ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
CÔNG TÁC XÃ HỘI HỖ TRỢ NẠN NHÂN
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN KIẾN THỤY
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
CÔNG TÁC XÃ HỘI HỖ TRỢ NẠN NHÂN
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN KIẾN THỤY
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Xác nhân của Chủ tịch Hội đồng Xác nhận Giáo viên hƣớng dẫn
GS.TS. Đặng Cảnh Khanh GS.TS. Lê Thị Quý
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả được nêu trong Luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên thực hiện Luận văn
Nguyễn Thị Huyền Trang
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy trong chương trình cao học Công tác xã hội khóa 2011 – Trường Đại học
Khoa học Xã hội và nhân văn Hà Nội, những người đã giúp tôi có nhiều kiến
thức về Công tác xã hội làm nền tảng cho tôi thực hiện Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Lê Thị Quý đã quan tâm , nhiệt tình
hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ chính quyền, Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam huyện, các tổ chức đoàn thể và nhân dân tại huyện Kiến Thụy thành
phố Hải Phòng đã thu xếp thời gian cung cấp thông tin và hợp tác với tôi trong
quá trình thực hiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên
luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những góp ý của quý thầy cô
và các anh chị học viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
6
4. Ý nghĩa của nghiên cứu
7
5. Câu hỏi nghiên cứu
7
6. Giả thuyết nghiên cứu
8
7. Phạm vi nghiên cứu
8
8. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
8
9. Phương pháp nghiên cứu
8
NỘI DUNG CHÍNH
11
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU
11
1.1. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Thuyết hệ thống sinh thái
1.1.2. Thuyết nữ quyền
1.1.3. Phương pháp Công tác xã hội nhóm
11
11
14
23
1.2. Các khái niệm
25
1.2.1. Khái niệm bạo lực gia đình
1.2.2. Khái niệm nạn nhân
1.2.3. Khái niệm hỗ trợ
1.2.4.Khái niệm công tác xã hội
25
25
26
26
1.2.5. Các dạng bạo lực gia đình được xác định hiện nay
27
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
29
Chƣơng 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG
32
2.1. Khái lược về vấn đề bạo lực gia đình tại huyện Kiến Thụy
32
2.2. Các dạng bạo lực gia đình tại huyện Kiến Thụy
35
2.3. Nguyên nhân bạo lực gia đình
36
2.4. Hậu quả của bạo lực gia đình
41
2.5. Đặc điểm tâm lý của phụ nữ sống trong gia đình có chồng bạo lực tại
huyện Kiến Thụy
45
2.6. Đặc điểm của gia đình có bạo lực gia đình tại huyện Kiến Thụy
47
CHƢƠNG 3. ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT VÀ KỸ NĂNG CỦA CÔNG
TÁC XÃ HỘI TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHỤ NỮ NẠN NHÂN BẠO LỰC
GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
49
3.1. Mục đích của NAV
49
3.2. Các hoạt động trợ giúp
50
3.3. Bài học kinh nghiệm
55
3.4. Can thiệp với nhóm nạn nhân bạo lực gia đình
57
3.5. Kết quả ban đầu của mô hình nhìn từ góc độ công tác xã hội
65
KẾT LUẬN
71
KHUYẾN NGHỊ
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
74
PHỤ LỤC
76
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù của xã hội, gia đình mang lại sự
êm ấm, hạnh phúc cho mỗi người và giúp xã hội ổn định. Mỗi chúng ta ai cũng ý
thức được giá trị của gia đình mang lại, đó là nơi giúp cân bằng tâm lý, tìm lại
được những giây phút thư giãn trong sự ấm áp, thân thương của gia đình. Dù
chúng ta có đi đâu, làm công việc gì thì cũng hướng về nơi có gia đình mình
đang ở đó.
Với ý nghĩa như vậy, nhưng không phải ai cũng ý thức được giá trị của
gia đình, có những người đã xem nhẹ vai trò của tổ ấm gia đình, có những hành
vi đi ngược lại với đạo lý của dân tộc ta. Đó có thể là hành vi chồng đánh vợ, vợ
mắng chửi chồng, hành hạ con cái và người già… Những hành vi ấy làm băng
hoại đi giá trị đạo đức, phá vỡ tính cố kết của gia đình. Bạo lực gia đình đang là
một vấn nạn đối với xã hội.
Ngày 14/5/2014, Ngân hàng Thế giới công bố báo cáo với nhan đề “Tiếng
nói và Năng lực” cho biết, hơn 700 triệu phụ nữ trên toàn thế giới là nạn nhân
của bạo lực gia đình và phần lớn trong số họ hầu như không có khả năng bảo vệ
chính bản thân mình. Báo cáo cũng cho biết tình hình bạo lực gia đình nghiêm
trọng nhất xảy ra tại khu vực Nam Á và châu Phi, nơi có hơn 40% phụ nữ từng
là nạn nhân bạo lực gia đình. Tình trạng bị bạo hành cùng với những thua thiệt
mang tính hệ thống mà phụ nữ phải chịu đựng đang là những nhân tố quan trọng
cản trở sự tiến bộ và khiến hàng trăm triệu phụ nữ rơi vào cảnh đói nghèo.
Theo Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam
được chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc công bố ngày 25/10/2010, cứ ba
phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người chiếm 34% cho
biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có
2
hoặc từng có gia đình hiện đang phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này
chiếm 9%. Nếu xem xét đến cả ba hình thức bạo hành chính trong đời sống vợ
chồng là thể xác, tình dục và tinh thần thì có 58% phụ nữ Việt Nam cho biết đã
từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình kể trên. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng lạm dung nhiều hơn gấp ba lần
so với khả năng họ bị người khác lạm dụng. Tại một số vùng cứ 10 người phụ
nữ thì có 4 người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Ở
vùng Đông Nam Bộ, 42% phụ nữ cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành
thể xác hoặc tình dục.
Huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng là một huyện thuần nông, kinh tế
còn nghèo nàn, vì vậy đời sống nhân dân khó khăn và các tệ nạn xã hội như bạo
lực gia đình vẫn còn diễn ra. Trong khi đó công tác xã hội chưa được chú ý phát
triển cho nên có rất nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, ví dụ như việc cứu trợ các nạn
nhân bạo lực gia đình, giúp đỡ các phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ
côi, người già cô đơn Nằm trong tình hình chung của các địa phương trong cả
nước, sự hiểu biết về công tác xã hội và hoạt động theo lý thuyết và kỹ năng của
công tác xã hội ở huyện Kiến Thụy còn sơ sài. Nhiều hoạt động có mang tính
chất của công tác xã hội nhưng chưa được coi là công tác xã hội đã cản trở việc
thực hiện nó và đóng góp cho hoạt động công tác xã hội nói chung. Chẳng hạn
như việc hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình đã được các tổ hòa giải, Hội phụ nữ,
Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội khác ở địa phương đã làm nhưng chưa
được tổng kết. Vì lẽ đó tôi chọn đề tài“Công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân bạo lực
gia đình tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng”. Với hy vọng qua nghiên
cứu sẽ đem những ánh sáng của lý thuyết công tác xã hội và kỹ năng thực hành
của no vào những công việc cụ thể của địa phương và cũng từ những kinh
nghiệm thực tế nghiên cứu đề tài sẽ đóng góp những kinh nghiệm của huyện
Kiến Thụy vào trong lý thuyết và kĩ năng công tác xã hội của cả nước.
3
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
Hiện nay, những nghiên cứu dưới góc độ công tác xã hội về bạo lực gia
đình còn thiếu. Mà các tác phẩm chủ yếu về bạo lực gia đình là đứng trên góc độ
xã hội học và phụ nữ học, chúng tôi xin dẫn ra đây một số tác phẩm tiêu biểu :
Tác phẩm Bạo lực gia đình - Một sự sai lệch giá trị của Lê Thị Quý và
Đặng Vũ Cảnh Linh năm 2007 - là tác phẩm đã xuất bản rất sớm của Việt Nam
và đưa ra 03 mô hình can thiệp của các tổ chức, trung tâm nghiên cứu giới và
phát triển, tổ chức NAV. Trong đó có nêu một phần rất quan trọng về công tác
hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình dưới góc độ cộng đồng (Trung tâm nghiên cứu
giới và phát triển, tổ chức NAV) ; y tế (CIDSE). Đây là những kinh nghiệm đầu
tiên quý báu cho công tác xã hội trong việc cứu trợ nạn nhân như lập các ban
quản lý phòng chống bạo lực gia đình, đội can thiệp nhanh và lập các địa chỉ tin
cậy bằng sự hỗ trợ của cộng đồng
Tác phẩm „„Nỗi đau thời đại‟‟ của Lê Thị Quý năm 1996 là tác phẩm đi
sâu phân tích vấn đề bạo lực gia đình dưới hai dạng „„bạo lực không nhìn thấy
được‟‟ và „„bạo lực nhìn thấy được‟‟. Với thiên chức nhiều người phụ nữ chỉ là
cái bóng của chồng con, đã quên đi những ước mơ của đời mình trong gian bếp,
tã lót, chậu quần áo. Rất nhiều phụ nữ không chỉ bị đanh đập ngược đãi mà còn
là nạn nhân của „„bạo lực không nhìn thấy được‟‟. Tác phẩm đã giúp cho nhiều
nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội sử dụng hai dạng bạo lực vào công việc
của mình.
Báo cáo Nghiên cứu đa quốc gia của WTO về sức khỏe phụ nữ và bạo lực
gia đình đối với phụ nữ Việt Nam năm 2010. Trong đó có nêu lên một số kinh
nghiệm chăm sóc sức khỏe phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Dự án Nâng cao Bình đẳng giới – Hạn chế bạo lực gia đình của tổ chức
Bắc Âu trợ giúp Việt Nam (NAV) tại huyện Kiến Thụy năm 2010 – 2012. Là dự
án tiếp nối của dự án tại Huế của tổ chức này và những kinh nghiệm tại Huế
4
trong đó cứu trợ nạn nhân đã và đang được thực hiện ở Kiến Thụy là thuận lợi
cho đề tài đóng góp thực hiện dự án.
Công trình nghiên cứu của GS.TS Bùi Ngọc Hoàn của trường Đại học
Ternessee ở Knoxvill đã viết: „„Bạo hành gia đình không dành riêng cho một xã
hội nào, tất cả mọi nơi trên thế giới đều có vấn nạn này kể cả Hoa Kỳ nơi sự can
thiệp của chính quyền và của pháp luật được xem là rất tích cực và cương quyết
từ 20 năm qua. Nhưng với người Việt di dân tại Mỹ thì nguyên do chủ yếu là
nhiều người không biết luật pháp rất nghiêm khắc với người vi phạm‟‟ (GS.TS.
Bùi Ngọc Hoàn viết trong bản phúc trình). Công trình nghiên cứu thực hiện năm
2000 trong cộng đồng người Việt tại quận Cam, Houston, Boston và Lansing
(Michigan) của GS.TS. Bùi Ngọc Hoàn cho thấy phần lớn người Việt (97%) đều
biết rõ luật pháp cấm đoán nạn bạo hành nhưng chỉ có một số ít (64%) biết rằng
nếu vi phạm sẽ bị truy tố ra tòa, bị án tù, bị ghi vào hồ sơ tư pháp hay có thể bị
trục xuất nếu không có quốc tịch.
Công tác phòng chống bạo lực gia đình – tài liệu dành cho học viên
ngành hành pháp và tư pháp Việt Nam. Tài liệu này được xây dựng thử nghiệm
và chỉnh lý trong khuôn khổ dự án của cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm
liên hiệp quốc (UNODC). Tăng cường năng lực cho các cơ quan hành pháp và
tư pháp chống bạo lực gia đình ở Việt Nam. Dự án nhằm đóng góp cho mục tiêu
phòng ngừa bạo lực gia đình đối với phụ nữ một cách hiệu quả thông qua tăng
cường năng lực cho các cơ quan hành pháp và tư pháp. Trên cơ sở mục tiêu của
dự án, lực lượng công an và tư pháp sẽ được tập huấn về nguyên tắc bình đẳng
giới, các đặc điểm của bạo lực gia đình và phương pháp thực hiện tốt nhất để áp
dụng đối với nạn nhân, người làm chứng và thủ phạm. Mục tiêu của tài liệu này
là tăng cường hiểu biết cho cán bộ công an, ủy ban nhân dân, các cơ quan điều
tra, viện kiểm soát và tòa án về động cơ của bạo lực gia đình nguyên nhân gốc rễ
của bạo lực gia đình và khái niệm về bình đẳng giới. Bên cạnh đó, giới thiệu đến
cán bộ cảnh sát và tư pháp các luật của Việt Nam và chuẩn mực quốc tế liên
5
quan đến những vấn đề chính trong việc giải quyết bạo lực gia đình, nhất là bạo
lực đối với phụ nữ trong gia đình. Tài liệu tập trung vào bạo lực đối với phụ nữ
trong quan hệ gia đình và quan hệ tình cảm, bao gồm bạo lực từ chồng hoặc bạn
tình, chồng cũ hoặc bạn tình cũ, đồng thời gồm cả bạo lực từ các thành viên
khác trong gia đình như con trai, bố mẹ chồng, hoặc những người thân khác.
Báo cáo „„Pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ở Singapore nhìn từ
góc độ bảo vệ quyền của phụ nữ‟‟ của TS. Nguyễn Tuyết Mai, giảng viên Khoa
Luật Hình sự trường Đại học Luật Hà Nội được đăng trên tạp chí Luật học số 2
năm 2010. Báo cáo đã đưa ra được thực trạng bạo lực gia đình từ năm 1995 có
3639 vụ đến năm 2008 có 338 vụ. Đó là kết quả từ những nỗ lực đáng kể của
phong trào cải cách pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Singapore.
Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến Điều lệ phụ nữ (Women‟s Charter) được thông
qua vào năm 1961 để bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em gái ở Singapore.
Toàn bộ nội dung của Điều lệ được đưa vào bộ Luật hình sự thành chương 353
của bộ Luật. Điều lệ phụ nữ là cơ sở pháp lý cho sự bình đẳng giữa vợ và chồng
thông qua các nội dung cơ bản sau: quy định chế độ đa thê là bất hợp pháp; công
nhận quyền người vợ được li thân với chồng; quy định sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ cho hai vợ chồng trong việc quản lí gia đình và con cái; quy định nghĩa
vụ của người chồng trong việc cấp dưỡng cho vợ và con cái của mình trong thời
kì hơn nhân và sau khi li hôn; quy định quyền của người chồng hoặc vợ khi li
hôn được chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân; cho phép một bên là chồng
hoặc vợ bị đánh đập được bảo vệ khỏi thủ phạm; quy định chế tài cho hành vi
tội phạm đố với phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh đó, tác phẩm đề cập đến những nỗ
lực giải quyết vấn nạn bạo lực gia đình tại Singapore.
Tài liệu Bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình của TS Vũ
Mạnh Lợi viết năm 2007 được Ban Gia đình xã hội, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam xuất bản với sự tài trợ của UNFPA và SDC. Tài liệu đề cập đến vấn đề giới
ở Việt Nam hiện nay. Bình đẳng giới có nguồn gốc lịch sử, văn hóa, kinh tế và
6
xã hội phức tạp. Bất bình đẳng giới là vấn đề của toàn cầu. Chưa có nước nào
xóa bỏ được hoàn toàn bất bình đẳng giới dù nhiều nước có cam kết chính trị
mạnh mẽ về vấn đề này. Việt Nam là một nước nghèo song có tình trạng bình
đẳng giới tốt hơn rất nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
Việt Nam là nước nghèo đang trên đà phát triển trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nhân dân Việt Nam, cả nam và nữ đang có nhiều khó khăn, thách
thức và cả các cơ hội trong quá trình phát triển. Nhiều nhu cầu bức xúc của phụ
nữ cũng là những bức xúc chung của nam giới. Do nhận thức xã hội về bình
đẳng giới có nhiều thay đổi trong 10 năm qua, càng ngày chúng ta càng nhận ra
nhiều điều không công bằng giữa nam và nữ mà trước đây nhiều người cho là
bình thường. Trong nhiều lĩnh vực phụ nữ chịu thiệt thòi hơn nam giới một cách
không công bằng do tình trạng bất bình đẳng giới trong cả suy nghĩ và hành
động của nhiều người vẫn còn tồn tại dai dẳng. Tài liệu chỉ ra hạn chế ở những
vấn đề thực tế mà tác giả thấy bất bình đẳng giới đang là trở ngại cho sự phát
triển của phụ nữ chứ không đưa ra những nhận định toàn diện về cả thành tựu và
thách thức. Những bất bình đẳng giới cũng là trở ngại cho sự phát triển chung
của xã hội do nó đã hạn chế sự đóng góp tích cực và sáng tạo của các thành viên
nữ trong xã hội vào sự nghiệp chung. Nói cách khác, xóa bỏ bất bình đẳng giới
chẳng những đem lại lợi ích cho phụ nữ, mà còn đem lại lợi ích cho xã hội, kể cả
nam giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích:
Phân tích thực trạng bạo lực gia đình và hoàn cảnh của phụ nữ nạn nhân ở
huyện Kiến Thụy và công tác cứu trợ nạn nhân đang được thực hiện tại
địa bàn.
Ứng dụng về lý thuyết và kỹ năng của công tác xã hội hỗ trợ cho nạn
nhân.
7
Trên cơ sở nghiên cứu đưa ra các giải pháp để phát triển công tác xã hội
trong việc hỗ trợ nạn nhân.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tiến hành phỏng vấn xã hội học làm rõ thực trạng bạo lực gia đình và
hoàn cảnh của phụ nữ nạn nhân ở huyện Kiến Thụy và công tác cứu trợ
nạn nhân đang thực hiện tại địa bàn.
Phân tích những mặt đạt được và những mặt còn hạn chế của các giải
pháp hiện hành.
Lập nhóm nạn nhân và thực hiện các kỹ năng công tác xã hội nhóm.
Đề ra các giải pháp.
4. Ý nghĩa của nghiên cứu:
Ý nghĩa khoa học:
Thông qua một nghiên cứu cụ thể tác giả dùng các lý thuyết về công tác
xã hội và các kỹ năng thực hành để ứng dụng vào địa bàn nghiên cứu, việc
chứng minh các kiến thức này sẽ giúp tác giả hiểu sâu sắc các lý thuyết và ứng
dụng lý thuyết vào một trường hợp cụ thể.
Sẽ giúp cho địa phương hiểu thêm vai trò của công tác xã hội trong việc
cứu trợ nạn nhân ở địa phương.
Ý nghĩa thực tế: Nghiên cứu trang bị thêm các kỹ năng về công tác xã hội
cho tác giả và góp phần phổ biến cho các tổ chức, cá nhân huyện Kiến
Thụy đang hoạt động chống bạo lực gia đình.
5. Câu hỏi nghiên cứu:
Thực trạng của bạo lực gia đình và công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân bạo
lực gia đình ở huyện Kiến Thụy như thế nào?
8
Cần phải áp dụng lý thuyết và kỹ năng gì của công tác xã hội vào việc hỗ
trợ nạn nhân của huyện Kiến Thụy.
Những bài học kinh nghiệm gì rút ra từ các hoạt động trên ?
6. Giả thuyết nghiên cứu:
Tại huyện Kiến Thụy hiện nay việc vận dụng kiến thức về công tác xã hội
để giải quyết các vấn đề hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình đã được triển
khai hay còn trong trạng thái „„vùng trắng‟‟.
Các tổ chức và cá nhân ở huyện Kiến Thụy chưa có hiểu biết đầy đủ về
công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia đình.
7. Phạm vi nghiên cứu:
Địa bàn huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
8. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình
tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
Khách thể: Phụ nữ nạn nhân, những cán bộ tổ hòa, người dân, cán bộ
NAV và cán bộ chính quyền địa phương.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp xã hội học:
Phỏng vấn sâu (định tính): Gồm 40 phỏng vấn.
Phỏng vấn là phương pháp cụ thể để thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội
học thông quan việc tác động tâm lý – xã hội trực tiếp giữa người đi hỏi và
người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ
của đề tài nghiên cứu. Kết hợp với phỏng vấn là quan sát và lắng nghe để thu
thập thông tin được chính xác, hiệu quả và khách quan hơn.
9
Đối tượng phỏng vấn
Số lượng
Nạn nhân bạo lực gia đình
12
Bố mẹ, anh chị em nạn nhân bạo lực gia đình
10
Cán bộ Hội phụ nữ
7
Cán bộ Đoàn thanh niên
2
Cán bộ chính quyền
9
Bảng hỏi (định lượng): Gồm 180 phiếu bao gồm các đối tượng sau: phụ
nữ nạn nhân bạo lực gia đình (phiếu 42); bố mẹ người thân nạn nhân bạo
lực gia đình (30 phiếu); cán bộ hội phụ nữ (18 phiếu); cán bộ y tế (18
phiếu); cán bộ đoàn thanh niên (18 phiếu); cán bộ hội nông dân (18
phiếu); cán bộ chính quyền địa phương (36 phiếu).
Phương pháp phân tích tài liệu
Phân tích tài liệu là việc xem xét các thông tin có sẵn trong các tài liệu để
rút ra những thông tin cần thiết nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Các báo cáo nghiên cứu khoa học đã được thẩm định: cụ thể là các nghiên
cứu về tình hình chung về bạo lực gia đình trên thế giới và Việt Nam, các nghiên
cứu về các việc phòng chống bạo lực gia đình, những các tiếp cận với hệ thống
dịch vụ trợ giúp của nạn nhân bạo lực gia đình đang diễn ra như thế nào.
Các báo cáo về việc thực hiện chính sách pháp luật về bạo lực gia đình,
báo cáo hoạt động về việc trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình tại Việt Nam và
các báo cáo cụ thể của địa phương.
Phương pháp công tác xã hội:
Kỹ năng Công tác xã hội nhóm:
Là một tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành viên trong nhóm được tạo
cơ hội và môi trường có các hoạt động tương tác lẫn nhau, chia sẻ những mối
quan tâm hay những vấn đề chung, tham gia vào các hoạt động nhóm nhằm
10
đạt được tới mục tiêu chung của nhóm và hướng đến giải quyết những mục
đích của cá nhân thành viên giải tỏa những vấn đề khó khăn. Trong hoạt
động công tác xã hội nhóm, một nhóm thân chủ được thành lập, sinh hoạt
thường kỳ dưới sự điều phối của người trưởng nhóm và đặc biệt là sự trợ
giúp, điều phối của nhân viên xã hội. [1.tr.34]
11
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU:
1.1. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu:
1.1.1. Thuyết hệ thống sinh thái:
Lý thuyết hệ thống được khởi xướng bởi nhà sinh học người Áo là
Ludving Von Bertalanffy (1901-1972), ông đưa ra tư tưởng Lý thuyết hệ thống
cơ thể năm 1930, chính thức viết lý thuyết hệ thống năm 1949, xuất bản lý
thuyết hệ thống tổng thể năm 1968.
W.R Ashby (1917-1999) là nhà tâm lý học người Anh. Ông viết nhập
môn điều khiển học năm 1956 với những ý tưởng từ lý thuyết hệ thống của
Bertalanffy và Wiener. Ông được xem là cha đẻ của lý thuyết hệ thống và điều
khiển học.
Novert Wiener là nhà triết học toán người Nga, gốc do Thái, nhập cư ở
Mỹ. Ông là tác giả của “Điều khiển học hay sự điều khiển và giao tiếp trên loài
và máy móc” (1948).
Claude Elwood Shannon là nhà toán học người Mỹ, ông sáng lập lý
thuyết thông tin hiện đại. Với triết lý “thông tin không phải vật chất hoặc ý
thức, thông tin là thông tin”. Ông có ước vọng trình bày lý thuyết hệ thống dưới
dạng phi toán học.
T. Parson là nhà xã hội học người Mỹ. Tác phẩm tiêu biểu là Ấn phẩm
“hệ thống xã hội”. Ông nhìn hệ thống xã hội ở 4 khía cạnh: thích ứng, đạt mục
tiêu, hội nhập và duy trì hệ thống.
Thuyết hệ thống được sử dụng trong công tác xã hội như một công cụ trợ
giúp nhân viên xã hội khi học phải sắp xếp, tổ chức những lượng thông tin lớn
thu thập được để xác định mức độ nghiêm trọng của vấn đề và tìm cách can
thiệp. Ví dụ như khi nhân viên xã hội với cá nhân/nhóm/cộng đồng với rất nhiều
12
những tác động phức tạp giữa đối tượng và những sự kiện xảy ra. Việc tổ chức
thông tin thành hệ thống sẽ giúp nhân viên xã hội nhìn nhận vấn đề sáng tỏ hơn.
Mỗi thành viên trong hệ thống gia đình đều có sự tương tác lẫn nhau, và mỗi hệ
thống gia đình lại tương tác với môi trường xã hội mà nó đang sống.
Thuyết hệ thống sinh thái là một lý thuyết rất quan trọng trong nền tảng
triết lý của ngành Công tác xã hội nó nói lên sự liên hệ giữa các hệ thống (các tổ
chức nhóm) và vai trò của cá nhân trong môi trường sống. Lý thuyết này dựa
trên giả thiết rằng, mỗi cá nhân đều trực thuộc vào môi trường và hoàn cảnh
sống. Cả cá nhân và môi trường đều được coi là một sự thống nhất, mà trong đó
các yếu tố liên hệ và trực thuộc lẫn nhau rất chặt chẽ (Compton, 1989). Trong
mỗi môi trường sinh thái, các hệ thống hoạt động vừa có tính chất riêng biệt và
phức tạp, vừa có sự trao đổi liên kết chặt chẽ giữa chúng. Để hiểu biết về một
yếu tố nào đó trong môi trường (ví dụ như một cá nhân), chúng ta phải nghiên
cứu để hiểu cả hệ thống môi trường xung quanh của nó. Vì vậy, trong công tác
xã hội bất cứ một việc can thiệp hoặc giúp đỡ một cá nhân của một tổ chức nào
đó đều có liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống đó.
Trong lý thuyết này, tất cả các vấn đề của con người phải được nhìn nhận
một cách tổng thể trong mối quan hệ với các yếu tố khác, chứ không chỉ nhìn
nhận và tác động một cách đơn lẻ. Mọi người trong hoàn cảnh sống đều có
những hành động và phản ứng ảnh hưởng lẫn nhau, và một hoạt động can thiệp
hoặc giúp đỡ với một người sẽ có ảnh hưởng đến những yếu tố xung quanh. Vì
thế, trong các hoạt động công tác xã hội, chúng ta phải nhìn vấn đề cần thay đổi
trên nhiều phương diện và ở nhiều mức độ khác nhau, trên lĩnh vực cá nhân, gia
đình, cộng đồng, xã hội và thế giới.
Môi trường bao gồm ba cấp độ:
Cấp độ vi mô là các quan hệ trực tiếp của từng cá nhân, hay nó cách khác,
nó chính là cuộc sống của cá nhân mỗi con người Ví dụ gia đình là nơi cá nhân
sinh ra và lớn lên có ảnh hưởng trực tiếp; lớp học là nơi cá nhân tham gia hàng
13
ngày để thu thập kiến thức kỹ năng; cơ quan là nơi cá nhân cống hiến sức lao
động và sự sáng tạo để khẳng định mình…
Cấp độ trung mô bao gồm hai loại: Cấp trung mô nội sinh và cấp trung
mô ngoại sinh. Cấp trung mô nội sinh: ví dụ mối liên lạc giữa gia đình và nhà
trường, gây nên sự ảnh hưởng trực tiếp tới học sinh. Cấp trung mô ngoại sinh:
Ví dụ nơi làm việc của người cha, nhưng sự kiện xảy ra tại nơi làm việc của cha
như bị sa thải, hoặc tăng lương có thể ảnh hưởng đến thái độ của anh ta với con
mình khi anh ta trở về nhà từ đó ảnh hưởng đến đứa trẻ .
Cấp độ vĩ mô: Là những yếu tố là bản chất hay quy định của xã hội, cộng
đồng có ảnh hưởng đến cá nhân nằm trong đó. Như chính sách, văn hóa, tôn
giáo, kinh tế, chính trị…đã tác động tới cuộc sống các thành viên.
Tăng cường khả năng xây dựng và giải quyết các vấn đề cho thân chủ.
Nhân viên công tác xã hội cần thể hiện vai trò: khả năng giúp đỡ; giảng giải giúp
thân chủ học các kỹ năng giải quyết vấn đề, phân loại nhận thức, đưa ra những
thông tin phù hợp thiết lập mô hình hành vi; tạo điều kiện thuận lợi cho thân chủ
bằng việc duy trì sự tự do của thân chủ về hành động từ những áp lực không phù
hợp, xác định những nhiệm vụ huy động sự trợ giúp của môi trường; làm trung
gian hòa giải; biện hộ; tổ chức như việc đưa thân chủ vào các mối tương tác với
nhau hoặc tạo dựng những mạng lưới xã hội mới.
Điểm mạnh của lý thuyết hệ thống sinh thái là tạo được một cách tiếp cận
thống nhất từ các quan điểm khác nhau của tâm lý học, xã hội và cộng đồng. Nó
mang tính tương tác giúp thúc đẩy cách hiểu về tác động giữa các cá nhân và cá
nhân với hệ thống. Bên cạnh đó, cho phép có sự tích hợp các quan điểm lý luận.
Đồng thời, định hướng cho việc đánh giá về hành vi.
Điểm hạn chế của lý thuyết hệ thống sinh thái là không mang tính mô tả,
là một lý thuyết tổng quát, khó áp dụng vào các tình huống cụ thể, là lý thuyết
có nhiều mối liên kết nhưng lại không đưa ra lý thuyết cụ thể nào để kết nối các
lý thuyết đó theo cách giải thích.
14
Có thể nói, nạn nhân của bạo lực gia đình cũng là một cá nhân trong xã
hội, chính vì vậy mà cũng chịu tác động của các tiểu hệ thống bên ngoài. Đó là
gia đình, xã hội, các tổ chức đoàn thể chính quyền, bệnh viện, tòa án…. Vận
dụng lý thuyết hệ thống đã chỉ ra mối liên kết tất yếu trong mạng xã hội giữa cá
nhân với cá nhân, với nhóm và ngược lại. Đó là mối liên hệ giữa nạn nhân bạo
lưc gia đình với người gây ra bạo lực, với gia đình, ông bà cha mẹ và ngược lại.
Trong việc hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình không thể không chú ý đến sự ảnh
hưởng qua lại đó. Tạo dựng và phát huy những tiềm năng, sức mạnh của hệ
thống sẽ tạo nên những lợi thế trong việc trợ giúp nạn nhân của bạo lực gia đình.
1.1.2. Thuyết nữ quyền:
Từ thế kỷ XVII sự biến đổi của tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở
Châu Âu, đặc biệt ở Anh đã tác động lớn đến cuộc sống của người phụ nữ xã hội
đương thời. Sự phân công lao động trong xã hội ngày càng phức tạp hơn, những
đơn vị sản xuất ngày càng lớn hơn đã làm cho phụ nữ bị loại trừ khỏi các nghề
mà trước đây họ đã từng đảm nhận như buôn bán, in ấn, chế ủ rượu bia, y học.
Thay vào đó họ bị hạn chế vào các hoạt động trong gia đình và ngay cả những
phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc cũng không ngoại lệ. Hơn nữa sau cải cách tôn
giáo, các tu viện là nơi trốn tránh xã hội thực tại không còn nữ. Số phụ nữ kết
hôn tăng và kết hôn trở thành một nhu cầu kinh tế và người phụ nữ cũng lệ
thuộc vào chồng nhiều hơn trước. Những phụ nữ không kết hôn phải tự kiếm
sống, không được xã hội tôn trọng. Trong bối cảnh xã hội như vậy, vấn đề vai
của phụ nữ trở thành một vấn đề xã hội bức xúc và trở thành chủ đề của các
cuộc tranh luận, các công trình nghiên cứu về vai trò của phụ nữ và mối quan hệ
giới trong xã hội. Đến cuối thế kỷ XVIII một số tư tưởng nữ quyền theo chủ
nghĩa tự do được hình thành ở Anh. Cuộc tranh luận nổi tiếng nhất về quyền của
phụ nữ mang tư tưởng của chủ nghĩa tự do được thể hiện trong cuốn Sự bênh
vực quyền của phụ nữ của Marry Wollstonecraft. Trong tác phẩm này, các tranh
luận dựa trên phân tích tâm lý và sự bất lợi về kinh tế của phụ nữ do sự bắt buộc
15
phải phụ thuộc vào đàn ông và sự loại trừ họ khỏi môi trường xã hội. Vị trí thấp
kém về pháp luật so với nam giới cũng là chủ đề được tranh luận nhiều ở Anh.
Năm 1840, hội nghị thế giới về chống chế độ nô lệ được tổ chức ở London,
trong đó có sự tham gia của một đoàn đại biểu phụ nữ đã làm khơi dậy nhận
thức về sự cần thiết phải có một phong trào cho phụ nữ. Ngày 14/7/1848 Ủy ban
quyền của phụ nữ được thành lập tại Senesa Falls (New York). Những người
tham gia hội nghị tại Senesa Falls cũng thông qua 12 nghị quyết, một trong số
đó là quyết tâm đấu tranh cho quyền bầu cử của phụ nữ. Vào khoảng những năm
1850 và 1860, các cuộc tranh luận về quyền bầu cử của phụ nữ diễn ra rất gay
gắt. Năm 1890 các hiệp hội Mỹ và quốc gia vì quyền bầu cử của phụ nữ đã kết
hợp để trở thành Hiệp hội quốc gia Mỹ vì quyền bầu cử của phụ nữ (Nawsa).
Vào ngày 26/8/1920, trong luật sửa đổi thứ 19, sự bảo đảm cho phụ nữ quyền
được bầu cử đã được chấp thuận. Sau thành công trên phong trào đấu tranh đòi
quyền bầu cử của phụ nữ ở các nước châu Âu và Mỹ tạm lắng xuống. Thay vào
đó là sự hình thành một số phong trào mới như: Kiểm soát mức sinh và kế hoạch
hóa gia đình, phong trào nhà định cư, sự thiết lập của các tổ chức làm việc cải
thiện điều kiện làm việc cho những người phụ nữ… Những phong trào này đã
tạo nên một bước mới cho những sự phát triển của thuyết nữ quyền trong những
năm sau đó. Sau đó thời kì chiến tranh thế giới II, Đảng phụ nữ quốc gia do
Alice Paul thành lập, tiếp tục đấu tranh để cải thiện địa vị của người phụ nữ. Sự
phát triển của thuyết nữ quyền có thể được coi xuất phát từ sự phát triển của
phong trào phụ nữ thế kỉ XIX. (Nguồn: Xã hội học giới, Hoàng Bá Thịnh, NXB
Đại học quốc gia).
Có 3 làn sóng nữ quyền. Làn sóng nữ quyền thứ nhất bắt đầu từ cách
mạng Pháp và đánh dấu bằng việc xuất bản cuốn Sự biện minh cho quyền phụ
nữ của Marry Wollstonecraft. Còn ở Mỹ, làn sóng nữ quyền thứ nhất tập trung
vào các quyền đấu tranh cho phụ nữ về chính trị, đặc biệt là về quyền của phụ
nữ. Làn sóng nữ quyền thứ hai của phong trào nữ quyền của Mỹ xuất hiện vào
16
thập niên 1960 và vươn đến đỉnh cao vào thập niên 1970. Phong trào một phần
nào đã được thúc đẩy từ 3 quyển sách tiên phong về nữ quyền Giới tính thứ hai
của Simone de Beauvoir, Huyền thoại phụ nữ của Betty Friedan và Chính trị học
giới tính của Kate Millett. Theo nhận xét của nhà xã hội người Mỹ G. Ritzer thì
làn sóng thứ hai là của giới học giả. Làn sóng nữ quyền thứ ba bắt đầu phổ biến
vào những năm 1990, khi trên một số kênh truyền thông đại chúng đề cập
đến„„một cái chết dần dần và một cái chết đầy đau khổ‟‟ của chủ nghĩa nữ
quyền. Thuật ngữ làn sóng nữ quyền thứ ba được dùng để xác định một giai
đoạn mới trong lịch sử của thuyết nữ quyền, một giai đoạn tương phản với làn
sóng nữ quyền thứ nhất và làn sóng nữ quyền thứ hai. Chủ thể của làn sóng nữ
quyền thứ ba, đó là những nhà nữ quyền trẻ không chỉ tăng lên sự cam kết cá
nhân họ với chủ nghĩa nữ quyền, mà họ còn cho thấy mức độ tình nguyện rất
cao để thực hiện những hành động tập thể nhằm tạo nên sự biến đổi có hiệu quả.
Tư tưởng nữ quyền nâng cao sự quan tâm về mối quan hệ quyền lực tạo
bất lợi cho phụ nữ trong chuyên môn nghề nghiệp và loại bỏ sự thành thạo, kinh
nghiệm và giá trị của phụ nữ. Tư tưởng nữ quyền cũng nêu lên nhu cầu cần phải
hiểu biết và trân trọng những kinh nghiệm và cuộc sống của phụ nữ một cách
tách biệt và khác với những gì của nam giới và vai trò của nam giới khi có xảy
ra vấn đề giới, chẳng hạn như những vấn đề về chăm sóc mại dâm, bạo lực gia
đình và bóc lột về tình dục.
Quan điểm nữ quyền tập trung vào việc giải thích và đáp ứng cho vị trí bị
áp bức của phụ nữ trong hầu hết các xã hội. Lý thuyết nữ quyền bao gồm: thuyết
nữ quyền tự do tập trung vào chế độ phụ quyền; lý thuyết nữ quyền triệt để tập
trung vào chế độ phụ quyền; lý thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa tập trung vào
những áp bức của phụ nữ như là một phần của bất bình đẳng xã hội trong một cơ
cấu xã hội dựa vào giai cấp; lý thuyết phụ nữ da màu tập trung vào tính đa dạng
và giá trị về kinh nghiệm của phụ nữ; lý thuyết nữ quyền hậu hiện đại dựa vào
17
những diễn thuyết, những bài nói mang tính xã hội và văn hóa trong một xã hội
với nhận thức và khả năng phát triểm của phụ nữ bị giới hạn.
Lý thuyết nữ quyền là một hệ thống bao gồm nhiều trường phái khác
nhau. Bao gồm: lý thuyết nữ quyền tự do; thuyết nữ quyền Marxist; thuyết nữ
quyền cấp tiến; lý thuyết nữ quyền phân tâm học; lý thuyết nữ quyền hiện sinh;
thuyết nữ quyền xã hội chủ nghĩa; thuyết nữ quyền hậu hiện đại.
Lý thuyết nữ quyền tự do được hình thành từ làn sóng nữ quyền thứ nhất
của chủ nghĩa Khai sáng. Thuyết nữ quyền theo tư tưởng tự do được thể hiện
chủ yếu trong cuốn Sự bênh vực quyền của phụ nữ của Marry Wollstonecraft và
Sự khuất phục của phụ nữ của John Stuart Mill và vợ ông là Hairiet Taylor. Các
nhà nữ quyền tự do cho rằng sự bị trị của người phụ nữ bắt rễ trong rằng buộc về
tập quán và pháp lý. Theo họ thì vì xã hội tin tưởng một cách sai lầm rằng do
bản chất của mình phụ nữ kém năng lực hơn nam giới về trí tuệ, thể chất nên
phụ nữ bị gạt khỏi các diễn đàn và thương trường. Theo thuyết nữ quyền tự do
thì nam giới và phụ nữ đều có quyền lợi công bằng như nhau và quan điểm này
chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Khai sáng. Thuyết nữ quyền tự do có ưu điểm là
bước đầu hình thành nên tư tưởng về quyền bình đẳng của phụ nữ và tìm kiếm
sự chia sẻ trách nhiệm từ phía nam giới, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc
sống cho người phụ nữ. Tuy nhiên, thuyết nữ quyền tự do quá nhấn mạnh tầm
quan trọng của tự do cá nhân so với cái tốt chung cho mọi người, ca ngợi chủ
nghĩa nhân tạo trung lập về mặt giới mà coi nhẹ thuyết nữ quyền có quan tâm
đến vấn đề giới.
Thuyết nữ quyền Marxist nói đến cách hiểu và vận dụng nó trong các tác
phẩm của các tác giả nữ quyền Marxist phương Tây. Theo thuyết này thì xã hội
có giai cấp thì tất cả mọi người đặc biệt là phụ nữ không thể đạt được những cơ
hội thật sự bình đẳng khi của cải vật chất sản xuất ra bởi một số đông không có
quyền hành lại nằm trong tay một số ít người đầy quyền lực. Theo lý thuyết này
18
thì chủ nghĩa tư bản, chứ không chỉ các quy tắc xã hội rộng hơn, là nguyên nhân
của sự áp bức phụ nữ, do đó, nếu tất cả mọi phụ nữ muốn giải phóng, hệ thống
tư bản chủ nghĩa phải được thay thế bằng một hệ thống xã hội trong đó tư liệu
sản xuất thuộc về mọi người. Dưới chủ nghĩa xã hội, vì không ai phải lệ thuộc
về kinh tế vào bất cứ ai, phụ nữ sẽ được tự do về kinh tế đối với nam và bình
đẳng với nam giới. Dựa trên quan điểm của Engels cho rằng sự giải phóng phụ
nữ phụ thuộc vào việc phụ nữ tham gia vào nền sản xuất và quan điểm của
Lênin về tầm quan trọng của xã hội hóa việc nhà, những nhà lý thuyết nữ quyền
Marxist muốn thay đổi gia đình với tư cách một đơn vị kinh tế, vì nó là một cơ
cấu nuôi dưỡng hệ thống tư bản chủ nghĩa. Lý thuyết này đưa ra quan điểm
trong xã hội có giai cấp không thể có sự bình đẳng giới; chủ nghĩa tư bản và chế
độ nam trị là nguyên nhân của áp bức phụ nữ. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng có
một số hạn chế nhất định. Jame Bethke Elshtain không đồng ý với các nhà nữ
quyền Marxist về gia đình. Bà cho rằng gia đình là nơi duy nhất con người có
thể tìm kiếm được tình yêu, an toàn và tiện lợi, không nên thay đổi gia đình với
tư cách là một đơn vị kinh tế. Alison Jaggar đứng trên quan điểm xã hội chủ
nghĩa phê phán thuyết nữ quyền Marxist. Bà cho rằng các nhà nữ quyền Marxist
đã không nói nhiều về sự áp bức phụ nữ do nam giới chủ trì. Khi nhiều người
Marxist nói về sự áp bức phụ nữ, họ cho rằng tư bản là người thứ nhất áp bức
phụ nữ ở vai trò người lao động, và nam giới chỉ là người áp bức thứ hai ở vai
trò người phụ nữ. Theo bà, quan hệ nam nữ trong hôn nhân không mang tính
chất bóc lột và tha hóa giống như quan hệ Tư sản – Vô sản, chủ - thợ mà các nhà
Marxist tin tưởng. Dù có giống nhau, người công nhân bị bóc lột không khổ
giống người vợ bị áp bức. Lý thuyết Marxist ít đề cập tái sinh đẻ của phụ nữ và
tính dục. Như vậy, sản xuất được phân tích nhiều hơn tái sản xuất. Theo đó phụ
nữ muốn được giải phóng phải tham gia vào sản xuất và cần thay thế chủ nghĩa
tư bản bằng hệ thống xã hội chủ nghĩa.
19
Thuyết nữ quyền cấp tiến bắt đầu xuất hiện từ vào những năm cuối thập
niên1960 đầu thập niên 1970. Từ đầu những năm 1970 hàng loạt những công bố
của các lý luận gia nữ quyền cấp tiến đề cập đến vấn đề phụ nữ bị áp bức bởi
đàn ông cả trong gia đình và ngoài xã hội như: Biện chứng về giới của tác giả
Shulamith Firestone; Thái độ gia trưởng của Eva Figes; Những chính sách tình
dục của Kate Millet. Theo các lý luận gia nữ quyền cấp tiến thì vai trò của phụ
nữ trong gia đình gắn liền với chế độ gia trưởng, chế độ gia trưởng có trước chế
độ tư hữu. Chế độ gia trưởng hay hệ thống nam trị đã áp bức phụ nữ. Đây là môt
hệ thống mà nổi bật là quyền lực và sự thống trị, tôn ti trật tự và cạnh tranh. Phụ
nữ bị thống trị bởi nam giới, và nam giới có khả năng áp bức phụ nữ. Sự khác
biệt về giới có thể được giải thích theo nghĩa là sự khác biệt về sinh học, về tâm
lý học nam và nữ. Tức là người phụ nữ bị áp bức bởi chức năng tái sinh sản và
bị đàn ông cưỡng hiếp. Lý thuyết nữ quyền triệt để còn cho rằng bạo lực đối với
phụ nữ hay vấn đề tình dục khác giới theo kiểu ép buộc cũng như cách thức tổ
chức gia đình theo kiểu gia đình gia trưởng là cách đảm bảo sự trường tồn sự
thống trị của nam giới đối với phụ nữ. Do đó phụ nữ phải lệ thuộc vào nam giới
cả về vật chất và tinh thần. Những nhà nữ quyền cấp tiến cho rằng yếu tố sinh
học không phải là nguyên nhân của áp bức mà sự áp bức là ở chỗ nam giới kiểm
soát phụ nữ ở vai trò sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái. Lý thuyết nữ quyền cấp tiến
đã chỉ ra chế độ gia trưởng là nguyên nhân cội rễ của sự áp bức phụ nữ. Họ
không thừa nhận đặc điểm sinh học là yếu tố quyết định sự phụ thuộc của phụ
nữ vào nam giới. Lý thuyết nữ quyền cấp tiến hơn lý thuyết nữ quyền tự do và
Marxist, các nhà nữ quyền cấp tiến đã trực tiếp lưu ý đến cách thức mà nam giới
dùng để kiểm soát thân thể phụ nữ. Hơn nữa họ đã chỉ rõ cách thức mà nam giới
dùng tính dục để phục vụ nhu cầu, mong muốn và lợi ích của nam giới, không
phải phụ nữ. Tuy nhiên, ho cho rằng tính dục của những người đồng tính nữ
chính là loại tính dục đáp ứng những nhu cầu của phụ nữ, chủ trương khước từ
tính dục nam nữ là trái với quy luậy tự nhiên. Họ cho rằng phụ nữ về bản chất
tốt hơn nam giới, còn nam giới về bản chất là xấu. Phụ nữ siêu việc hơn nam