACO
Sau một chặng đường rất khó khăn, đến nay Hải Hà đã và đang có một
chỗ đứng khá vững trong tâm lý người tiêu dùng sản phẩm của Công ty
đang rất được ưa chuộng và đã được tiêu thụ cả ở trong nước cũng như
nước ngoài . Để đạt được kết quả như ngày hôm nay, công ty phải trải qua
nhiều khó khăn . Công ty đã trải qua các giai đoạn sau:
• Giai đoạn 1959 – 1961:
Tháng 11/1959 Tổng công ty nông thổ sản Miền Bắc đã xây dựng một
cơ sở thực nghiệm hạt trân châu với 9 cán bộ công nhân viên của Tổng

công ty gửi sang . Đến năm 1960 thực hiện chủ trương của Công ty,
cơ sở đã đi sâu nghiên cứu và sản xuất các mặt hàng miến từ đậu xanh
. Trên cơ sở đó, ngày 25/12/1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời –
bước khởi nghiệp đầu tiên .
• Giai đoạn 1962 – 1967:
Thời kỳ này xưởng miến Hoàng Mai đã thử nghiệm thành công và đưa
vào sản xuất một số mặt hàng như: dầu đậu tương và tinh bột ngô
cung cấp cho nhà máy pin Văn Điển.
Năm 1966, viện thực vật đã lấy nơi đây làm cơ sở sản xuất thử nghiệm
các đề tài thực phẩm để từ đó phổ biến cho các địa phương sản xuất,
để giải quyết hậu cần tại chỗ, phù hợp với tình hình chiến tranh . Và
từ đó xưởng miến Hoàng Mai đã đổi tên thành nhà máy thực nghiệm
Hải Hà. Ngoài sản xuất hai mặt hàng trên, nhà máy còn sản xuất một
số mặt hàng khác như: viên đạn, nước chấm lên men, nước chấm hoa
quả, dầu đạm, bánh mì, bột dinh dưỡng trẻ em. Và điều quan trọng là
nhà máy đã bước đầu nghiên cứu mạch nha- cơ sở của bước tiến trở
thành công ty bánh kẹo .
• Giai đoạn 1968 – 1991:
Năm 1968, nhà máy thuộc bộ lương thực thực phẩm quản lý . Đến
tháng 6/1970, thực hiện chỉ thị của Bộ Lương thực thực phẩm, nhà
máy đã tiếp nhận phân xưởng của Hải Châu bàn giao sang với công
suất 900 tấn/ năm với nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo nhai, giấy tinh
bột. Năm 1970 đổi tên thành nhà máy thực phẩm Hải Hà, số cán bộ
công nhân viên lúc này là 555 người.
Tháng 12/1976 nhà máy được Chính phủ phê duyệt cho phép mở rộng
nhà máy nâng mức công suất từ 900 tấn/ năm lên 6000 tấn/năm .Nhà
máy từng bước mở rộng quy mô sản xuất, trang bị thêm nhiều dây
truyền sản xuất mới, đổi mới kỹ thuật, nâng cao công nghệ, từng bước
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Từ 1987 nhà máy một lần nữa được đôit tên thành nhà máy bánh kẹo

xuất khẩu Hải Hà thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm
quản lý . Sản phẩm của công ty không những được tiêu dùng trong
nước mà con được tiêu thụ ở cả nước ngoài. Tốc độ tang sản lượng
hàng năm của công ty đạt từ 1% - 15%, sản xuất từ chỗ thủ công đã
dần được cơ giới 70% - 80% với số vốn nhà nước giao từ ngày
1/1/1991 là 5 454 000 000 đồng
• Giai đoạn 1992 – nay:
Tháng 1/ 1992 nhà máy do Bộ công nghệ quản lý
Tháng 7/ 1992 nhà máy được quyết định đổi tên thành Công ty bánh
kẹo Hải Hà .
Trong tình hình có sự biến động lớn của thị trường, việc chuyển đổi
sang cơ chế mới có rất nhiều khó khăn, không ít các doanh nghiệp đã
không đứng vững nhưng Hải Hà vẫn tồn tại và ngày càng phát triển .
Điều đó phần nào thể hiện sự đúng đắn về mọi mặt của công ty bánh
kẹo Hải Hà . Đó chính là sự phù hợp sản phẩm của công ty đối với thị
hiếu người tiêu dùng .
Năm 1993, công ty thành lập liên doanh Hải Hà – Kotobuki . Sản
phẩm chủ yếu là kẹo cứng, snack, cookies, kẹo cao su . Đến nay liên
hoạt hoạt động rất hiệu quả .
Năm 1995, thành lập công ty liên doanh mỳ chính Miwon Việt Trì .
Năm 1996, thành lập liên doanh thứ ba là Hải Hà – Kamedanhng rất
tiếc công ty liên doanh này đã hoạt động kém hiệu quả, giải thể vào
tháng 11/1998 .
Uy tín của công ty theo thời gian tăng lên, cho tới nay công ty đã có 5
xí nghiệp thành viên, 2 công ty liên doanh với tổng số cán bộ từ chỗ
chỉ có 9 người đã lên tới 2000 người, có quy mô trang thiết bị tương
đối hiện đại. Công ty là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân,
hạch toán kinh tế độc lập, được mở tài khoản ở ngân hàng và sử dụng
con dấu riêng theo quy định của nhà nước. Hải Hà đã, đang và sẽ có
một ví thế cao trên thương trường .

2.2 Mô tả cơ cấu tổ chức của công ty
2.2.1 Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của công ty
- Đại hội đồng cổ đông:
Là cơ quan thẩm quyền cao nhất quyết định mọi vấn về quan
trọng của công ty theo Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty.
ĐHĐCĐ là cơ quan thông qua chủ trương chính sách đầu tư dài
hạn trong phát triển công ty, quyết định cơ cấu vốn, bầu ra cơ
quan quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của công ty
- Hội đồng quản trị:
Là cơ quan quản lý công ty có toàn quyền nhân danh công ty để
quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích quyền lợi của
công ty, trừ những vấn đề thuộc ĐHĐCĐ quyết định .
Định hướng các chính sách tồn tại và phát triển để thực hiện
các quyết định của ĐHĐCĐ thông qua việc hoạch định chính
sách, ra nghị quyết hành động cho từng thời điểm phù hợp với
tình hình sản xuất kinh doanh của công ty .
- Ban kiểm soát:
Do ĐHĐCĐ bầu, thay mặt cổ đông kiểm soát mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh, quản trị và điều hành công ty.
- Ban điều hành:
Do HĐQT bổ nhiệm gồm có một Tổng giám đốc, hai Phó Tổng
giám đốc, một Kế toán trưởng. Tổng do HĐQT bổ nhiệm là
người đại diện theo pháp luật của công ty, chịu trách nhiệm
trước HĐQT, quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt
động hàng ngày của công ty. Phó Tổng giám đốc và Kế toán
trưởng do HĐQT bổ nhiệm theo đề xuất của Tổng Giám đốc.
→ NHẬN XÉT: cơ cấu bộ máy của công ty tuy còn cồng kềnh
nhưng vẫn là bộ máy của một công ty lớn mạnh lên trông thấy
trong nhiều năm qua. Bộ máy này vẫn hoạt động, thực hiện

những quyết định của nhà quản trị một cách nhanh và hiệu quả
nhất. Bằng chứng là công ty được lọt vào Topten “ Hàng Việt
Nam chất lượng cao” do người tiêu dùng Việt Nam bình chọn
2.2.2 Cơ cấu sản xuất
Cơ cấu sản xuất của công ty được chuyên môn hóa tới từng xí nghiệp,
mỗi xí nghiệp được phân công chế biến những sản phẩm nhất định và
tổ chức sản xuất theo phương pháp dây chuyền liên tục. Sự mạnh dạn
đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức sản xuất được công ty thực hiện năm
1995:
- Tập trung 3 phân xưởng sản xuất kẹo thành xí nghiệp kẹo
- Tập trung 2 phân xưởng sản xuất bánh thành xí nghiệp bánh
- Tập trung các bộ phận in hộp, cắt giấy, nề mộc, cơ điện… thành xí
nghiệp phụ trợ
- Sát nhập Nhà máy thực phẩm Việt Trì vào công ty
- Sát nhập Nhà máy bột dinh dưỡng vào công ty
2.3 Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của công ty
2.3.1 Tình hình lao động của công ty
Đặc điểm sản xuất của công ty là lao động nhẹ nhàng, đòi hỏi sự khéo léo
của người lao động nên lao động nữ chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%.
Trong những năm qua lực lượng lao động của công ty không ngừng lớn
mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ một doanh nghiệp nhỏ có số lao
động ít ỏi thì đến nay con số này lên tới gần 2000 lao động . Điều này cho
thấy trong những năm qua công ty hoạt động rất có hiệu quả, từ đó dẫn tới
mở rộng hoạt động sản xuất . Số lượng cán bộ công nhân viên được bố trí
như sau:
Bảng 1: Số lượng và cơ cấu lao động của công ty
STT Nội dung
Tổng
số
Hành

chính
XN
kẹo
XN
bánh
XN
phụ
trợ
XN
Việt
Trì
XN
Nam
Định
1 LĐ dài hạn 1048 109 365 90 41 387 56
2 LĐ 1-3 năm 608 43 170 172 5 203 15
3 LĐ thời vụ 314 5 47 51 0 211 0
4 Tổng số 1970 157 582 313 46 801 71
5 LĐ gián tiếp 259 157 14 13 7 40 28
6 LĐ trực tiếp 1711 0 568 300 39 761 43
(Nguồn: Phòng tổ chức)
Với tổng số công nhân viên là 1970 (năm 2000) trong (ví dụ vào những dịp lễ
tết…) đã tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của công ty

×