Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

LUẬT TRỌNG tài THƯƠNG mại năm 2010 NHỮNG vấn đề đặt RA và GIẢI PHÁP THỰC THI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.23 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIẾU LUẬN
Môn: Pháp luật Kinh doanh Quốc tế
Đề tài:

LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2010:
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP THỰC THI
GVHD
Lớp
Nhóm SV
thực hiện

:
:
:

TS Tăng Văn Nghĩa
QTKD CH6.2
1. Vũ Thị Thanh Nhàn (SBD 71)
2. Đặng Tuyết Nhung (SBD 73)
3. Nguyễn Thị Tuyết Nhung (SBD 74)
4. Nguyễn Hồng Nhung (SBD 75)
5. Bùi Hồng Nhung (SBD 76)
6. Lê Thị Hoàng Oanh (SBD 77)
7. Tống Thị Phương (SBD 78)
8. Trần Linh Phương (SBD 79)
9. Đặng Thanh Phương (SBD 80)

Hà Nội, tháng 9/2010




MỤC LỤC

TRANG
LỜI NÓI ĐẦU

1

NỘI DUNG

1

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2010

1

1. Sự cần thiết phải ban hành Luật Trọng tài thương mại năm 2010

1

2. Mục đích, quan điểm xây dựng, cấu trúc Luật Trọng tài thương mại năm
2010

4

3. Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010

6


II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI ÁP DỤNG LUẬT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI NĂM 2010

9

1. Những vấn đề về mặt pháp lý

9

2. Những vấn đề về mặt thực thi

13

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐƯA LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
NĂM 2010 VÀO THỰC TIỄN

18

1. Giải kháp khắc phục những vấn đề vể mặt pháp lý

18

2. Giải pháp khắc phục những vấn đề về mặt thực thi

19

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21



LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề kinh doanh thương mại trong nước và quốc tế là mối quan tâm trọng yếu của
tất cả các quốc gia trên thế giới. Để tránh những rủi ro thiệt hại và những tranh chấp trong
lĩnh vực này, các doanh nghiệp phải tôn trọng và tuân theo các luật thương mại ban hành
trong quốc gia mình và các quốc gia khác trên thế giới cùng tham gia giao dịch thương
mại. Nhất là trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam ta cần có những
hiểu biết cơ bản về pháp luật kinh doanh quốc tế để tận dụng những thuận lợi của cơ chế
mở cửa của kinh tế thế giới đem lại và lường trước những vướng mắc sẽ gặp phải.
Luật Trọng Tài thương mại còn khá mới mẻ trong các bộ luật hay Pháp lệnh đã
được áp dụng tại Việt Nam. Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 của Việt Nam về cơ bản
phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của
Trọng tài như: quy định về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành Trọng tài
viên, về trọng tài vụ việc, mở rộng thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ
giữa Trọng tài và Toà án bằng một loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ thi hành thoả thuận
trọng tài… Tuy nhiên qua hơn sáu năm thực hiện, Pháp lệnh này đã bộc lộ khơng ít những
hạn chế và bất cập như: Phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; chủ thể của
các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài về mặt
nội dung và hình thức; việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; việc triệu tập nhân chứng;
vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; việc hủy quyết định
trọng tài, vấn đề địa điểm tiến hành trọng tài; cách tính thời hiệu khởi kiện v.v… Để khắc
phục luật Trọng Tài thương mại 2010 mới được ban hành ngày 29/06/2010 và sẽ có hiệu
lực từ 01/01/2011 được nhận định là sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp khi
tham gia giải quyết tranh chấp. Luật mới ban hành này có rất nhiều điểm tiến bộ và khắc
phục được nhiều điểm hạn chế của Pháp lệnh trọng tài trước đây và được đánh giá là sẽ tiết
kiệm chi phí cũng như thời gian, công sức cho các nhà kinh doanh trong việc giải quyết
tranh chấp của mình.
Để bổ sung thêm cho mình về kiến thức mơn Pháp luật kinh doanh quốc tế, nhóm
chúng tơi quyết định chọn đề tài: “Luật Trọng tài thương mại năm 2010: những vấn đề

đặt ra và giải pháp thực thi” để nghiên cứu. Vì thời gian có hạn nên những vấn đề nhóm
chúng tơi đặt ra trong đề tài này còn khá cơ bản và đơn giản, mang tính chất tìm hiểu chưa
chun sâu và khơng thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, nhóm nghiên cứu rất mong nhận
được những đóng góp ý kiến của thầy giáo để hoàn thiện hơn bài làm của mình và có
những ý nghĩa nghiên cứu và thực tiễn nhất định.
1


NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2010
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng
nhiều hơn đến việc hợp tác với các đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có
một tiến trình thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, tuy nhiên vẫn không ít những tranh chấp
giữa các bên xảy ra do sự thiếu hiểu biết và vì kinh nghiệm cịn hạn hẹp. Nhằm giải quyết
sự tranh chấp một cách êm đẹp có lợi cho cả đôi bên, phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài luôn là một phương thức được các bên ưu ái sử dụng. Mà theo đó giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài là phương thức theo đó các bên thỏa thuận lựa chọn một chủ thể
không phải là tịa án giúp mình giải quyết tranh chấp đã phát sinh. Chủ thể được lựa chọn
gọi là trọng tài và sẽ ra phán quyết về tranh chấp giữa các bên có liên quan. Sự ra đời của
Luật Trọng tại thương mại (Luật TTTM) được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010 được
nhận định là mang lại nhiều thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khi tham gia
giải quyết tranh chấp.
1. Sự cần thiết phải ban hành Luật Trọng tài thương mại 2010
Vào thời điểm trước năm 2003, để giải quyết những tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực thương mại theo phương thức trọng tài thì ở Việt Nam tồn tại hai loại hình trọng tài, đó
là trọng tài kinh tế nhà nước và trọng tài phi chính phủ. Trọng tài kinh tế nhà nước là mơ
hình trọng tài do Nhà nước thành lập ra, có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh
từ các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, thực chất, trọng tài kinh
tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực
hiện chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước. Mơ

hình này được hình thành đầu tiên bằng Nghị định số 20/TTg ngày 14/4/1960. Sau đó,
được nâng lên bằng Pháp lệnh Trọng tài kinh tế nhà nước năm 1990, theo đó, trọng tài
được tổ chức ở ba cấp, đó là Trọng tài kinh tế nhà nước, Trọng tài kinh tế tỉnh và Trọng tài
kinh tế huyện. Mơ hình này tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống tòa án kinh tế
theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức tòa án năm 1993. Bắt đầu từ thời điểm
này, các tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Đối với trọng tài phi Chính phủ, tồn tại hai mơ hình khác nhau. Mơ hình thứ nhất ra
đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc
thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp sau đó, ngày 5/10/1964, Hội đồng Chính
phủ ban hành Nghị định số 153/CP về việc thành lập Hội đồng Trọng tài hàng hải. Đến
ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 204/TTg về việc thành
2


lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài ngoại thương và Hội đồng Trọng
tài thương mại hàng hải. Mơ hình trọng tài thứ hai là các trung tâm trọng tài kinh tế được
thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 05/09/1994 của Chính phủ.
Điểm đáng lưu ý là, các văn bản pháp luật về trọng tài trong thời điểm này đều có
hiệu lực pháp lý thấp, mới dừng ở mức cao nhất là nghị định. Nội dung văn bản còn có
nhiều điểm bất cập, thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế đảm bảo cần thiết để vận hành có hiệu
quả.
Trong bối cảnh nền kinh tế mới trong giai đoạn bắt đầu chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, hệ thống pháp luật thương mại chưa được hình
thành một cách đồng bộ, chưa điều chỉnh kịp thời các quan hệ thương mại phát sinh trong
thực tiễn, Pháp lệnh TTTM 2003 ra đời đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình
thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam. Có thể nói, hầu hết các bất cập
trước đây đã được Pháp lệnh khắc phục và về cơ bản phù hợp với pháp luật và thực tiễn
quốc tế, đặc biệt là sự hồn thiện các quy định về vai trị hỗ trợ và giám sát của tòa án đối
với trọng tài cũng như xác định hiệu lực pháp lý của Quyết định trọng tài và cơ chế thi

hành Quyết định trọng tài. Điều này làm cho các doanh nghiệp tin tưởng lựa chọn và sử
dụng trọng tài nhiều hơn.
Không những thế, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 về cơ bản phù hợp với pháp
luật và thông lệ quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của Trọng tài như: quy định
về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành Trọng tài viên, về trọng tài vụ việc,
mở rộng thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ giữa Trọng tài và Toà án
bằng một loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ thi hành thoả thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài
viên, giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, giải quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài v.v.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, qua hơn sáu năm thực hiện, Pháp lệnh
này đã bộc lộ khơng ít những hạn chế và bất cập như: Phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài; chủ thể của các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; giá trị pháp lý
của thỏa thuận trọng tài về mặt nội dung và hình thức; việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời; việc triệu tập nhân chứng; vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài; việc hủy quyết định trọng tài, vấn đề địa điểm tiến hành trọng tài; cách tính
thời hiệu khởi kiện v.v…
Theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phịng Thương mại và
Cơng nghiệp Việt Nam (VIAC), trong năm 2007 TAND Thành phố Hà nội đã xử gần
3


9.000 vụ án trong đó có khoảng 300 vụ tranh chấp kinh tế và TAND Tp. Hồ Chí Minh xử
gần 42.000 vụ án, trong đó có 1000 vụ tranh chấp kinh tế thì VIAC với tư cách là tổ chức
trọng tài lớn nhất Việt Nam cũng chỉ tiếp nhận 30 vụ tranh chấp trong năm 2007 và 58 vụ
trong năm 2008. Trong khi mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ một
năm, ở Toà kinh tế Tp. Hồ Chí Minh xử 50 vụ một năm thì mỗi trọng tài viên của VIAC
chỉ xử 0,25 vụ một năm. Như vậy, một trong những nguyên nhân Trọng tài ít được các bên
sử dụng phổ biến ở nước ta là do chưa có những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc thực hiện
chính sách nhất quán khuyến khích sử dụng Trọng tài; trong các quy định của Pháp luật
hiện hành cịn có nhiều rủi ro cho việc huỷ phán quyết trọng tài và tạo tâm lý e ngại về hiệu

lực của phán quyết trọng tài. Những yếu tố đó đã làm cho độ tin cậy của các bên tranh chấp
vào Trọng tài chưa chắc chắn, chưa cao.
Mặc dù đã có những quy định khá tiến bộ so với trước đây, Pháp lệnh Trọng tài
thương mại năm 2003 vẫn chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện chủ
trương của Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng Trọng tài trong giải quyết các tranh
chấp thương mại và các tranh chấp khác, cần được khắc phục bằng việc ban hành một đạo
luật mới về trọng tài thương mại - Luật Trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh Trọng tài
Thương mại 2003 trên cơ sở kế thừa những chế định tiến bộ, phù hợp kết hợp với những quy
định mới, hoàn chỉnh hơn.
Dự thảo Luật TTTM 2010 được Quốc hội Quốc hội khóa VII thơng qua tại kỳ họp
thứ 7 ngày 17 tháng 6 năm 2010. Theo đó, Luật trọng tài Thương mại 2010 được thông qua
sẽ khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003, đáp ứng nhu
cầu thực tiễn Việt Nam và hội nhập với pháp luật Trọng tài trong khu vực và thế giới. Khi
Luật có hiệu lực (từ ngày 01 tháng 01 năm 2011), hoạt động của trọng tài thương mại tại
Việt Nam sẽ bước sang một giai đoạn phát triển mới.
2. Mục đích, quan điểm chủ đạo và cấu trúc của Luật Trọng tài Thương mại
a. Mục đích
Mục đích quan trọng của việc xây dựng Luật Trọng tài thương mại là thể chế hố
kịp thời và đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Luật này ghi nhận chủ trương mở rộng các hình thức
giải quyết trong tranh chấp trong các hoạt động kinh doanh, thương mại và một số các quan
hệ dân sự khác, khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng hình thức Trọng tài.

4


Chủ trương khuyến khích sử dụng Trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp
giữa các bên trước hết xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân và

pháp nhân dân sự muốn giải quyết vụ việc của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có
hiệu quả.
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài góp phần làm giảm tải hoạt động xét xử của
Toà án ở nước ta hiện nay. Theo thống kê của các cơ quan tư pháp, tại Toà kinh tế Toà án
nhân dân Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2005 đến nay năm nào số lượng vụ
việc năm sau cũng tăng gấp đơi năm trước. Tình hình đó ảnh hưởng đến chất lượng xét xử,
gây áp lực cao đối với các thẩm phán, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các doanh
nghiệp về mức độ an toàn pháp lý trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Thực tiễn áp dụng các hình thức giải quyết tranh chấp lựa chọn ở các nước trong
khu vực và trên thế giới cho thấy việc khuyến khích sử dụng Trọng tài trong giải quyết các
loại tranh chấp đang là một xu thế tất yếu. Ví dụ: trong năm 2007 Trung tâm trọng tài quốc
tế Singapore đã giải quyết 119 vụ tranh chấp, Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ - 621 vụ, Toà án
Trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại quốc tế (ICC) - 599 vụ, Hội đồng Trọng tài
thương mại và Kinh tế Trung quốc - 1118 vụ, Trung tâm Trọng tài quốc tế Hồng Kông 448 vụ. Ở nhiều nước và khu vực lãnh thổ đều có quy định Toà án phải từ chối thụ lý vụ
tranh chấp nếu các bên đã có thoả thuận trọng tài. Thậm chí, ở Anh, Hồng Kơng, Ấn Độ,
Ảrập-Sê út cịn có quy định rằng, kể cả trong trường hợp khơng có thoả thuận trọng tài thì
các bên tranh chấp cũng phải đưa vụ việc ra Trọng tài trước, nếu không, các bên phải có sự
lý giải thoả đáng thì Tồ án mới chấp nhận thụ lý vụ tranh chấp.
b. Quan điểm chủ đạo
Quan điểm chủ đạo của việc xây dựng Luật Trọng tài là trên cơ sở nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại, kế thừa và phát triển các
quy định phù hợp đã đi vào cuộc sống, Luật Trọng tài thương mại phải tạo cơ sở pháp lý
đầy đủ và thuận lợi cho việc lựa chọn Trọng tài để giải quyết các tranh chấp.
c. Cấu trúc của Luật
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 gồm 13 chương với 82 Điều bao gồm những
nội dung chính:
-

Về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài thương mại;


-

Về các hình thức Trọng tài;

-

Về trọng tài viên;
5


-

Mối quan hệ giữa Trọng tài và Tòa án, Viện Kiểm sát, Cơ quan thi hành án;

-

Quản lý Nhà nước về trọng tài.

3. Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Như đã nói từ đầu, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 còn khá nhiều bất cập sau
thời gian áp dụng nên Hội Luật gia Việt Nam đã điều chỉnh và đưa ra Luật trọng tài thương
mại 2010 để khắc phục các hạn chế đó.
Dưới đây chúng tơi xin tóm tắt những điểm mới cơ bản của Luật trọng Tài thương
mại 2010 để các bạn cùng thấy được sự tiến bộ và thuận lợi cho các nhà kinh doanh, các
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài trong quá trình tham gia việc tranh chấp:
- Khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối
với các tranh chấp thương mại: Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng
phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích
của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của

Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài
của các nước trên thế giới.
- Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về
các tình huống có thể làm vơ hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật TTTM giới hạn 6
tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vơ hiệu. Đặc biệt, cịn có quy định trường hợp thỏa
thuận trọng tài khơng rõ ràng thì bên khởi kiện (ngun đơn) có quyền được tự do lựa chọn
tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vơ hiệu hoặc
tình trạng khơng có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
- Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng,
mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng
hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được
quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.
Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một vị
thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn
của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định bảo vệ họ trong
các tình huống cần thiết.
6


- Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật TTTM có các
quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội
ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chun nghiệp, có chun mơn và uy tín xã
hội. Theo đó, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực
tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung
tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong
danh sách của mình. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Trọng tài viên trong trường hợp vụ tranh

chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc do Trọng tài vụ việc giải quyết đều do
các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chun nghiệp, kiến thức
chun mơn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà chun mơn nào cũng
có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ. Đó là q trình sàng lọc mang
tính xã hội.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Luật
Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam Quy định
này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM bổ sung một số điểm
mới sau đây:
+ Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho
khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh năm
2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại Trung
tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3 Luật TTTM).
+ Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng
trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng
thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
- Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngồi được mở chi nhánh, văn phịng đại
diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).
- Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được
thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời
(Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của Luật mẫu UNCITRAL
được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn.
- Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định
không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên được gửi đơn lên
Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”, bởi
vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và làm mất
7



đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các nước đều công
nhận.
- Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng là
nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước phát
triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những quy định
của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng
tài và khơng phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại Trọng
tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội
trong tố tụng trọng tài.
- Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét mối
quan hệ giữa Trọng tài với Tồ án trong tồn bộ q trình giải quyết vụ tranh chấp của
các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý
quan trọng này: xác định rõ Tịa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8
nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ,
lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác
định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài;
bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định,
thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hố nội dung
những thẩm quyền này của Tồ án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của
Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên
tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận
lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
- Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài
Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một Hội đồng
gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết định của Hội
đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71).
- Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện cho các

Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện tốt
nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội trọng tài. Hiệp hội
trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm trọng tài.
Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp
luật về hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM).

8


II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI ÁP DỤNG LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI NĂM 2010
1. Những vấn đề vể mặt pháp lý
Luật Trọng tài thương mại 2010 ra đời dựa trên cơ sở của Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003 và có tham khảo Luật mẫu. Các điều khoản được quy định trong luật đã
có những bước tiến mới so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003. Tuy nhiên, một số
vấn đề được quy định trong luật vẫn chưa được cụ thể, rõ ràng, hay một số quy định còn
gây tranh cãi khi đối chiếu với luật khác.
a. Những điều khoản gây tranh cãi


Phạm vi của Trọng tài thương mại: quá rộng nhưng lại quá hẹp:

Theo điều 2 của Luật Trọng tài thương mại thì thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
của Trọng tài bao gồm:
 Tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại: Luật Trọng tài thương mại không
đưa ra một khái niệm cụ thể nào. Luật tố tụng dân sự (Điều 29) có đưa ra Tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Vì trong luật Việt Nam, chưa có quy định nào về
tranh chấp thương mại, nên có thể coi đây là định nghĩa có thể áp dụng. Tuy nhiên, nếu
theo định nghĩa này và theo quy định về Thoả thuận trọng tài theo Luật này, thì lại khơng

hề phân định loại tranh chấp theo quan hệ hợp đồng hay ngoài hợp đồng, điều mà Luật về
trọng tài của các nước và Luật mẫu Uncitral đều có nêu (Điều 7 khoản 1).
 Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại: Khi đưa ra quy định này, dường như Luật Trọng tài thương mại định khắc phục những
thiếu sót của tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo Bộ luật tố tụng dân sự
khi chỉ yêu cầu 1 trong các bên tranh chấp tham gia vào hoạt động thương mại. Tuy nhiên,
đây là một phạm vi rất rộng, và khi một bên hoạt động thương mại những tham gia vào
những quan hệ khơng vì mục đích lợi nhuận, và do đó bao gồm cả các tranh chấp không hề
liên quan đến thương mại như dân sự. Do đó, phạm vi của Luật Trọng tài thương mại lại
vượt quá phạm vi “thương mại” như tên gọi của Luật.
 Các tranh chấp khác theo pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài: có
thể ví dụ như các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư, tranh chấp về hàng hải, vv. Như thế
cũng đồng nghĩa với việc Luật Trọng tài thương mại một lần nữa vượt ra khỏi ranh giới
giải quyết những tranh chấp về thương mại. Đây cũng là một điểm khó giải quyết, vì khi

9


các Luật khác quy định tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, thì Luật về trọng tài
khơng thể bác bỏ quy định đó nếu khơng sửa đổi Luật tương ứng.
Nhận định: Có thể thấy, với tên gọi Luật Trọng tài Thương Mại, thì phạm vi thẩm
quyền của Trọng tài đã được mở quá rộng bao gồm cả những trường hợp tranh chấp dân sự
và các tranh chấp khác. Trong khi đó, đối với lĩnh vực thương mại, thì lại không hề quy
định rõ tranh chấp thương mại là như thế nào, nếu chỉ áp dụng theo dẫn chiếu từ Bộ luật tố
tụng dân sự thì khơng hề quy định rõ tranh chấp thương mại đó được xây dựng trên quan
hệ hợp đồng hay ngoài hợp đồng.
 Trọng tài nước ngoài:
Luật Trọng tài thương mại đã tiến bộ hơn so với Pháp lệnh trọng tài thương mại khi
dành riêng một chương cho Trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, những quy định gói gọn
trong một chương lại khơng thể giải quyết hết những vấn đề liên quan đến Trọng tài nước

ngoài. Chương XII của luật Trọng tài thương mại 2010 quy định về Tổ chức và hoạt động
của trọng tài nước ngồi tại Việt Nam. Theo quy định, thì Tổ chức trọng tài nước ngồi chỉ
được hoạt động dưới 2 hình thức là văn phòng đại diện và chi nhánh. Theo đó, sẽ khơng có
trung tâm trọng tài nước ngồi độc lập nào được thành lập tại Việt Nam. Quy định này trái
với Luật đầu tư. Theo luật Đầu tư, dịch vụ pháp lý không nằm trong những lĩnh vực đầu tư
có điều kiện hoặc cấm đầu tư. Do đó, nhà đầu tư hồn tồn có thể thành lập dưới hình thức:
100% vốn nước ngoài, liên doanh, sáp nhập, mua lại, vv. Như vậy, trong trường hợp một
nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập một trung tâm trọng tài tại Việt Nam, Luật nào
sẽ được đưa vào áp dụng?
Mặc dù trái với pháp luật trong nước, nhưng quy định này lại hồn tồn phù hợp với
WTO, vì Việt Nam khơng cam kết mở cửa trong lĩnh vực trọng tài. Và theo nghị định
108/2006/ND-CP của Chính Phủ về đầu tư, khi Việt Nam khơng cam kết thì đồng nghĩa với
việc được coi là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và các Bộ ngành sẽ đưa ra ý kiến riêng cho từng
trường hợp. Đây được coi là một điểm thiếu sót rất lớn của Pháp luật Việt Nam trong quá
trình hội nhập nói chung, khơng riêng gì đối với quy định về Trọng tài. Do đó, trường hợp
nêu trên chỉ trở thành trở ngại khi nước đó khơng phải một thành viên của WTO.
b. Những điều khoản cần làm rõ
- Điều 3: Giải thích từ ngữ. Trong điều khoản này, cụm từ “Trọng tài viên” được
giải thích là “người được các bên lựa chọn hoặc được trung tâm trọng tài hoặc tòa án chỉ
định để giải quyết tranh chấp theo quy định của luật này.” Tuy nhiên, khi áp dụng cách giải
thích này vào mục 3 điều 75 (Tổ chức trọng tài nước ngoài cử một Trọng tài viên làm
10


trưởng chi nhánh) và mục 6 điều 76 (Chỉ định Trọng tài viên để thành lập hội đồng trọng
tài theo ủy quyền của tổ chức trọng tài nước ngoài) là không hợp lý.
- Điều 20: Tiêu chuẩn trọng tài viên. Mục 1c: “Trong trường hợp đặc biệt, chun
gia có trình độ chun mơn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng
được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm trọng tài viên”. Tuy
nhiên, Luật lại chưa có quy định cụ thể về chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm thực tiễn…

là như thế nào. Ngoài ra, điều khoản này đã đưa ra những quy định khá rõ ràng về tiêu
chuẩn trọng tài viên, tuy nhiên, do luật này được áp dụng cho cả các hoạt động thương mại
quốc tế và nội địa, nên chăng cần bổ sung trình độ ngoại ngữ vào tiêu chuẩn trọng tài viên.
Hoặc trong điều 24: điều kiện và thủ tục thành lập Trung tâm trọng tài, nên đưa thêm điều
kiện phải có ít nhất 03 trọng tài viên có khả năng sử dụng ít nhất 1 ngoại ngữ, nhằm giúp
nâng cao tính thực thi của luật.
- Chương II: Thỏa thuận trọng tài. Chương này quy định một số điều liên quan tới
thỏa thuận trọng tài như hình thức thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu…
Nhưng trên thực tế vẫn tồn tại những trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng
thỏa thuận này khơng cịn giá trị nữa, chỉ đến khi trung tâm trọng tài từ chối giải quyết thì
các bên mới biết. Có thể hình dung qua một trường hợp cụ thể, rằng các bên đã có thỏa
thuận tại Hợp Đồng nhưng tại Phụ lục lại lựa chọn Tòa án giải quyết hoặc tại thời điểm các
bên ghi lời khai khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện; rằng chọn Tịa án, khi đó, theo quy
định của Bộ luật Tố Tụng Dân Sự hiện hành, vụ kiện không thuộc thẩm quyền của Trọng
tài mà thuộc về Tòa án.
- Điều 29: Chấm dứt hoạt động của Trung tâm trọng tài. Điều khoản này có quy
định việc thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm trọng tài. Tuy
nhiên, Luật chưa đề cập cụ thể trong những trường hợp như thế nào thì các trung tâm trọng
tài bị thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký kinh doanh. Đặc biệt, tại mục 2, “Chính
phủ quy định chi tiết…” nhưng không thấy dẫn chiếu tới luật nào quy định trường hợp này.
- Điều 30: Đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo. Mục 3, kèm theo đơn khởi kiện,
phải có thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu có liên quan, chưa quy
định rõ thỏa thuận trọng tài ở đây phải nộp bản chính hay bản sao. Cần làm rõ thêm vấn đề
này nhằm tránh việc bộ hồ sơ bị trả lại, gây lãng phí thời gian của các bên.
- Điều 38: Thương lượng trong tố tụng trọng tài. Điều khoản này có quy định
“trong trường hợp các bên tự thỏa thuận được với nhau chấm dứt việc giải quyết tranh chấp
thì có quyền u cầu Chủ tịch Trung tâm trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh
chấp” nhưng lại khơng đề cập tới vấn đề chi phí phát sinh. Trong trường hợp có một số chi
11



phí phát sinh, nhưng về sau các bên lại thương lượng được và khơng dùng trọng tài nữa, thì
những chi phí này sẽ được phân bổ như thế nào, các bên sẽ chịu chi phí ra sao…
- Chương VII: Biện pháp khẩn cấp tạm thời. Chương này quy định một số vấn đề
liên quan tới việc áp dụng và thực thi biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhưng lại chưa quy
định rõ cho trường hợp sử dụng trọng tài vụ việc. Điều 30, Đơn khởi kiện và các tài liệu
kèm theo, mục 1 quy định “Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ
việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn” và điều 41, Thành lập Hội
đồng trọng tài vụ việc, mục 1 quy định “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận
được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho
nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn” Sau khi biết được hội đồng trọng tài viên
thì bên nguyên đơn mới có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy
nhiên, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện, bị đơn đã có thể
tẩu tán tài sản của mình. Trong trường hợp này, nguyên đơn sẽ phải nhờ tới Tịa án có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, trong điều 53, khái niệm tịa án
có thẩm quyền lại chưa được làm rõ.
- Điều 49: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Mục 5 điều khoản này có quy định “Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bên yêu cầu
mà gây thiệt hại cho bên yêu cầu, bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì người bị thiệt hại có
quyền khởi kiện ra Tịa án để yêu cầu giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự.” nhưng lại không quy định rõ người bị thiệt hại sẽ kiện ai và ai sẽ bồi
thường. (hội đồng trọng tài???)
- Điều 50: Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài.
Mục 3 điều khoản này quy định “… bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải
gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Hội đồng trọng tài ấn định
tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
khơng đúng gây ra để bảo vệ lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời.” Tuy nhiên, luật chưa giải thích rõ cách tính “giá trị thiệt hại có thể phát sinh”. Vì
vậy, khi đưa vào thực thi, Luật sẽ gây ra khó khăn cho các bên khi áp dụng biện pháp khẩn

cấp tạm thời, và làm cho biện pháp này ít được sử dụng do quá phức tạp.
- Chương XII: Tổ chức và hoạt động của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Chương này quy định và điều chỉnh hoạt động của hoạt động trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam. Tuy nhiên, Luật lại chưa quy định rõ cơ quan nào sẽ tiếp nhận hồ sơ hình thành, hay
giám sát hoạt động, hay việc rút giấy phép thành lập… của các chi nhánh, văn phòng đại
12


diện này. Ngoài ra, thẩm quyền của trọng tài nước ngồi, hay việc cơng nhận phán quyết
của trọng tài nước ngoài cũng chưa được quy định cụ thể trong chương này.
2. Những vấn đề về mặt thực thi
Có rất nhiều những vấn đề cần bàn và cân nhắc sau khi bất cứ một văn bản pháp luật
nào đã và sắp ban hành. Luật TTTM 2010 sắp đến ngày có hiệu lực và đó cũng là thách
thức cho sự tồn tại của Luật trong tương lai. Đề cập đến các vấn đề tồn tại về mặt thực thi
Luật và các văn bản pháp lý khác, ở đây chúng tôi đưa ra một vài thực trạng đã tồn tại để
cùng nhìn lại cũng như có đánh giá vắn tắt và cũng xin được suy ngẫm về độ “Sống”của
Luật TTTM 2010.
a. Thực trạng thứ nhất
Qua 6 năm thực hiện, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 đã bộc lộ khơng ít
những hạn chế và bất cập. Th eo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phịng Thương
mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VIAC):

Số vụ xét xử năm 2007
TAND TP. Hà Nội
TAND TP. HCM
VIAC

9000 vụ
42.000 vụ
30 vụ / 2007

58 vụ / 2008

Vụ xử về tranh
chấp kinh tế
300 vụ
1000 vụ

Tính trung bình
01 Thẩm phán xử/vụ/năm
30 vụ / năm
50 vụ/ năm
0.25 vụ / năm

(Nguồn />* Đánh giá và Dự đoán hiệu ứng thưc thi đối với Luật TTTM 2010:
- Đối với PLTT 2003: Từ bảng thống kê trên cho thấy trọng tài ít được các bên sử
dụng phổ biến ở Việt Nam là do chưa có những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc thực hiện
một chính sách nhất quán khuyến khích sử dụng trọng tài; trong các quy định của Pháp luật
hiện hành cịn có nhiều rủi ro cho việc huỷ phán quyết trọng tài và tạo tâm lý e ngại về hiệu
lực của phán quyết trọng tài. Những yếu tố đó đã làm cho độ tin cậy của các bên tranh chấp
vào trọng tài chưa chắc chắn, chưa cao.
- Đối với Luật TTTM 2010: Như đã xem xét tại phần I, Luật TTTM 2010 có nhiều
điểm mới, tiến gần đến các chuẩn mực quốc tế….và sẽ có hiệu lực từ 1/1/2011. Một câu
hỏi đặt ra, liệu sau 5 năm thực hiện, con số thơng kê cho được có khả quan hơn hay khơng?
Luật có trở thành một cơng cụ hữu hiệu, gần gũi được các tổ chức, doanh nghiệp cá nhân
tin dùng hay khơng? Kết quả có thể khả quan hơn nhưng khả quan hơn tại mức như thế nào
đó cịn là vấn đề để mở.
13


b. Thực trạng thứ hai

Theo báo cáo của VIAC: “…chỉ riêng trong năm 2007, trong số 30 vụ kiện mà
VIAC – Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam - nhận được có tới 17 vụ có yếu tố nước
ngồi. Trong đó, phần lớn nguyên đơn là DN Việt Nam (chiếm tới 82%). Phân tích của
VIAC cho thấy, DN Việt Nam đứng đơn kiện là do còn “non” khi tiến hành ký kết hợp
đồng. Trình độ hiểu biết pháp luật trong nước và quốc tế của cộng đồng DN còn nhiều hạn
chế. Hầu hết tranh chấp phát sinh do không mở L/C (một loại chứng từ thanh toán quốc tế)
đúng hạn, phạt hợp đồng do không giao hàng, giao hàng chất lượng kém hoặc giao hàng
sai xuất xứ. Ngoài ra là các lỗi liên quan tới kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương…”
Cũng theo Hà Nội Mới 02/2009: “…Trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp
(DN) Việt Nam phải đối mặt với nhiều vụ tranh chấp thương mại, đầu tư, nội dung tranh
chấp ngày càng phức tạp. Không chỉ mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để giải
quyết, nhiều DN còn bị thua thiệt do thiếu kinh nghiệm và am hiểu luật pháp quốc tế… DN
Việt Nam chưa mấy mặn mà với Trọng tài Thương mại…”
* Đánh giá và Dự đoán hiệu ứng thưc thi đối với Luật TTTM 2010:
- PLTT 2003: Kết quả báo cáo của VIAC cũng như những phân tích đánh giá trên
cho thấy một điều: Khơng chỉ PLTT 2003 bộc lộ khơng ít những hạn chế và bất cập mà
hơn thế nữa chính những chủ thể như các tổ chức, doanh nghiệp cũng rất còn “Non” trong
chính nghiệp vụ của mình. Chính vì vậy, khi dẫn đến giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế thì thiếu kinh nghiệm và trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế.
- Luật TTTM 2010: Khi có một bộ Luật mới ra đời, nhiều ưu việt hơn, hoàn thiện
hơn mọi hạn chế và bất cập của PLTT 2003 liệu có là tối ưu cho các daonh nghiệp, tổ chức,
người tiêu dùng khơng? Trong khi chính các chủ thể đó vẫn tiếp tục non kém về kiến thức
pháp luật thương mại quốc tế để rồi luôn mắc những lỗi rất cơ bản trong các hoạt động
ngoại thương dẫn đến xảy ra tranh chấp rồi cần đến Trọng tài.
c. Thực trạng thứ ba
- Theo VOVNEWS: Tại hội thảo giải quyết tranh chấp kinh tế, do Hiệp hội
doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam và Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch-Đầu tư)
tổ chức. Ơng Hồng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ Tư pháp đã nhấn mạnh rằng, đã từ lâu
doanh nghiệp Việt Nam khơng mặn mà với trọng tài. Thậm chí, có nhiều doanh nghiệp
trong nước cịn khơng biết đến sự có mặt của các trung tâm trọng tài. Bởi vậy, mỗi năm

chỉ có 20-30 vụ tranh chấp kinh tế được gửi đến Trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam.

14


Về mặt cơ sở lý luận: Việt Nam đã có Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003
và đến nay có Luật TTTM 2010 .
Về mặt thực tiễn: Các tổ chức trọng tài thương mại đã được thành lập và ngày càng
phát triển. Đó là Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) thành lập 1993; Trung tâm
Trọng tài Thương mại Hà Nội; Trung tâm Trọng tài Viễn Đông; Trung tâm Trọng tài
Thương mại Quốc tế Á Châu (TP.Hà Nội), Trung tâm Trọng tài Thương mại TPHCM;
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Thái Bình Dương (TP.HCM); Trung tâm Trọng tài Thương
mại Cần Thơ (TP.Cần Thơ).
Trên thực tiễn những tổ chức trọng tài này chủ yếu giải quyết các tranh chấp về hợp
đồng thương mại quốc tế, còn với những tranh chấp về hợp đồng thương mại trong nước thì rất
hạn chế, nguyên nhân do đâu xảy ra tình trạng nêu trên, tại sao doanh nghiệp Việt Nam chưa
thật sự “mặn mà” với việc đem tranh chấp của mình ra giải quyết tại trọng tài, theo thống kê
có đến hơn 95 % tranh chấp hợp đồng thương mại trong nước được đưa ra Tịa án nhân dân có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
* Đánh giá và Dự đoán hiệu ứng thưc thi đối với Luật TTTM 2010:
- Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp: Doanh nghiệp trong nước và nước
ngồi có sự nhận thức khác nhau khi lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Trong
hợp đồng thương mại hiện nay về điều khoản giải quyết tranh chấp, các doanh nghiệp trong
nước thì thường hay chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là cơ quan Tòa án nhân dân có
thẩm quyền vì các doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng trọng tài khi giải quyết tranh
chấp hợp đồng, họ cho rằng quyết định của Tịa án có giá trị pháp lý cao hơn quyết định
của trọng tài; họ chưa tin lắm về hiệu lực thi hành các quyết định trọng tài và do họ chưa
nhận biết được tính ưu việt hơn của phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài so với
phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tịa án.
Ngược lại các doanh nghiệp nước ngồi khi ký kết hợp đồng mua bán hay cung cấp

dịch vụ với các doanh nghiệp trong nước thì thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài nhiều hơn hình thức giải quyết tranh chấp bằng Tịa án vì họ đã nhận
thức đầy đủ các ưu thế của Trọng tài : giải quyết tranh chấp nhanh về hiệu lực chung thẩm
của quyết định trọng tài; được quyền lựa chọn trọng tài viên có chun mơn giải quyết vụ
tranh chấp; phương thức giải quyết tranh chấp khơng cơng khai nên bí mật tranh chấp được
giữ kín thơng tin tranh chấp rất hạn chế bị đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng. . .
nhưng họ lại lựa chọn trọng tài nước ngoài nhiều hơn là trọng tài Việt Nam,chỉ một số ít
mới lựa chọn sử dụng Tịa án khi giải quyết tranh chấp.
15


- Nguyên nhân từ phía các tổ chức trọng tài thương mại: Song song với nguyên
nhân hạn chế từ phía các doanh nghiệp nguyên nhân hạn chế từ phía các tổ chức trọng tài
thương mại cũng rất quan trọng làm cho các doanh nghiệp ngày càng nhạt nhẻo hơn với
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nó được thể hiện khá rõ nét về sự yếu
kém của các tổ chức trọng tài trong điều hành hoạt động giải quyết tranh chấp và sự chênh
lệch về kiến thức chuyên môn và kỹ năng tố tụng trọng tài của một số trọng tài viên.
- Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài.
+ Hệ thống tổ chức các cơ quan trọng tài trên toàn quốc của nước ta còn quá thưa
thớt: Trên cả nước chỉ mới tổ chức được 8 trung tâm trọng tài với tổng số trọng tài viên
chưa đến 150 trọng tài viên. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, công tác tuyên truyền của các
trung tâm trọng tài còn sơ sài.
Khảo sát mới đây cho thấy:
+ 75% ý kiến cho rằng cần thiết phải thành lập các trung tâm trọng tài.
+ 21% trung tâm trọng tài chưa có trụ sở,
+ 56% đã có trụ sở nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, 23% đã có và đáp ứng yêu cầu.
+ 8% trung tâm trọng tài có tổ chức hệ thống lưu trữ và đáp ứng được yêu cầu,
+ 69% trung tâm đã có hệ thống lưu trữ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu,
+ 23% hồn tồn chưa có hệ thống lưu trữ hồ sơ vụ án.
(Nguồn />- Cách giải quyết bất cập của một số Trung tâm Trọng tài: Quy trình và thủ tục tiếp

nhận và thụ lý hồ sơ của một số trung tâm trọng tài vẫn còn nhiều vấn đề bất cập
- Sự chênh lệch về kiến thức chuyên môn và kỹ năng tố tụng trọng tài của một số
trọng tài viên làm bộc lộ tính khơng chun nghiệp của các trọng tài viên. Bên cạnh những
trọng tài viên có chuyên mơn nghiệp vụ pháp lý thì cịn có những trọng tài viên chỉ giỏi về
chuyên môn nhưng thiếu kiến thức pháp luật về trọng tài và kỹ năng thao tác trong tố tụng
trọng tài.
Khảo sát mới đây cho thấy:
+ 72,6% ý kiến cho rằng các trọng tài viên hiện nay thiếu kỹ năng giải quyết tranh
chấp,
+ 65% cho rằng thiếu số lượng trọng tài viên,
16


+ 51,1% cho rằng trọng tài viên thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp,
+ 44,7% cho rằng thiếu trình độ chun mơn và đặc biệt có đến,
+ 44,3% cho rằng các trọng tài viên hiện nay thiếu kiến thức pháp luật.
(Nguồn />- Khả năng viết phán quyết của các trọng tài viên còn yếu và thiếu chặt chẽ
Khi khảo sát một số quyết định trọng tài cho thấy một số trọng tài viên viết quyết
định trọng tài còn thiếu chặt chẽ; từ lập luận nhận định về thẩm quyền, về thỏa thuận trọng
tài, về hành vi vi phạm của các bên,lý luận chấp nhận hoặc bác các yêu cầu của các bên
chưa đảm bảo tính lý luận và pháp lý, dẫn đến ra các phán quyết tun xử khơng chính xác;
khơng rỏ ràng, không chặt chẻ, không chuyên nghiệp và không đủ sức thuyết phục các bên.
Cho đến khi quyết định trọng tài có hiệu lực thi hành thì cơ quan thi hành án cũng không
thể thi hành được trong thực tế.

17


III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐƯA LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
NĂM 2010 VÀO THỰC TIỄN

1. Giải pháp khắc phục những vấn đề về mặt pháp lý
a. Giải pháp cho những điều khoản gây tranh cãi
Trong bối cảnh cơ sở pháp lý của Việt Nam đều chưa hoàn thiện và đang trong quá
trình sửa đổi, Việt Nam nên quy định rõ ràng các định nghĩa liên quan trong văn bản nhất
định, tránh trường hợp dẫn chiếu/sử dụng những định nghĩa trong các luật đã ban hành
trước đó và khơng cịn phù hợp với bối cảnh hiện hành. Đề xuất đối với Luật TTTM:
- Hướng dẫn và phân loại rõ các loại tranh chấp sẽ được giải quyết bằng Trọng tài:
quy định về tranh chấp thương mại theo quan hệ hợp đồng và ngoài hợp đồng, các tranh
chấp một trong hai bên hoạt động thương mại nhưng phải vì mục đích lợi nhuận.
- Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, và có nhiều ưu điểm
so với Tồ án, thì việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài sẽ làm giảm bớt gánh
nặng của các cơ quan Tư pháp truyền thống như Toà án. Do đó, trong tương lai, nên có một
Luật Trọng Tài nói chung, áp dụng cho tất cả các tranh chấp phát sinh. Đây cũng là điều
mà nhiều nước trên thế giới áp dụng.
- Mặc dù Việt Nam không hề cam kết mở cửa lĩnh vực này nhưng trong bối cảnh
hội nhập, Việt Nam nên có chính sách mở hơn nữa đối với lĩnh vực giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nói riêng và về mặt pháp lý nói chung.
Ngồi ra, cần rà soát lại thật kỹ hệ thống luật hiện hành đang được áp dụng tại Việt
Nam, đặc biệt là các văn bản luật được dẫn chiếu tới luật Trọng tài thương mại 2010. Trên
cơ sở đó, các nhà làm luật cần khắc phục, sửa chữa những thiếu sót cịn tồn tại trong luật
Trọng tài thương mại 2010, nhằm làm cho hệ thống luật pháp được thống nhất.
b. Giải pháp cho những điều khoản cần làm rõ
Với một số những vấn đề còn tồn tại về mặt pháp lý nêu trên, nhóm nghiên cứu thấy
rằng nhà nước cần ban hành thêm một nghị định hướng dẫn thi hành nhằm giải thích rõ
hơn về những điểm còn chưa sáng tỏ, cũng như đưa ra những hướng dẫn cụ thể hơn để các
doanh nghiệp có khả năng thực thi Luật Trọng tài thương mại hiệu quả hơn.
Ngoài ra, các nhà làm luật cũng cần nghiên cứu kỹ hơn về Luật mẫu, hay luật tương
tự của một số quốc gia tiên tiến, nhằm đưa luật Việt Nam tiếp cận gần hơn với chuẩn mực
của quốc tế.


18



×