Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

trọng tài thương mại quốc tế những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.52 KB, 36 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI.................................4
1.1 Khái quát chung về Trọng tài........................................................................................................ 4
1.1.1 Khái niệm Trọng tài

4

1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài

5

1.1.3 Vai trò của Trọng tài

6

1.2 Ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.................................................................7
1.3 Vấn đề giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện hành.......8
1.3.1 Thẩm quyền của Trọng tài

8

1.3.2 Điều kiện để vụ tranh chấp được giải quyết theo tố tụng Trọng tài

8

CHƯƠNG 2 VẤN ĐỀ CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................................10
2.1 Khái niệm về việc quyết định của Trọng tài.................................................................................10
2.2 Khái niệm và bản chất của việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài tại Việt Nam.....11


2.3 Sự cần thiết của việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam......12
2.4 Thủ tục thi hành phán quyết của Trọng tài theo pháp luật Việt Nam hiện hành...........................13
2.4.1 Điều kiện để thi hành phán quyết của Trọng tài

1

13


2.4.2 Thủ tục thi hành phán quyết của Trọng tài tại Cơ quan thi hành án dân sự

14

2.5 Trình tự, thủ tục yêu cầu Tòa hủy quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam..................16
2.5.1 Căn cứ hủy quyết định của Trọng tài

16

2.5.2 Thủ tục yêu cầu Tòa hủy quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam

18

2.6 Trình tự, thủ tục về việc cơng nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
..................................................................................................................................................................... 19
2.6.1 Trình tự, thủ tục xét đơn cơng nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam

19
2.6.2 Các điều kiện không công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài theo Bộ luật dân sự năm


2004

23

CHƯƠNG 3 NHỮNG KHÓ KHĂN, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP CỦA THỰC
TIỄN CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI
VIỆT NAM.......................................................................................................................................... 27
KẾT LUẬN............................................................................................................................ 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 34

LỜI NÓI ĐẦU

2


Nền kinh tế thị trường ở nước ta hình thành đã lâu, cùng với đó là sự hội nhập
khơng ngừng để theo kịp thế giới. Với xu hướng phát triển theo chiều rộng và chiều
sâu của các quan hệ kinh tế với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước
khẳng định nền kinh tế Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu của thị trường thế
giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung trong kinh doanh nói riêng là hệ quả tất yếu
khơng thể tránh khỏi của q trình phát triển kinh tế đó, nó gay gắt, phức tạp hơn về
tính chất và quy mơ, đa dạng hơn về chủng loại. Từ đó, yêu cầu phải áp dụng các hình
thức và phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả để bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, thơng qua đó góp phần tạo lập mơi trường
pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, phần lớn các tranh chấp thương mại, đầu tư trên
thế giới được giải quyết theo con đường Trọng tài nếu các bên thương lượng hay hịa
giải khơng thành. Điều này xuất phát từ những ưu việt của Trọng tài so với Tịa án:
nhanh chóng, mềm dẻo, ít tốn kém, bảo đảm uy tín và bảo đảm bí mật trong kinh
doanh.

Tuy nhiên, để Trọng tài phát huy các mặt lợi đó, vừa bảo đảm cho các quyết
định mà Trọng tài đưa ra đáp ứng các yêu cầu của pháp luật và được cơng nhận và cho
thi hành thì việc hồn thiện hệ thống pháp luật về Trọng tài trong nhu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế là một vấn đề cần thiết và cấp bách.
Từ những lý do trên và thấy được việc cần phải hồn thiện pháp luật cơng nhận
và thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại tại Việt Nam hiện nay mà người viết
chọn đề tài “Công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài thương mại tại Việt
Nam: Những vấn đề trong thực tiễn và pháp lý” để làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp cử
nhân luật của mình.
Mục đích của đề tài nhằm đánh giá đúng thực trạng của vấn đề công nhận và thi
hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam, làm rõ những hạn chế, bất cập
3


trọng việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài tại Việt Nam. Từ đó tìm ra
những hướng khắc phục, để quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam ngày
càng được áp dụng nhiều hơn. Đề tài được nghiên cứu một cách sâu rộng về vấn đề
công nhận cũng như thi hành quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam.
Do thời gian có hạn cũng như những hạn chế về việc thu thập tài liệu và khả
năng có hạn của người viết nên đề tài chủ yếu nghiên cứu các vấn đề: Lý luận về vấn
đề công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài; các quy định của pháp luật về công
nhận cũng như thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại tại Việt Nam; thực tiễn
của việc thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam và thực tiễn của việc
công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại nước ngoài tại Việt Nam.

CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI

1.1 Khái quát chung về Trọng tài
1.1.1 Khái niệm Trọng tài
Khi có tranh chấp xảy ra, áp dụng Trọng tài là một phương pháp được các bên

ưu tiên lựa chọn. Tự do kinh doanh, tự do kí kết hợp đồng trong khn khổ pháp luật
đương nhiên bao gồm cả tự do thỏa thuận lựa chọn các biện pháp giải quyết tranh chấp
kinh doanh.
Vậy Trọng tài là gì? Theo từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản văn hóa thơng tin
Hà Nội năm 1999 Trọng tài được coi là: Người được các bên đối lâp, tư nhân, thương
gia…, cơng nhận là có thẩm quyền xử một vụ tranh chấp; là người được cử ra để điều
khiển thể thao trong khuôn kinh tế thị trường thì Trọng tài được định nghĩa. Là cơ quan
xét xử do các bên thiết lập ra trên cơ sở thỏa thuận và trong lĩnh vực mà pháp luật quy

4


định để giải quyết các tranh chấp giữa khổ điều lệ của bộ môn và công nhận các kết
quả cuối cùng.
Như vậy, Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, dựa trên sự thỏa thuận
giữa các bên đối lập, ủy thác cho một hay một số người làm trung gian giải quyết sự
xung đột trên cơ sở công bằng và khách quan.

1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài
Ở những nước khác nhau có những đặc điểm kinh tế xã hội và tập quán pháp
luật khác nhau, do đó việc tổ chức Trọng tài cũng khác nhau. Tuy nhiên, dù được tổ
chức với nhiều hình thức, tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung Trọng tài có những
điểm chung sau đây:
-

Thứ nhất, Trọng tài là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động mang tính nghề
nghiệp. Nó khơng nằm trong bộ máy nhà nước chính vì thế Trọng tài khơng
mang tính quyền lực Nhà nước.

-


Thứ hai, các tổ chức Trọng tài thường được lập trên sự sáng kiến và sự tự
nguyện của Trọng tài viên. Các Trọng tài viên khi có đầy đủ các tiêu chuẩn theo
quy định của pháp luật, trên cơ sở tự nguyện họ tham gia thành lập một tổ chức
Trọng tài.
Hoạt động của tổ chức Trọng tài dựa trên cơ sở sự cân đối thu chi, áp
dụng nguyên tắc tự do hoạch tốn, dựa trên uy tín là chủ yếu.

-

Thứ ba, tuy là một tổ chức phi Chính phủ nhưng hoạt động của Trọng tài đều có
sự quản lý của Nhà nước. Có nghĩa là, Trong q trình giải quyết tranh chấp của
mình Trọng tài cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước mà cụ thể là sự hỗ trợ
từ phía Tịa án để Trọng tài có thể thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp của
mình một cách tốt nhất. Ngồi ra, một trong những nội dung quan trọng trong
việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của Trọng tài là việc phê chuẩn

5


điều lệ tổ chức hoạt động của Trọng tài cũng như quy định về tiêu chuẩn của
Trọng tài viên.

1.1.3 Vai trò của Trọng tài
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp trong sản xuất kinh doanh cho thấy các
nhà sản xuất kinh doanh dù hoạt động trong phạm vi quốc gia hay trên phạm vi quốc tế
đều mong muốn ngăn chặn phát sinh các tranh chấp; nếu tranh chấp xảy ra thì mong
muốn hịa giải với nhau, nếu khơng hịa giải được với nhau thì tránh việc đưa tranh
chấp ra Tịa án mà thỏa thuận giải quyết tranh bằng Trọng tài. Trọng tài đóng vai trị
quan trọng trong sự phát triển kinh tế nói chung và thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh

tế nói riêng1. Vai trị của Trọng tài cụ thể là:
Trong môi trường kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh với mục đích tìm
kiếm lợi nhuận cao, cùng với sự địi hỏi bí mật trong kinh doanh, cũng như sự nhanh
chóng khi giải quyết tranh chấp mà Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp tối
ưu mà họ lựa chọn.
Bên cạnh đó thì một vai trị khơng kém phần quan trọng nữa của Trọng tài
chính là việc giảm gánh nặng cho Tòa kinh tế. Việc ra đời của các tổ chức Trọng tài
cũng chính là tạo cơ chế thi đua giữa Tòa kinh tế và Trọng tài trong sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cũng như đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp
kinh doanh ngày càng tăng cao.
Đảm bảo cho các nhà kinh doanh thực hiện quyền tự do kinh doanh mà cụ
thể ở đây là quyền tự do lựa chọn Cơ quan tài phán. Ngoài ra, việc hoàn thiện pháp luật
Trọng tài đóng vai trị quan trọng trong việc tạo ra một mơi trường đầu tư hấp dẫn
trong q trình quốc tế hóa của nhiều nước trên thế giới.
Trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp rất ưa chuộng đối với các nhà sản
xuất, kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, Trọng tài góp phần giải
1

Đoàn Năng: Một số ý kiến về thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật Trọng tài kinh tế ở

nước ta hiện nay. Tạp chí luật học, Số1, 1998

6


quyết tranh chấp nhanh gọn và hiệu quả nhằm ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh
trong từng nước và trên phạm vi quốc tế. Ở nước ta, việc mở rộng khả năng, cơ hội cho
các nhà sản xuất, kinh doanh sử dụng Trọng tài để giải quyết tranh chấp sẽ góp phần
thúc đẩy q trình hội nhập của Việt Nam và cộng đồng quốc tế, tạo môi trường thuận
lợi thu hút đầu tư nước ngoài đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, xã hội2.


1.2 Ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
Qua thực tiễn giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết bằng Trọng tài
cho thấy nhiều ưu thế và được các nhà kinh doanh ưa chuộng và lựa chọn để giải quyết
nếu có tranh chấp xảy ra. Qua thực tiễn cho thấy các ưu thế của việc giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài với các ưu điểm sau:
-

Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đơn giản, khơng có nhiều cơng đoạn
tố tụng, nhanh gọn, linh hoạt đáp ứng đòi hỏi hoạt động thương mại của các bên
có liên quan.

-

Nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin
cậy trong quan hệ thương mại. Điều có có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện cạnh
tranh.

-

Các bên đương sự được lựa chọn Trọng tài viên. Cách thức lựa chọn Trọng tài
và Hội đồng Trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong q trình tố
tụng.

-

Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng Trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi
hành, nên các bên đương sự nào khơng đồng ý phán quyết của Trọng tài thì có
thể kiện ra Tòa kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ việc.


-

Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài là một tổ chức phi
Chính phủ, nhưng được hỗ trợ, đảm bảo về pháp lý của Tòa án.
2

Đoàn Năng: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội –

2001

7


Vì những ưu điểm đó nên trong thời gian gần đây thì các doanh nghiệp Việt
Nam cũng dần dần chọn phương án giải quyết bằng Trọng tài khi có tranh chấp xảy ra.

1.3 Vấn đề giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại theo pháp luật
Việt Nam hiện hành
1.3.1 Thẩm quyền của Trọng tài
Ở nhiều nước trên thế giới, Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh
chấp phát sinh từ những quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở bình đẳng và thỏa
thuận giữa các bên. Các tranh chấp này có thể phát sinh từ quan hệ hợp đồng, quan hệ
đầu tư, quan hệ sở hữu… giữa các nhà kinh doanh với nhau; giữa các nhà kinh doanh
với tổ chức, các nhân có liên quan hoặc giữa các tổ chức, cá nhân ( không phải là nhà
kinh doanh) với nhau.
Khi quy định về thẩm quyền của Trọng tài, pháp luật các quốc gia này không sử
dụng phương pháp liệt kê những loại tranh chấp có thể giải quyết bằng Trọng tài mà
thường sử dụng phương pháp loại trừ. Tức là quy định những vụ việc khơng thể giải
quyết bằng Trọng tài, cịn những loại vụ việc khác có thể được các bên tranh chấp thỏa
thuận để đưa ra Trọng tài giải quyết.


1.3.2 Điều kiện để vụ tranh chấp được giải quyết theo tố tụng Trọng tài
- Có thỏa thuận Trọng tài :
Về nguyên tắc tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài, nếu trước hoặc sau
khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận Trọng tài, (theo khoản 1 Điều 5 của luật
Trọng tài Thương mại 2010).
Theo khoản 2 Điều 3 về Luật Trọng tài Thương mại 2010: thỏa thuận Trọng tài
là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng Trọng tài các vụ tranh chấp có thể
phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thưong mại.

8


Thỏa thuận Trọng tài có thể được lập thành văn bản riêng hoặc chỉ là một điều
khoản trong hợp đồng. Tuy nhiên thỏa thuận Trọng tài thông thường độc lập với hợp
đồng, việc gia hạn, sửa đổi, bổ sung, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến
hiệu lực của điều khoản Trọng tài.
-

Phát sinh từ hoạt động thương mại
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại năm 2005 thì: Hoạt

động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận
khác. Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại theo đó các bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn, bên mua hàng
có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán hàng.
Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên
cung ứng) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán. Bên sử
dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh tốn cho bên cung ứng

dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa
và cung ứng dịch vụ, bao gồm các hoạt động: khuyến mại, quảng cáo thương mại,
trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hỗ trợ, triển lãm thương mại.
Các hoạt động trung gian là hoạt động của thương nhân thực hiện các giao dịch
thương mại cho một hoặc một số thương nhân xác định, bao gồm: đại diện cho thương
nhân, môi giới thương mại, ủy thác múa bán hàng hóa và đại lý thương mại.
-

Chủ thể
9


Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005: thì chủ thể là tổ chức,
cá nhân kinh doanh bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

CHƯƠNG 2 VẤN ĐỀ CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Khái niệm về việc quyết định của Trọng tài
Theo pháp luật hiện hành, quyết định của Trọng tài được chia làm hai loại:
quyết định của Trọng tài trong nước và quyết định của Trọng tài nước ngoài. Việc xác
định đúng hai loại quyết định này có ý nghĩa rất lớn trong thực tế, bởi lẽ mỗi loại quyết
định có cơ chế cơng nhận và thi hành khác nhau. Quyết định của Trọng tài nước ngồi
thì dựa vào Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 để được công nhận và thi hành. Trong khi
công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài trong nước thì dựa trên luật Trọng tài
Thương mại 2010.
Luật trong nước cũng như trong các điều ước quốc tế về Trọng tài (kể cả công
ước New York về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài), khơng có một định

nghĩa nào cụ thể về khái niệm quyết định của Trọng tài. Tuy nhiên, Công ước New
York có quy định xác định cụ thể các loại quyết định của trọng tài và được định nghĩa
như sau: “Quyết định của Trọng tài là quyết định cuối cùng giải quyết các vấn đề được
các bên thỏa thuận đệ trình lên Trọng tài và bất kỳ một quyết định nào khác của Trọng
tài xác định rõ về vấn đề tài sản, vấn đề thẩm quyền hay bất cứ một vấn đề nào về thủ
tục giải quyết tranh chấp được các bên đệ trình”.

10


2.2 Khái niệm và bản chất của việc công nhận và thi hành phán quyết của
Trọng tài tại Việt Nam
Sau khi xác định được khái niệm quyết định của Trọng tài, thì khái niệm
cơngnhận và thi hành phán quyết của Trọng tài cũng cần được làm rõ. “Công nhận”
theo từ điển tiếng Việt là sự thừ nhận trước mọi người một điều gì đó là phù hợp với lẽ
phải hoặc với thể lệ, luật pháp. Trong khi đó “Thi hành” là việc làm cho điều gì đó có
hiệu lực (được thực hiện trên thực tế) điều đã được chính thức quyết định. Về mặt pháp
lý và thực tiễn hoạt động của Trọng tài, quyết định của Trọng tài có thể thi hành một
trong hai cách:
- Người có nghĩa vụ thi hành phán quyết đó tự nguyện thực hiện hành vi của
mình theo yêu cầu của quyết định.
- Nếu người người có nghĩa vụ thi hành mà khơng tự nguyện thi hành thì chỉ
thực hiện khi bị cưỡng chế.
Đối với các trường hợp không tự nguyện thực hiện, các bên phải thi hành theo
quyết định của Trọng tài không tự nguyện thực hiện thì cần cưỡng chế thi hành. Sự
cưỡng chế này không thể do bên được thi hành phán quyết của Trọng tài hoặc bản thân
Trọng tài thực hiện được, vì cả hai đều khơng phải thực hiện quyền lực của Nhà nước
mà chỉ có thể do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đó chính là Tịa án hay Cơ quan thi
hành án dân sự thực hiện3.


3

Hoàng Phước Hiệp. Vấn đề công nhận và thi hành ở Việt Nam quyết định của Trọng tài nướcc ngồi .

Tạp chí nhà nước pháp luật , số 3/1994.

11


Như vậy, Khái niệm công nhận quyết định của Trọng tài theo đúng nghĩa của
nó thì đó là hành vi của cơ quan Nhà nuớc có thẩm quyền thừa nhận quyết định của
Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật. Và sự thi hành phán quyết của Trọng tài được hiểu
là việc Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm cho quyết định của Trọng tài được thực
hiện trên thực tế.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài
cần làm rõ mục đích và bản chất của những hoạt động đó. Đối với cơng nhận thì mục
đích thể hiện ở chỗ sự công nhận được sử dụng nhằm ngăn ngừa trường hợp một bên
tranh chấp tiếp tục khởi kiện vụ việc đã dược Trọng tài giải quyết. Trong khi đó việc
thi hành đóng vai trị như một cơng cụ hữu hiệu để buộc bên thua kiện phải thực hiện
nghĩa vụ của mình mà họ đã không tự nguyện thi hành. Việc cưỡng chế bên phải thực
hiện quyết định của Trọng tài có thể bằng nhiều cách khác nhau như: tịch thu, phong
tỏa tài sản.
Như vậy, việc xác định khái niệm công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài cho thấy bản chất của việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài là việc
Nhà nước thừa nhận tính hiệu lực của quyết định trọng tài.

2.3 Sự cần thiết của việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài
thương mại Việt Nam
Công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài là giai đoạn cuối cùng của quá
trình giải quyết tranh chấp. Bởi vậy, nếu công đoạn này khơng được thực hiện hoặc

thực hiện khơng phù hợp thì nó sẽ làm cho việc xét xử tranh chấp của Trọng tài viên
trở nên vô nghĩa nếu như bên phải thi hành phán quyết đó khơng thi hành phán quyết
của Trọng tài cũng sẽ ngày càng trở nên hạn chế hơn bởi đằng sau sự tự nguyện đó
ngồi ý thức chấp hành, tôn trọng quyết định của Trọng tài bao giờ cũng có mối e ngại
về việc nếu khơng thi hành tự nguyện thì sẽ bị cưỡng chế.
12


Nói cách khác, Nếu việc cơng nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài được
tiến hành một cách phù hợp thì nó sẽ góp phần khơng chỉ làm cho hoạt động tố tụng
của Trọng tài Trong các giai đoạn trước đó có hiệu quả thiết thực, mà cịn làm cho các
quyết định khác của Trọng tài trong tương lai được công nhận và thi một cách tự
nguyện nhiều hơn. Và nếu hoạt động của Trọng tài đạt hiệu quả mong muốn thì rõ ràng
những mặt lợi của Trọng tài so với Tòa án mới được phát huy.

2.4 Thủ tục thi hành phán quyết của Trọng tài theo pháp luật Việt Nam
hiện hành
Theo quy định tại Điều 66 Luật Trọng tài Thương mại 2010:
“Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết
không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy
định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm
đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.”
Trong trường hợp một trong các bên có u cầu Tịa án hủy quyết định Trọng
tài thì quyết định Trọng tài được thi hành kể từ ngày quyết định của Tòa án khơng hủy
quyết định của Trọng tài có hiệu lực
Trình tự thủ tục và thời hạn thi hành phán quyết của Trọng tài theo quy định của
Luật Thi hành án Dân sự 2008.

2.4.1 Điều kiện để thi hành phán quyết của Trọng tài
Theo Điều 7 Luật thi hành án Dân sự 2008 quy định về quyền yêu cầu thi hành

án như sau:
“Người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định
có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án.”
13


Ngoài ra căn cứ theo Điều 9, Luật thi hành án Dân sự 2008 được quy định về
quyền yêu cầu thi hành án: “Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng
tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”
Theo đó dẫn theo Điều 45, Điều 46 Luật thi hành án Dân sự 2008 thì hết thời
hạn 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ
quyết định thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự
nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
Điều này tạo được niềm tin cho các chủ thể khi lựa chọn Trọng tài thương mại
làm phương thức giải quyết tranh chấp. Đảm bảo lợi ích của các bên trong tranh chấp.

2.4.2 Thủ tục thi hành phán quyết của Trọng tài tại Cơ quan thi hành án dân
sự
Hoạt động thi hành án đóng vai trị quan trọng là làm cho các quyết định của
Tịa án trở thành có hiệu lực. Thông qua thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của công dân được bảo vệ, pháp chế
xã hội chủ nghĩa được tăng cường nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Luật thi hành án Dân sự 2008 quy định cụ thể những trường hợp Cơ quan thi
hành án phải tự mình ra quyết định thi hành án và những trường hợp chỉ ra quyết định
thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án của đương sự.
Việc quy định những trường hợp Cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định thi hành
án khi có đơn yêu cầu thi hành án là xuất phát từ nguyên tắc tự định đoạt của đương sự.
Người được thi hành án có quyền tự mình quyết định việc yêu cầu thi hành án hay
14



khơng, u cầu thi hành một phần hay tồn bộ, yêu cầu thi hành một lần hoặc nhiều
lần…
• Ra quyết định thi hành án
Căn cư theo quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án Dân sự 2008:
“Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với
phần bản án, quyết định sau đây:
a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;
b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản;
d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời do Toà án chuyển giao hoặc do đương sự giao trực tiếp, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án và phân cơng Chấp hành viên tổ
chức thi hành.”
Ngồi ra, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cũng phải ra quyết định thi hành
án khi có đơn yêu cầu thi hành án.
Như vậy có thể nhận thấy rằng, các phán quyết của trọng tài sẽ được cơ quan thi
hành án nếu nó đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án Dân
sự 2008. Ngoài việc bắt buộc phải ra quyết định thi hành Phán quyết của trọng tài, Cơ
quan thi hành án dân sự cũng ra quyết định thi hành Phán quyết của Trọng tài khi có
đơn yêu cầu thi hành.

15



• Để tự nguyện thi hành án
Theo Luật thi hành án Dân sự 2008, nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như thi hành các bản án, phán quyết của Trọng tài.
Điều này cho thấy sự thỏa thuận, mong muốn hợp tác để tạo ra lợi nhuận. Ngoài ra,
việc này cũng tránh cho các bên có thể điều hịa được các mâu thuẫn, tránh việc phát
sinh thêm các tranh chấp khơng đáng có ảnh hưởng đến hịa khí các bên.
Cụ thể hóa điều này, Luật thi hành án Dân sự 2008 đã quy định rất rõ tại Khoản
1 Điều 9: “Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án”. Và cũng theo đó
nhà nước cũng đưa ra thời gian tự nguyện thi hành án là “15 ngày, kể từ ngày người
phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án”.
Nội dung của quy định này rõ rãng là rất hợp lý khi dành ra thời gian đủ để bên
thi hành án chuẩn bị kịp tinh thần lẫn vật chất cho việc thi hành của mình. Bên cạnh đó
cũng tạo cho bên được thi hành có thể có được giới hạn thời gian cho việc đảm bảo lợi
ích của mình để có những bước đi tiếp theo một cách đúng đắn, đảm bảo hiệu quả
trong việc kinh doanh.Hết thời hạn quy định trên, nếu bên thi hành án vẫn chưa “tư
nguyện” thi hành.

2.5 Trình tự, thủ tục yêu cầu Tòa hủy quyết định của Trọng tài thương mại
tại Việt Nam
2.5.1 Căn cứ hủy quyết định của Trọng tài
Việc hủy quyết định của Trọng tài được quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài
Thương mại 2010 :
“1. Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên.
2. Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Khơng có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
16


b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với
thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;

c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp
phán quyết trọng tài có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì
nội dung đó bị huỷ;
d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán
quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một
bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng
tài;
đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
3. Khi Tòa án xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nghĩa vụ chứng
minh được xác định như sau:
a) Bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2
Điều này có nghĩa vụ chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
các trường hợp đó;
b) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại điểm đ khoản 2 Điều
này, Tịa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy
hay không hủy phán quyết trọng tài.”4

4

Điều 68 Luật Trọng tài Thương mại 2010.

17


2.5.2 Thủ tục yêu cầu Tòa hủy quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt
Nam
Trong thời gian 30 ngày, kể từ ngày nhận quyết định của Trọng tài nếu có căn
cứ các bên muốn u cầu Tịa án hủy quyết định của Trọng tài thì gửi đơn yêu cầu, đơn
yêu cầ phải có nội dung như sau:
- Ngày, tháng, năm viết đơn;

- Tên và địa chỉ của bên có yêu cầu huỷ quyết định của Trọng tài;
- Lý do yêu cầu hủy quyết định của Trọng tài;
Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải nộp cho Tòa án các giấy tờ sau đây:
- Bản chính hoặc bản sao quyết định của Trọng tài đã được chứng thực hợp lệ;
- Bản chính hoặc bản sao thỏa thuận Trọng tài đã được chứng thực hợp lệ;
Giấy tờ kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng
Việt và bản dich phải được chứng thực hợp lệ.
Sau khi nhận đủ các giấy tờ trên, Tịa án có thẩm quyền thơng báo cho bên u
cầu nộp lệ phí. Tịa án thụ lý kể từ ngày bên có u cầu nộp lệ phí.
Tịa án có thẩm quyền u cầu bên nộp phải giải thích những điều chưa rõ trong
đơn yêu cầu hủy quyết định Trọng tài.
Sau khi thụ lý đơn yêu cầu hủy quyết định của Trọng tài, Tòa án phải thông báo
cho trung tâm Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập, các bên tranh
chấp và Viện Kiểm sát cùng cấp biết về việc thụ lý đơn yêu cầu trên. Trong trường hợp
vụ tranh chấp do trung tâm Trọng tài tổ chức giải quyết thì trong thời hạn 07 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được thơng báo của Tịa án, Trung tâm Trọng tài phải chuyển hồ
sơ cho Tòa án.

18


Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý, Chánh án Tòa án chỉ định một
Hội đồng xem xét gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ tọa và phải
mở phiên họp để xem xét yêu cầu hủy quyết định Trọng tài. Tòa án phải chuyển hồ sơ
cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn bảy ngày làm việc, trước ngày mở phiên
Tòa.

2.6 Trình tự, thủ tục về việc cơng nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam
Do nhận thức được sự cần thiết của vấn đề công nhận và thi hành phán quyết

của Trọng tài nước ngoài, các quốc gia đều giải quyết vấn đề này một cách tích cực.
Tuy nhiên, cách thức thực hiện thì mỗi quốc gia khơng giống nhau.

2.6.1 Trình tự, thủ tục xét đơn công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngồi tại Việt Nam
Về trình tự, thủ tục cơng nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
tại Việt Nam được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Thông thường
quyết định của Trọng tài được các bên tự nguyện thực hiện. Trong trường hợp không
tự nguyện thực hiện, bên được thi hành phải tiến hành một số thủ tục pháp lý nhất
định.5
Trình tự, thủ tục công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài bắt đầu bằng việc đưa đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài tới Bộ Tư pháp Việt Nam. Đơn này có nội dung như sau: tên
gọi đầy đủ và địa chỉ trụ sở chính của tổ chức, cơ quan phải thi hành hoặc họ tên, địa
chỉ nơi cư trú, nơi làm việc của các nhân được thi hành hoặc của người đại diện hợp
pháp tại Việt Nam của tổ chức các nhân đó (nếu có); tên gọi đầy đủ và địa chỉ trụ sở
chính của tổ chức, cơ quan được thi hành hoặc họ tên, địa chỉ nơi cư trú, nơi làm việc
5

Giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2000

19


của các nhân phải thi hành. Trong trường hợp tổ chức phải thi hành khơng có trụ sở
chính tại Việt Nam thì cần phải ghi rõ địa điểm nơi có tài sản tại Việt Nam liên quan
đến việc thi hành; yêu cầu của tổ chức, cơ quan, cá nhân phải thi hành.6
Việc xác định khái niệm “người đại diện hợp pháp của tổ chức, cá nhân” phải
theo quy định của pháp luật Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005.
Đại diện hợp pháp bao gồm: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Đại

diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định. Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền của
người đại diện được sự chấp thuận của người đại diện. Chẳng hạn, người đứng đầu
pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền là người đại diện theo pháp luật. Người này có quyền ủy thác cho người
khác thay mặt mình thực hiện những công việc nhất định. Như vậy, Trong trường hợp
tổ chức, cá nhân được thi hành (phải thi hành) khơng thể tự mình tham gia vào q
trình tố tụng này thì họ có thể nhờ người đại diện hợp pháp thay mặt tham gia.7
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, để Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền xét đơn yêu cầu, các bên thi hành, ngồi đơn u cầu, cịn phải nộp một số
giấy tờ kèm theo đơn. Đó là các giấy tờ quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt
Nam và các quốc gia nước ngoài đã ký kết8. Trong trường hợp khơng có điều ước quốc
tế hoặc điều ước quốc tế khơng có quy định về các giấy tờ đó thì phải nộp theo đơn các
giấy tờ sau: bản sao quyết định của Trọng tài nước ngoài; bản sao thỏa thuận Trọng tài.
Tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngồi thì phải được gửi kèm theo
bản dịch tiếng Việt đã được công chứng, chứng thực hợp pháp.
6

Khoản 1 điều 364 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

7

Tạp chí luật học, số 12-2006, theo Nguyễn Trung Tín.

8

Khoản 1 điều 365 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

20



Căn cứ vào quyết đinh Trọng tài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ xác
định quyết định đó là quyết định Trọng tài nước ngoài và căn cứ vào đó để quyết định
xem quyết định của Trọng tài có được cơng nhận và cho thi hành tai Việt Nam hay
khơng. Căn cứ vào quyết định, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cũng xác định nội
dung đơn yêu cầu của bên được thi hành có phù hợp không (nếu như được công nhận
và thi hành tại Việt Nam).
Về nguyên tắc xét đơn yêu cầu, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định rõ là
Hội đồng xem xét không xem xét lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài giải
quyết mà chỉ cần kiểm tra đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các giấy tờ
tài liệu kèm theo so với quyết định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có liên quan đến quyết định 9. Nguyên tắc này là
nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo những mặt lợi của phương thức giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài. Điều này được áp dụng trong thực tiễn Trọng tài ở các nước và
cũng đã thừa nhận trong các điều ước quốc tế.
Việc tiến hành xét đơn yêu cầu tại phiên họp do một Hội đồng thẩm phán gồm
ba thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ tọa theo sự phân cơng của Chánh
án Tịa án10. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp. Trong
trường hợp Kiểm sát viên khơng tham gia thì phải hỗn phiên họp. Phiên họp phải
được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của cơ quan tổ chức phải thi
hành, của cá nhân phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó. Những
người này được triệu tập đến phiên họp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành nếu người đại diện hợp pháp của tổ
chức, cá nhân phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó u cầu Tịa án

9

Khoản 4 Điều 369 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

10


Khoản 1 Điều 369 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

21


xét đơn vắng mặt của họ, hoặc sau hai lần triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt mà khơng
có lý do chính đáng.
Hội đồng xem xét có quyền ra quyết định công nhận và thi hành tại Việt Nam
quyết định của Trọng tài nước ngồi hoặc quyết định khơng cơng nhận quyết định của
Trọng tài nước ngồi. Ngay sau khi ra quyết định, Tòa án gửi Viện kiểm sát cùng cấp
bản sao quyết định đó.
Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo, quyết
định của Tịa án Việt Nam cơng nhận hoặc khơng cơng nhận quyết định của Trọng tài
nước ngoài trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định đó. Đơn kháng cáo
phải nêu rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Nếu trường hợp đương sự khơng có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời
hạn kháng cáo được tính từ ngày bản sao quyết định được giao cho họ; nếu kháng cáo
quá hạn mà có lý do chính đáng thì thời hạn được tính từ ngày trở ngại cho việc kháng
cáo khơng cịn nữa.
Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng
nghị quyết định của Tịa án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận quyết định của
Trọng tài nước ngoài. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, còn
Viện kiểm sát nhân tối cao là 30 ngày kể từ ngày Tòa ra quyết định.
Tòa án nhân dân tối cao xét quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, khi có kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày
nhận được hồ sơ. Trong trường hợp cần yêu cầu giải thích thêm về quyết định thời hạn
này đựợc kéo dài nhưng không quá 02 tháng.

22



2.6.2 Các điều kiện không công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài
theo Bộ luật dân sự năm 2004
Việc pháp luật quy định các điều kiện không công nhận quyết định của Trọng
tài nước ngoài là một trọng những cơ sở để Tịa án có thẩm quyền của Việt Nam không
công nhận quyết định của Trọng tài trái với quy định của pháp luật Việt Nam, việc quy
định này là cần thiết vì nó bảo vệ quyền và lợi ích của các bên đương sự (có trường
hợp là cá nhân, pháp nhân nước ngồi; có trường hợp là cá nhân, pháp nhân Việt Nam;
có trường hợp là cả cá nhân và pháp nhân trong và ngoài nước) và thực tế có nhiều
quyết định của Trọng tài nước ngồi xin công nhận và thi hành ở Việt Nam đã bị Tịa
án có thẩm quyền Việt Nam hủy bỏ do trái với quy định của pháp luật Việt Nam. Các
trường hợp không được công nhận quyết định của Trọng tài:
Trường hợp thứ nhất: Liên quan đến thỏa thuận Trọng tài. Thỏa thuận Trọng tài
là vấn đề then chốt trong việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài, bởi lẽ
không có thỏa thuận Trọng tài thì khơng thể có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng
tài. Bản chất của tố tụng Trọng tài là sự thống nhất ý chí của các bên, ý chí đó là hồn
tồn tự nguyện, minh bạch, không bên nào bị lừa dối hoặc đe dọa. Do đó thỏa thuận
Trọng tài khơng phù hợp với quy định của pháp luật thì Tịa án có thể từ chối công
nhận quyết định của Trọng tài. Một trong những vấn đề của thỏa thuận Trọng tài là
năng lực ký kết thỏa thuận Trọng tài, quyết định của Trọng tài dựa trên ký kết thỏa
thuận Trọng tài của các bên không đủ năng lực ký kết thỏa thuận Trọng tài theo quy
định của pháp luật áp dụng cho mỗi bên (theo điểm a, khoản 1, Điều 370, Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004) thì có thể bị Tịa án có thẩm quyền của Việt Nam khơng cơng
nhận và khơng cho thi hành tại Việt Nam. Quy định này được hiểu là các bên ký kết
thỏa thuận Trọng tài phải đủ năng lực ký kết.

23



Như vậy, một trong các bên đương sự chứng minh được rằng bên cịn lại khơng
đủ năng lực hành vi ký kết thỏa thuận Trọng tài thì phán quyết của Trọng tài dựa trên
cơ sở thỏa thuận đó sẽ khơng được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Theo quy
định này, thì pháp luật áp dụng để xác định năng lực hành vi ký kết thỏa thuận Trọng
tài của các bên là luật quốc tịch của các bên. Theo đó luật quốc tịch sẽ là cơ sở pháp lý
để xác định năng lực hành vi ký kết của các bên. Theo npháp luật Việt Nam năng lực
ký kết thỏa thuận Trọng tài của các bên là: cá nhân phải có đầy đủ năng lực pháp luật
và năng lực hành vi, pháp nhân phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân uỷ
quyền bằng văn bản.
Thực tiễn là ngày 18/11/1997 bằng quyết định của mình Tịa án nhân dân thành
phố Hà Nội đã không công nhận quyết định của Trọng tài Nga xin được công nhận và
thi hành tại Vịêt Nam do người ký kết thỏa thuận Trọng tài của bên phải thi hành
không thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam (không được người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền ký kết thỏa thuận Trọng tài).
Trường hợp thứ hai: Liên quan đến giá trị pháp lý của thỏa thuận Trọng tài đó
là: quyết định của Trọng tài dựa trên sự thỏa thuận Trọng tài khơng có giá trị pháp lý
theo quy định của pháp luật áp dụng cho thỏa thuận Trọng tài (theo điểm b, khoản 1,
Điều 370, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004).Trường hợp này có thể xảy ra khi:
- Trái với pháp luật mà các bên đã thỏa thuận áp dụng.
- Trái với pháp luật nơi ra quyết định Trọng tài (nếu các bên không chọn luật
áp dụng).
Theo quy định của pháp luật, quyết định của Trọng tài khơng có giá trị pháp lý
khi:
- Về hình thức khơng phù hợp với quy định của pháp luật (thỏa thuận Trọng tài
phải được lập thành văn bản, điện báo, fax, telex, thư điện tử hoặc hình thức văn bản
khác).

24



- Về nội dung, đối tượng tranh chấp của thỏa thuận Trọng tài phải thuộc phạm
vi vụ việc có thể được giải quyết bằng Trọng tài. Nếu đối tượng tranh chấp đã được
pháp luật quy định không thể giải quyết bằng Trọng tài mà các bên vẫn thỏa thuận đưa
ra Trọng tài giải quyết thì thỏa thuận đó vơ hiệu (phạm vi giải quyết của Trọng tài là
tranh chấp phát sinh từ phap luật kinh doanh, thương mại, lao động).
Việc pháp luật quy định cụ thể các trường hợp nói trên về thỏa thuận Trọng tài
là nhằm mục đích để các bên có trách nhiệm khi tham gia ký kết thỏa thuận Trọng tài,
đồng thời là căn cứ để Tòa án xem xét phán quyết của Trọng tài có phù hợp với pháp
luật hay không.
Trường hợp thứ ba: Quyết định Trọng tài vi phạm thủ tục tố tụng (theo điểm c,
đ, khoản 1, Điều 370, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004). Thủ tục tố tụng Trọng tài là
một trong những nội dung thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Các bên có thể tự đưa ra
nhưng quy tắc riêng của mình thơng thường họ có thể chọn một trong những bản quy
tắc Trọng tài của các Trung tâm Trọng tài có uy tín quốc tế. Do đó một khi quyết định
của Trọng tài vi phạm thủ tục tố tụng thì phán quyêt Trọng tài dựa trên cơ sở đó có thể
bị Tịa án có thẩm quyền của Việt Nam từ chối công nhận và không cho thi hành.
Trường hợp thứ tư: Liên quan đến phạm vi thỏa thuận Trọng tài giải quyết tranh
chấp. Các bên khi tham gia hợp đồng đã thỏa thuận xác định phạm vi tranh chấp mà họ
giao cho Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài giải quyết khi có phát sinh tranh chấp. Nếu
quyết định của Trọng tài nằm ngoài yêu cầu giải quyết tranh chấp của các bên hoặc
vược qua yêu cầu của các bên trong thỏa thuận Trọng tài thì phán quyết của Trọng tài
dựa trên cơ sở đó có thể bị Tịa án xem xét khơng cơng nhận và khơng cho thi hành tại
Việt Nam.
Ví dụ:

25


×