Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH (CDM) TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.56 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HOC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÁO CÁO HỌC PHẦN THƯƠNG MẠI MÔI TRƯỜNG
Nội Dung :
PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN
SẠCH (CDM) TẠI VIỆT NAM
Cán Bộ Hướng Dẫn Nhóm Thực Hiện: Nhóm 4
NGUYỄN THÚY HẰNG 1. Nguyễn Thị Thanh An
2. Nguyến Hoàng Băng Châu
3. Huỳnh Thị Hiếu
4. Lê Văn Lợi
5. Ngô Hải Long
6. Trần Ngọc Mỹ Phương
Cần Thơ – 10/2014

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Chúng ta đang ngày càng phải đương đầu với nhiều hiện tượng thiên tai
gây ra bởi sự biến đổi khí hậu như hạn hán, lũ lụt, bão. Đó là những mối đe
doạ nguy hại lớn nhất đối với xã hội, đe dọa các hoạt động kinh tế và môi
trường.
Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư ngày 2/2/2007 (AR4) của Uỷ ban liên
chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) thì nồng độ các khí carbon dioxide
(CO
2
), methane (CH
4
) và nitrous oxide (N
2
O) trong khí quyển toàn cầu đã
tăng đáng kể do hệ quả để lại của các hoạt động của con người từ năm 1750.


Hiện tượng tăng nồng độ CO
2
chủ yếu gây ra bởi việc sử dụng nhiên liệu hoá
thạch và thay đổi kiểu sử dụng đất, còn tăng nồng độ CH
4
và N
2
O chủ yếu do
các hoạt động nông nghiệp. Nếu không khẩn trương tiến hành các biện pháp
đối phó nhằm giảm sự phát thải các khí nhà kính, nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên
1,8-4,0 độ C vào cuối thế kỷ này.
Trong bối cảnh như thế, các quốc gia trên thế giới đã phối hợp hành
động bằng cách kí kết những công ước và quy định chung nhằm mục đích đạt
được những sự thỏa thuận về giảm thiểu khí nhà kính, ngăn chặn sự nóng lên
toàn cầu. Trong đó, Nghị định thư Kyoto (KP) là giai đoạn tiếp theo của Công
ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu. Nội dung chính của KP là
yêu cầu các nước công nghiệp phát triển cam kết hạn chế và giảm phát thải
định lượng các khí nhà kính ít nhất 5% dưới mức phát thải năm 1990 trong
thời kỳ từ 2008 đến 2012. Nghị định thư Kyoto bao gồm 3 cơ chế để các nước
thực hiện các cam kết về giảm khí thải: Cơ chế cùng thực hiện (JI), cơ chế
phát triển sạch (CDM) và cơ chế mua bán phát thải quốc tế (ET). Việt nam đã
sớm tham gia Nghị định thư Kyoto với tư cách là một nước đang phát triển.
Việt Nam đã và đang hướng tới các dự án CDM, thu hút các nhà đầu tư trong
phát triển cơ chế sạch vào các ngành có lượng thải khí nhà kính cao. Việc
triển khai cơ chế phát triển sạch CDM theo cam kết của Nghị định thư Kyoto
đã tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới đi kèm với những vấn đề khó khăn,
bất cập đáng quan tâm.
Chính vì vậy, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Phân tích hiện trạng các dự
án phát triển sạch (CDM) tại Việt Nam” nhằm đề xuất giải pháp phát triển
các dự án CDM ở Việt Nam.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích hiện trạng các dự án phát triển sạch tại Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
 Tìm hiểu chung về cơ chế phát triển sạch (CDM) và các dự án CDM.
 Phân tích các yếu tố cơ hội và thách thức của Việt Nam trong các dự án
CDM.
 Đề xuất giải pháp cho việc triển khai phát triển các dự án CDM tại Việt
Nam.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Không gian
Đề tài phân tích hiện trạng các dự án phát triển sạch CDM tại Việt Nam.
1.3.2 thời gian
Đề tài được thực hiện từ ngày 29/8/2014 đến ngày 8/10/2014.
1.3.3 Đối tượng nghiên cứu
Các dự án phát triển sạch (CDM).
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phương pháp thu thập số liệu
Đề tài sử dụng số liệu thứ cấp được thu thập từ internet, sách, báo, tạp
chí và các phương tiện truyền thông khác.
1.4.2 Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được phân tích trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp kết hợp phương
pháp so sánh tương đối, tuyệt đối và đưa ra nhận xét, đánh giá.
CHƯƠNG 2. HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU,
NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO VÀ CƠ CHẾ PHÁT TRIỂN SẠCH
CDM
2.1 HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
2.1.1 Hiệu ứng nhà kính
Khí hậu của Trái đất có liên quan chặt chẽ với bức xạ của mặt trời xuống
Trái đất và bức xạ nhiệt từ Trái đất vào không gian.

Trái đất hấp thụ một phần năng lượng của mặt trời, phần còn lại Trái đất
sẽ giải phóng, đưa chúng trở lại vũ trụ dưới dạng bức xạ hồng ngoại. Phần lớn
bức xạ hồng ngoại này được hấp thụ bởi hơi nước, CO
2
, CH
4
, N
2
O và các khí
tự nhiên khác được gọi là ”khí nhà kính”.
Các khí nhà kính đóng vai trò như một tấm mái kính giữ cho Trái đất ở
nhiệt độ ấm và duy trì mọi sự sống trên Trái đất. Không có tấm mái kính này,
nhiệt độ của Trái đất sẽ giảm xuống nhiều so với hiện tại. Hiệu ứng giữ nhiệt
này gọi là hiệu ứng nhà kính.
Tuy nhiên các hoạt động của con người đang làm tấm mái kính này thay
đổi. Từ thời kỳ tiền công nghiệp (1870) đến nay, cùng với sự phát triển công
nghệ mạnh mẽ, con người thông qua các hoạt động của mình như đốt nhiên
liệu hóa thạch, khai thác mỏ, khai phá rừng, chuyển đổi sử dụng đất, sản xuất
lượng thực, xử lý chất thải và các hoạt động sản xuất công nghiệp, đã và
đang làm tăng nồng độ các khí nhà kính (KNK) trong khí quyển và gây nên sự
biến đổi khí hậu. Báo cáo kỹ thuật của Ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
(IPCC) đã nêu rõ:
• Nồng độ CO
2
trong khí quyển đã tăng 31% kể từ năm 1750. Khoảng ¾
tổng lượng CO
2
nhân tạo phát thải vào khí quyển trong 20 năm qua là
do đốt nhiên liệu hóa thạch còn lại là do phá rừng, thay đổi đất sử dụng.
• Nồng độ CH

4
đã tăng 151% và N
2
O tăng 17% kể từ 1750 và đang tiếp
tục tăng.
Như vậy các hoạt động phát thải quá mức các khí nhà kính vào khí
quyển của con người chính là nhân tố quyết định gây biến đổi khí hậu toàn
cầu từ hơn một thế kỉ qua. Bằng chứng khoa học cho thấy trong 100 năm qua,
nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng khoảng 0,6
0
C và mực nước biển dâng
khoảng 10-12 cm.
2.1.2 Tác động của biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu (BĐKH) gây nhiều tác động tiêu cực đối với hệ thống
tự nhiên và con người. Hệ thống tự nhiên và con người bị ảnh hưởng về nhiệt
độ trung bình cũng như tần suất và mức độ khắc nghiệt của các hiện tượng
thời tiết. Ngoài ra các hệ thống này còn chịu tác động gián tiếp của BĐKH
như mực nước biển dâng, tahy đổi độ ẩm trong đất, thay đổi điều kiện đất và
nước, bệnh dịch.
2.1.2.1 Nguồn nước
Các nhà khoa học đã chứng minh sự nóng lên toàn cầu sẽ gây nên những
biến đổi đáng kể đến đặc trưng nhiệt độ và dạng mưa. Thông qua cân bằng
nước trong mỗi khu vực sẽ có tác động đến dòng chảy sông ngòi và tài nguyên
nước.
Nhu cầu về nước đang tăng lên do sự phát triển kinh tế và dân số.
Khoảng 1,7 tỷ người đang sống trong tình trạng thiếu nước. Dự báo, đến năm
2025 con số này sẽ tăng lên 5 tỷ người. BĐKh làm suy giảm lưu lượng dòng
chảy và nước ngầm vốn đã khan hiếm nước sinh hoạt như Trung Á, Nam Phi
và các nước ven Địa Trung Hải.
2.1.2.2 Nông nghiệp và an ninh thực phẩm

Khi nhiệt độ tăng lên, ở vùng nhiệt đới, sản lượng sẽ giảm ngay khi nhiệt
độ thay đổi không đáng kể. Trong khi đó ở vùng ôn đới, sản lượng một số cây
trồng sẽ tăng lên. Nhìn chung nhiệt độ tăng sẽ gây hại đối với các loài cây
trông do chưa thích nghi với điều kiện thay đổi.
Suy thoái đất và tài nguyên nước là một trong những thách thức của
ngành nông nghiệp toàn cầu.
Ngoài ra, sự tăng lên của các hiện tượng khí hậu cực đoan sẽ làm tăng số
lượng gia súc chết.
BĐKH dẫn đến sự thay đổi nhỏ trong thu nhập toàn cầu với những thay
đổi có lợi cho các nước phát triển và thay đổi tiêu cực cho các nước đang phát
triển. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nhiệt độ trung bình năm tăng 2,5
0
C sẽ đẩy
giá thực phẩm tăng lên do hạn chế việc mở rộng khả năng cung cấp thực phẩm
toàn cầu trong khi nhu cầu thực phẩm tăng lên. Do vậy BĐKH sẽ làm giảm
thu nhập và tăng số lượng thiếu ăn của người dân.
2.1.2.3 Các hệ sinh thái
Các hệ sinh thái phải gánh chịu nhiều sức ép như thay đổi sử dụng đất,
chất ô nhiễm, thay đổi khí hậu tự nhiên BĐKH là một sưc ép làm thay đổi
hoặc gây nguy hại cho các hệ sinh thái.
Nhiều loại cây bị đe dọa do BĐKH. Nếu không có các biện pháp thích
ứng, nhiều loại cây sẽ có nguy cơ biến mất trong thế kỷ 21. Điều này sẽ tác
động đến các hiện tượng tự nhiên (sự thụ phấn ), các tập quán văn hóa của
người bản địa.
BĐKH cũng làm giảm số lượng hồ, vùng đầm lầy và các dòng sông
băng, đồng thời làm tăng sự xâm lấn của các động vật ngoại lai, làm trầm
trọng thêm vấn đề ô nhiễm hiện tại như nhiễm độc, mưa axit và bức xạ tia tử
ngoại.
2.1.2.4 Vùng ven bờ
BĐKH làm tăng nhiệt độ mặt biển và mực nước biển, làm suy giảm lớp

băng phủ và độ măn, dòng chảy của nước biển. Những thay đổi trong đại
dương sẽ tác động ngược trở lại đối với khí hậu toàn cầu cũng như khí hậu
vùng ven bờ.
Nhiều vùng ven bờ phải chịu lũ lụt do nước biển dâng, sự xói mòn và sự
nhiễm mặn nguồn nước ngọt.
Nhiều đồng bằng và vùng ven bờ sẽ bị nhấn chìm do mực nước biển
dâng.
2.2 CÔNG ƯỚC KHUNG CỦA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU (UNFCCC) - NGHỊ ĐỊNH THƯ KYOTO CƠ - CHẾ PHÁT
TRIỂN SẠCH CDM
2.2.1 Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu
(UNFCCC)
Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
(UNFCCC) được ký kết tại Hội nghị Phát triển và Môi trường Liên hợp quốc
(Hội nghị thượng đỉnh Trái đất) tại Brazil tháng 6/1992 và có hiệu lực từ
tháng 3/1994.
Mục tiêu cuối cùng của Công ước là ổn định nồng độ các khí nhà kính
trong khí quyển ở mức an toàn. Để đạt được mục tiêu này, tất cả các nước
tham gia phải có cam kết chung về các hành động chống lại sự biến đổi khí
hậu, điều chỉnh theo điều kiện của từng quốc gia nhằm triển khai thực hiện
Công ước.
Công ước phân chia các nước tham gia thành 2 nhóm:
 Các bên thuộc phụ lục I: các nước công nghiệp hóa là các nước chủ yếu
gây ra biến đổi khí hậu.
 Các bên không thuộc phụ lục I: gồm phần lớn là các quốc gia đang phát
triển.
Công ước đưa ra nguyên tắc bình đẳng và “trách nhiệm chung nhưng
khác nhau” yêu cầu Các bên trong Phụ lục I phải dẫn đầu trong việc tới năm
2000 phải giảm mức phát thải khí nhà kính của họ xuống tới mức của năm
1990. Họ phải đệ trình báo cáo thường kỳ, thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng công bố các chương trình chính sách về biến đổi khí hậu cũng
như các điều tra hàng năm về giảm phát thải khí nhà kính.
2.2.2 Nghị định thư Kyoto
Nghị định thư Kyoto là một nghị định liên quan đến Chương trình khung
về biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt
giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được kí kết vào ngày
11 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba khi các bên
tham gia nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2
năm 2005.
Kể từ tháng 9/2011 đã có khoảng 191 nước kí kết tham gia chương trình
này. Trong đó có khoảng 36 nước phát triển (với liên minh Châu Âu được tính
là một) được yêu cầu phải có hành động giảm thiểu khí thải nhà kính mà họ đã
cam kết cụ thể trong nghị trình (lượng khí này chiếm hơn 61.6% của lượng
khí của nhóm nước Annex I cần cắt giảm). Nghị định thư cũng được khoảng
137 nước đang phát triển tham gia kí kết.
Nghị định thư đại diện cho sự thống nhất giữa các quốc gia công nghiệp
trong vấn đề cắt giảm khí thải trên 5.2% so với năm 1990 (lưu ý rằng mức độ
cắt giảm theo đó đến năm 2010 phải đạt được thì chỉ tiêu này là khoảng 29%).
Mục tiêu hướng đến việc giảm thiểu các loại khí carbon dioxide (CO
2
),
methane (CH
4
), nitơ ôxít (N
2
O), lưu huỳnh hexafluorua (HFCs),
clorofluorocarbon (PFCs) và perflourocarbon (FCs) trong khoảng thời gian
2008-2021. Mức trần đã được qui định cho các nước tham gia cụ thể là 8%
mức cắt giảm cho Liên minh Châu Âu và 7% cho Hoa Kỳ, 6% với Nhật Bản,
0% với Nga trong khi mức hạn ngạch cho phép tăng của Úc là 8%, và 10%

cho Iceland.
2.2.3 Cơ chế phát triển sạch CDM
Cơ chế phát triển sạch (CDM) là một trong ba cơ chế thiết lập bởi Nghị
định thư Kyoto, cho phép nhóm nước phát triển buộc phải giảm mức thải khí
nhà kính (nhóm nước thuộc phụ lục I) đầu tư các dự án giảm phát thải tại các
nước đang phát triển với mức chi phí rẻ hơn so với thực hiện tại chính nước
đó.
2.2.3.1 Nội dung cơ bản
CDM được ghi trong điều 12 của nghị định thư Kyoto, cho phép chính phủ
hoặc tổ chức, cá nhân ở các nước công nghiệp thực hiện dự án giảm phát thải
ở các nước đang phát triển để nhận được “chứng chỉ giảm phát thải”, viết tắt
là CERs, đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải của quốc gia đó.
CDM cố gắng thúc đẩy phát triển bền vững ở các nước đang phát triển và
cho phép các nước phát triển đóng góp vào mục tiêu giảm mật độ tập trung
khí nhà kính trong khí quyển.
Tại điều 12.2 trong nghị định thư có nêu “mục đích của CDM sẽ là trợ
giúp các bên không thuộc phụ lục I đạt được phát triển bền vững và góp phần
thực hiện mục tiêu cuối cùng của công ước và giúp các bên phụ thuộc phụ lục
I thực hiện được cam kết giảm và hạn chế phát thải của mình trong điều 3”.
Cơ chế phát triển sạch (CDM) là một trong những công cụ linh hoạt của
nghị định thư Kyoto. CDM bao gồm các nguyên tắc cốt lõi của phát triển bền
vững: Phát triển kinh tế, cải thiện môi trường và tiến bộ xã hội và có tiềm
năng ứng dụng lớn ở các nước đang phát triển (Theo "Guide to clean
development machenism").
Chẳng hạn với các nước công nghiệp phát triển như Đức, Pháp và các
nước khác ở Châu Âu, theo nghị định thư Kyoto họ sẽ phải cắt giảm thấp nhất
5% lượng thải các-bon của mình. Thay vì phải cắt giảm sản xuất họ có thể tiến
hành đầu tư tiền cho các nước ở Châu Á hoặc Châu Phi, tiến hành trồng rừng
để hấp thụ khí các-bon, sao cho lượng khí hấp thụ được bằng với mức các-bon
họ buộc phải cắt giảm. Như vậy, những nước này sẽ nhận được chứng nhận

giảm phát thải theo đúng nghị định thư Kyôto.
2.2.3.2 Lợi ích từ các dự án CDM
Có thể hiểu CDM là một cơ chế hợp tác quốc tế mới trong lĩnh vực môi
trường giữa các quốc gia đang phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa
nhằm làm giảm phát thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu.
Với cam kết phải cắt giảm khí thải nhà kính, các quốc gia công nghiệp
hóa phải đầu tư, đổi mới, cải tiến công nghệ với chi phí rất tốn kém mà hiệu
quả mang lại không cao thì có một cách làm tốt hơn là tiến hành đầu tư những
dự án CDM ở những nước đang phát triển, nơi trình độ công nghệ chưa cao,
môi trường chưa bị ô nhiễm nặng, với chi phí đầu tư thấp hơn nhiều. Đổi lại,
các doanh nghiệp đầu tư nhận được chứng chỉ giảm phát thải đã được công
nhận (CERs) để áp dụng vào chỉ tiêu cắt giảm phát thải ở quốc gia mình.
Những quốc gia đang phát triển không bị ràng buộc bởi cam kết phải cắt
giảm khí nhà kính của nghị định thư Kyoto có thể cải thiện tình hình kinh tế,
xã hội và môi trường từ nguồn tài chính và công nghệ tiên tiến được chuyển
giao từ những dự án CDM. Ở mức độ toàn cầu, thông qua các dự án giảm phát
thải, CDM có thể khuyến khích đầu tư quốc tế, cung cấp các nguồn lực cần
thiết cho tăng trưởng kinh tế ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới. Bởi vậy
ngay từ đầu CDM đã giành được sự quan tâm đặc biệt của cả những nước
đang phát triển và những nước công nghiệp hóa.
2.2.3.3 Các lĩnh vực thuộc dự án CDM
CDM gồm các dự án thuộc các lĩnh vự sau:
 Nâng cao hiệu quả năng lượng sử dụng cuối
 Nâng cao hiệu quả cung cấp năng lượng
 Năng lượng tái tạo
 Nông nghiệp (giảm phát thải CH
4
và N
2
O)

 Chuyển đổi nhiên liệu
 Các quá trình công nghiệp (CO
2
từ sản xuất xi-măng, HFEs, PFCs,
SF
6
)
 Các dự án bể hấp thụ (chỉ áp dụng đối với lĩnh vực Trồng rừng và
khôi phục rừng)
Trong đó, những lĩnh vực tiềm năng có thể xây dựng và thực hiện dự án
CDM tại Việt Nam là:
• Trồng rừng và tái trồng rừng
• Ứng dụng các nguồn năng lượng tái tạo
• Nâng cao hiệu quả, bảo tồn và tiết kiệm năng lượng
• Chuyển đổi nhiên liệu
• Thu hồi và sử dụng CH4 từ các bãi rác, mỏ than và sử lí nước thải
• Thu hồi và sử dụng đồng hành các hoạt động sản xuất
2.2.3.4 Quy trình thực hiện dự án CDM
Chu trình thực hiện dự án CDM bao gồm 7 giai đoạn:
1. Thiết kế và xây dựng dự án
2. Phê duyệt quốc gia
3. Thẩm tra và đăng kí
4. Tài chính của dự án
5. Giám sát
6. Thẩm tra/chứng nhận
7. Ban hành CERs
CHƯƠNG 3. HIỆN TRẠNG CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN SẠCH
(CDM) TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỰ ÁN
CDM
3.1 TÌNH HÌNH CÁC DỰ ÁN CDM Ở VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI

3.1.1 Việt Nam tham gia Nghị định thư Kyoto
Việt Nam đã ký Nghị định thư Kyoto vào ngày 3/12/1998 và phê chuẩn
vào ngày 25/9/2002.
Nghị định thư Kyoto của Công ước khí hậu là văn bản pháp lý để thực
hiện Công ước khí hậu, đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 16/2/2005. Nội
dung quan trọng của Nghị định thư Kyoto là đưa ra chỉ tiêu giảm phát thải khí
nhà kính có tính ràng buộc pháp lý đối với các nước phát triển và cơ chế giúp
các nước đang phát triển đạt được sự phát triển KT-XH một cách bền vững
thông qua thực hiện "Cơ chế phát triển sạch" (CDM). Dự án CDM được đầu
tư vào các lĩnh vực như: năng lượng, công nghiệp, GTVT, nông nghiệp, lâm
nghiệp và quản lý chất thải.
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto nên
được hưởng những quyền lợi dành cho các nước phát triển trong việc tiếp
nhận hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ mới từ các nước phát triển
thông qua các dự án CDM.
3.1.2 Các dự án CDM trên thế giới
Trên toàn thế giới, đã có 1.186 dự án CDM được đăng kí (tháng 10/2008)
đến tháng 11/2009 có hơn 4.200 dự án CDM. Mỗi năm có trung bình 158 triệu
đơn vị giảm phát thải (CERs). Đến năm 2012 ước tính có 1 tỉ 900 triệu CERs.
Trong đó có 1.907 dự án đã được EB cho đăng ký là dự án CDM trong số
các dự án đã được đăng ký, các dự án về năng lượng chiếm phần lớn 60,4%
còn lại là các dự án xử lý chất thải 17.59% và các loại dự án khác. Tổng tiềm
năng giảm phát thải dự kiến của các dự án là hoảng 1 tỷ 680 triệu tấn
CO
2
tương đương tính đến hết năm 2012.
Bảng 1: Các hoạt động dự án đã được EB cho đăng ký theo lĩnh vực
(tính đến cuối năm 2009)
STT Lĩnh vực Số lượng dự án Tỷ lệ (%)
1 Sản xuất năng lượng (nguồn năng lượng

tái tại/năng lượng không tái tạo)
1408 60,4
2 Dự án tiêu thụ năng lượng 25 1,07
3 Công nghiệp chế tạo 108 4,63
4 Công nghiệp hóa chất 62 2,66
5 Giao thông 2 0,09
6 Khai mỏ 23 0,09
7 Sản xuất kim loại 6 0,26
8 Phát thải sản xuất và tiêu thụhalocacbons
và sulpurhexafluoride
22 0,94
9 Xử lý, loại bỏ rác thải 410 17,59
10 Trồng rừng và tái trồng rừng 10 0,43
11 Sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn
nuôi)
123 5,28
(Nguồn: www.unfecc.de)
Các dự án được đăng ký theo khu vực hiện nay là châu á – Thái Bình
Dương (74,10%), vùng Caribê và Mỹ Latinh (23,44%), châu Phi (1,89%), các
lĩnh vực khác (0,58%).
Lượng CERs đã cấp đến năm 2009 cho các nước chủ trì là 329.981.102.
Trong đó Trung Quốc chiếm 45,72%, ấn Độ chiếm 21,65%, Hàn Quốc chiếm
13,41%, Braxin 10,42%, Việt Nam chiếm 1,36%, …
3.1.3 Tình hình xây dựng và triển khai các dự án CDM ở Việt Nam
3.1.3.1 Việt Nam có đủ tư cách pháp nhân để xây dựng các dự án
CDM quốc tế
Việt Nam là quốc gia thuộc nhóm phụ lục I (không bắt buộc giảm phát thải
khí nhà kính) và đủ điều kiện làm nước chủ nhà dự án CDM vì hiện đã đạt
được 3 điều kiện để tham gia một cách đầy đủ nhất vào các dự án CDM quốc
tế, đó là:

- Tham gia hoàn toàn tự nguyện đã ký Hiệp định khung của Liên hợp
quốc về vấn đề về biến đổi khí hậu (UNFCCC) vào ngày 11 tháng 6
năm 1992, phê chuẩn vào ngày 16 tháng 11 năm 1994.
- Ký kết Nghị định thư Kyoto (Việt Nam đã tham gia ký Nghị định thư
Kyoto vào ngày 3/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002.
- Thành lập cơ quan có thẩm quyền quốc gia về CDM: DNA của Việt
Nam được thành lập từ tháng 3/2003 là Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài
nguyên và Môi trường. Đến năm 2008 theo quyết định số 997/QĐ-
BTNMT ngày 12/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
thì Tổng cục Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu chính thức là cơ
quan DNA của Việt Nam.
DNA của Việt Nam có nhiệm vụ:
+ Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá dự án và tài liệu hướng dẫn cho các hoạt
động CDM trong nước;
+ Đánh giá các dự án CDM ở phạm vi quốc gia;
+ Trình dự án CDM tới ban tư vấn chỉ đạo CDM quốc gia;
+ Cấp thư xác nhận (LOE)/ thư chấp thuận (LOA) cho các tài liệu dự án
CDM được chấp thuận.
Ngoài DNA, tại Việt Nam còn có Ban tư vấn quốc gia về CDM (CNECB -
Clean Development Mechanism Executive và Consultative Board).
Các thành viên của CNECB bao gồm:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (Chủ trì, thành viên thường trực);
- Các Bộ: Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Bộ
Khoa học và Công nghệ, Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
- Liên Hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam
Với sự đầy đủ về tư cách pháp nhân như trên, các doanh nghiệp và các
thành phần kinh tế của Việt Nam khi xây dựng và được công nhận là dự án
CDM có tiềm năng giảm phát thải, doanh nghiệp có dự án không những được
hưởng nhiều chính sách ưu đãi về thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, khấu

hao tài sản cố định; được vay vốn ưu đãi từ nguồn tín dụng đầu tư của Nhà
nước (theo Quyết định số 130/2007/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ) mà
còn có thể bán được chỉ tiêu giảm phát thải (CERs) trên thị trường thương mại
Các bon ở phạm vi toàn cầu theo quy định, mỗi CERs hiện đang được chào
bán với giá từ 8-10 USD.
3.1.3.2 Thực trạng các dự án CDM ở Việt Nam
Tính đến ngày 4/3/2013, Việt Nam có 233 dự án được CDM-EB cho
đăng ký là dự án CDM, trong đó có 22 dự án CDM được CDM-EB phê duyệt.
Tháng 3/2008 dự án “Thu hồi và sử dụng khí đồng hành mỏ Rạng Đông”
là dự án CDM đầu tiên của Việt Nam được cấp chứng chỉ giảm phát thải
(CERs) với 4.486.500 CERs ở giai đoạn đầu,…
Theo các chuyên gia, mặc dù các dự án CDM của Việt Nam được CDM-
EB phê duyệt mới chủ yếu là các dự án thủy điện nhỏ và vừa, nhưng bước đầu
đã mang lại những lợi ích rõ rệt về môi trường và kinh tế cho cả hai phía -
phía các nước công nghiệp hóa (tức là các nhà đầu tư dự án CDM) và phía các
nước đang phát triển (hay còn gọi là các nước tiếp nhận dự án CDM).
Điển hình nhất tại Việt Nam phải kể đến Dự án tăng hiệu quả sử dụng
năng lượng trong lĩnh vực nồi hơi công nghiệp và Dự án thu gom khí đồng
hành mỏ Rạng Đông của nhà thầu JVPC (Nhật Bản). Dự án trong lĩnh vực nồi
hơi công nghiệp có mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng của nồi hơi công
nghiệp, nâng cao hiệu suất nồi hơi với chi phí đầu tư thấp, nhờ đó giảm phát
thải khí CO 2 trong lĩnh vực công nghiệp. Kết quả cụ thể thu được từ dự án
này là giảm được khoảng 150 nghìn tấn CO 2 mỗi năm nhờ tăng được hiệu
suất trung bình của nồi hơi công nghiệp từ 45% lên 60%.
Một số dự án CDM được phát triển và thực hiện tại Việt Nam (đến
ngày 06/03/2013)
1. Các dự án đã đăng ký thành công
1.1 Lĩnh vực thủy điện
TT Tên dự án Địa điểm
Công suất

(MW)
Lượng giảm phát thải
(tCO
2
/ năm)
1 An Điềm 2 Quảng Nam 15,6 39.554
2 Bản Cốc Nghệ An 18 40.010
3 Chiềng Công Sơn La 11,4 23.707
4 Chi Khê Nghệ An 44 91.939
5 Cốc Đàm Lào Cai 7,5 16.472
6 Dốc Cáy Thanh Hóa 15 34.683
7 Đăk Drinh
Quảng Ngãi - Kon
Tum
125 301.238
8 Đăk Mi 2 Quảng Nam 98 228.680
9 Đăk Pône Kon Tum 15,6 34.541
10 Đam B’ri 1 Lâm Đồng 9 21.773
11 Đồng Nai 2 Lâm Đồng 70 132.273
12 Đồng Nai 5 Lâm Đồng 150 344.909
13 Đồng Ngãi Yên Bái 8 16.150
14 Hà Tây Gia Lai 9 19.270
15 Hạ Rào Quán Quảng Trị 6,4 12.228
16 La Ngâu Bình Thuận 46 110.543
17 Mường Kim Lai Châu - Yên Bái 34,5 54.731
18
Mường Sang - Tất Ngoẵng -
Thu Cúc
Sơn La 11,6 24.072
19 Nậm An Hà Giang 6 13.965

20 Nậm Chiến 2 Sơn La 32 66.563
21 Nậm Chim 1 Sơn La 16 35.664
22 Nậm Giôn Sơn La 20 41.156
23 Nậm Hồng Sơn La 16 35.961
24 Nậm Khánh Lào Cai 12 27.904
25 Nậm Khốt Sơn La 14 27.924
26 Nậm Ngần Hà Giang 13,5 29.322
27 Nậm Núa Điện Biên 10,8 23.170
28 Nậm Sọi - Nậm Công Sơn La 20 40.296
29 Nậm Pia Sơn La 15 34.103
30 Nậm Pông Nghệ An 30 70.353
31 Nậm Tha Lào Cai 19,5 35.356
32 Nậm Tha 3 Lào Cai 14 29.469
33 Nậm Trai 4 Sơn La 9,6 21.085
34 Nậm Xá Sơn La 9,6 20.535
35 Nậm Xây Nọi 2 Lào Cai 12 25.661
36 Ngòi Xan 1&2 Lào Cai 18,6 40.555
37 Nhạn Hạc - Sao Va Nghệ An 48 108.445
38 Nho Quế 3 Hà Giang 110 282.584
39 Sông Bung 5 Quảng Nam 57 130.776
40 Sông Bung 6 Quảng Nam 26 68.425
41 Sông Chừng Hà Giang 19,5 63.420
42 Sông Miện 5 Hà Giang 20 37.852
43 Sông Nhiệm 3 Hà Giang 10 19.502
44 Sông Ông Ninh Thuận 8,1 21.416
45 Sông Tranh 3 Quảng Nam 64 126.940
46 Sơn Tây Quảng Ngãi 18 39.882
47 Thác Xăng Lạng Sơn 20 34.926
48 Thái An Hà Giang 82 180.643
49 Thiên Nam Lai Châu 19,6 45.323

50 Thượng Kon Tum Kon Tum 220 602.074
51 Trà Linh 3 Quảng Nam 7,2 15.083
52 Trà Xom Bình Định 20 41.161
53 Trung Hồ - Vạn Hồ Lào Cai 12,9 29.947
54 Vĩnh Sơn 5 Bình Định 28 58.718
55 Yan Tann Sien Lâm Đồng 19,5 39.751
56 Za Hưng Quảng Nam 30 69.309
57
Các dự án thủy điện qui mô
nhỏ (PoA)
Việt Nam
1.2 Lĩnh vực khác
TT Tên dự án – Địa điểm
Lượng giảm phát thải
(tCO
2
/ năm)
1
Chuyển đổi nhiên liệu lò hơi từ dầu FO sang than trấu tại Sài
Gòn VeWong
24.866
2 Đồng phát nhiệt điện sử dụng nhiên liệu trấu Đình Hải 23.245
3 Xử lý nước thải và thu hồi khí mê tan tại CTCP Đồng Xanh 138.009
4
Tránh phát thải khí methane thông qua việc ủ hiếu khí phân
vi sinh tại nhà máy xử lý rác sinh hoạt Vietstar - huyện Củ
Chi, thành phố Hồ Chí Minh
181.492
5 Trại điện gió Bạc Liêu 143.761
6

Đồng phát nhiệt điện sử dụng bã mía tại Công ty cổ phần
Mía đường Lam Sơn
31.706
7
Tránh phát thải thông qua việc ủ hiếu khí phân vi sinh tại
nhà máy xử lý rác Tân Thành.
31.220
8
Chuyển đổi nhiên liệu từ dầu FO sang than sinh khối ép viên
tại Công ty TNHH Việt Nam Paiho
24.040
2. Các dự án đã được cấp thư chấp thuận (LoA)
2.1 Lĩnh vực thủy điện
TT Tên dự án Địa điểm
Công suất
(MW)
Lượng giảm phát thải
(tCO
2
/ năm)
1 Bắc Bình Bình Thuận 33 84.014
2 Bản Chuồng Quảng Ninh 4 9.243
3 Buôn Kuốp Lâm Đồng 280 737.025
4 Đăk Di 1 Quảng Nam 20 32.622
5 Đăk Di 2 Quảng Nam 12 23.547
6 Đồng Nai 4 Lâm Đồng 340 625.542
7 Ia Grai 1 Gia Lai 10,8 26.806
8 Khe Soong - Hợp Thành Quảng Ninh 12,6 32.305
9 Khau Chu Yên Bái 5 9.167
10 Sông Miện ( PoA ) Hà Giang 6 10.510

11 Srepok 3 Đăk Lăk - Đăk Nông 220 526.721
12 Suối Sập 3 Sơn La 100 202.118
13 Pác Khuổi Cao Bằng 11,1 26.312
14 Tả Trạch Thừa Thiên - Huế 19,5 47.782
15 Yên Lập Quảng Ninh 1,8 3.742
2.2 Lĩnh vực khác
TT Tên dự án – Địa điểm
Lượng giảm phát thải
(tCO2/ năm)
1
Đồng phát nhiệt điện sử dụng nhiên liệu bã mía tại Công ty
Mía đường NAT&L – Nghệ An
28.580
2
Trích và sử dụng khí sinh học từ nước thải sản xuất tinh bột
sắn tại Công ty Vedan VN - Phước Long
61.889
3
Trích và sử dụng khí sinh học từ nước thải sản xuất tinh bột
sắn tại Công ty VEYU - Gia Lai
30.800
4
Trích khí sinh học từ nước thải sản xuất tinh bột sắn và sử
dụng cho Công ty Cổ phần Nông sản Thực phẩm Quảng
Ngãi - Quảng Ngãi
92.000
5
Xử lý nước thải và thu hồi khí sinh học tại nhà máy cồn
Tùng Lâm – Đồng Nai
76.913

6 PoA: Chương trình xử lý nước sạch quốc tế 5.000
còn Trung Quốc là quốc gia đứng đầu về nhận được CERs, chiếm 43,46
% trong tổng số gần 172 triệu CERs. Đầu tư vào các dự án CDM nhiều nhất là
các nước Anh, Ailen, Hà Lan và Nhật Bản.
3.2 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG CÁC DỰ
ÁN CDM
3.2.1 Cơ hội
Việc tham gia quá trình CDM sẽ mở ra những cơ hội tốt cho việc giảm
nhẹ vấn đề môi trường, giảm phát thải khí nhà kính (KNK) định lượng sẽ
được cấp chứng nhận (CER) và có thể trao đổi mua bán trên thị trường như
một hàng hoá thương mại.
Tận dụng cơ hội, phát triển kinh tế Xanh
CDM là một cơ chế đối tác đầu tư giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển. CDM cho phép và khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp nhà nước và tư nhân của các nước phát triển đầu tư, thực hiện các dự
án giảm phát thải các khí nhà kính tại các nước đang phát triển và nhận được
Chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính được chứng nhận (CERs). CERs được
tính vào chỉ tiêu giảm phát thải các khí nhà kính của các nước phát triển, giúp
các nước này thực hiện cam kết giảm phát thải các khí nhà kính. Một CERs
bằng một tấn khí CO
2
tương đương.
Việt Nam đã thực hiện nghiên cứu chiến lược quốc gia về CDM trong
thời gian qua và đã được xác định là một trong các nước có tiềm năng về xây
dựng và thực hiện các dự án CDM, đặc biệt là các dự án CDM trong lĩnh vực
năng lượng. Chính phủ đã giao cho Bộ TN&MT là cơ quan đầu mối quốc gia
về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu và CDM. Bộ đã và đang phối
hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, địa phương có liên quan xây dựng, thực hiện
các chương trình, dự án giảm nhẹ phát thải KNK nói chung và các dự án
CDM nói riêng nhằm tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-

bon thấp cũng như tích cực cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ
BĐKH, bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất.
Một số công nghệ được triển khai giảm phát thải KNK trong một
số lĩnh vực đã có những hiệu quả rõ rệt. Công nghệ nâng cao hiệu quả sử
dụng năng lượng ở Nhà máy bia Thanh Hoá, công nghệ thu hồi khí đốt đồng
hành mỏ Rạng Đông, công nghệ thu hồi nhiệt dư ở nhà máy Xi măng Hà Tiên
II… được quốc tế đánh giá cao và coi là một trong những dự án thử nghiệm
cho dạng cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam.
Việt Nam đã có trên 50 dự án được Ban Chấp hành quốc tế về CDM
(EB) công nhận là dự án CDM với tổng lượng khí nhà kính giảm được thông
qua các dự án này vào khoảng 24,1 triệu tấn CO
2
tương đương. Với kết quả
đạt được nêu trên, nước ta được xếp thứ 7 trên thế giới về số lượng dự án
CDM được EB công nhận và xếp thứ 8 trên thế giới (thứ nhất Đông Nam Á)
về lượng CER được EB cấp cho các nước thực hiện dự án CDM với tổng
lượng CER được cấp là 4.511.198 chứng chỉ.
Tiến tới thương mại hóa
Triển khai thực hiện các dự án CDM không chỉ bảo vệ môi trường mà
còn tạo nguồn thu không nhỏ về tài chính. Các dự án CDM giảm phát
thải khí KNK được công nhận và cấp chứng chỉ sẽ có thể trao đổi, mua bán
thương mại trên thị trường như một sản phẩm hàng hóa với giá trị thu được
khoảng 250 triệu USD. Trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng
năng lượng chưa có hiệu quả, việc ứng dụng năng lượng tái tạo chưa thực sự
được quan tâm. Nhưng khi các nhà đầu tư đưa vào áp dụng các công nghệ
hiện đại thì lượng chứng chỉ giảm phát thải được chứng nhận qua các dự án
CDM ở Việt Nam sẽ tăng lên.
Riêng dự án thu hồi khí đốt đồng hành mỏ Rạng Đông đã thu được
khoảng 6,7 triệu tấn CO
2

tương đương.
Sau khi được kiểm định và chứng nhận, chứng chỉ này sẽ chia sẻ với
các nhà đầu tư công nghệ và Việt Nam qua các biên bản thoả thuận quốc tế về
mua bán quyền phát thải. Với giá thành trung bình trên thế giới từ 8-10
USD/tấn CO
2
, lợi nhuận mà mỏ Rạng Đông thu được từ “khí thải” là không
nhỏ. Việc lập chương trình nghiên cứu, tính toán phát thải trong giai đoạn từ
năm 2010-2020 ở Việt Nam đã được tập trung chủ yếu vào khí CO
2
,CH
4
,
NO
2
. Quá trình dự toán theo phương thức “từ dưới lên”, tổng hợp các thành
phần từ các lĩnh vực phát thải chính là năng lượng, công nghiệp và giao
thông, rừng và nông nghiệp. Có thể nói, hình thức của các dự án CDM đã
thực hiện ở Việt Nam và đa số các nước khác là các tổ chức, cơ quan, công ty
ở các nước phát triển, thông qua các công ty cung cấp công nghệ, tìm đến các
nước đang phát triển, có tiềm năng giảm phát thải KNK để thực hiện dự án.
Phía các nước phát triển đầu tư vốn, công nghệ giảm phát thải và nhận được
“chứng chỉ giảm phát thải”, thực hiện cam kết giảm lượng khí nhà kính đã ký
trong nghị định thư Kyoto.
Như vậy, thị trường buôn bán phát thải có thể nói đang ở tình trạng một
chiều, nghĩa là người mua chủ động tìm đến những địa chỉ có tiềm năng cung
cấp sản phẩm mà họ cần. Trong thời gian tới, sự phát triển về quy mô và chất
lượng của thị trường sẽ thay đổi, và theo đó, hình thức buôn bán phát thải sẽ
thay đổi theo hướng cân bằng hơn, nghĩa là các nhà cung cấp sản phẩm chủ
động tìm đến người tiêu dùng. (theo tin môi tr ng, vea.gov.vnườ ).

3.2.2 Khó khăn khi thực hiện dự án CDM
Hiện nay, các hoạt động dự án CDM ở Việt Nam ngày càng phát triển
mạnh nhưng số lượng dự án được thẩm định thành công và được phê duyệt là
rất ít so với tiềm năng. Mặc dù nhận thức về CDM và lập dự án CDM đối với
các chủ đầu tư đã dần được cải thiện nhưng khi tiến hành thực hiện các dự án,
các chủ đầu tư vẫn còn gặp nhiều rào cản, trong đó lớn nhất là thủ tục hành
chính. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam đang gặp hàng loạt khó khăn
khi tiếp cận các dự án CDM. Thủ tục hành chính về cấp thư xác nhận và thư
phê duyệt dự án CDM tại Việt nam quá rườm rà, gây tốn kém về chi phí; các
chính sách pháp luật chưa cụ thể và chưa có khung chiến lược phát triển
CDM; thiếu cơ chế minh bạch, thuận tiện trong việc xác nhận và phê duyệt dự
án CDM. Một khó khăn khác nữa là vấn đề về nguồn nhân lực, ở Việt nam rất
khó tìm được các chuyên gia có kinh nghiệm về CDM để đảm nhận các thủ
tục đăng ký một cách hiệu quả và nhanh chóng.
Ngoài ra, một trong những yếu tố quyết định sự thành công của dự án
CDM là chứng minh tính bổ sung về tài chính, nghĩa là phải chỉ ra rằng dự án
không khả thi về mặt tài chính nếu không có thu nhập phụ từ việc giảm lượng
giảm phát thải. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể nào
liên quan đến vấn đề này để cơ quan lập dự án, cũng như chủ dự án áp dụng.
Hơn nữa, thực tế cho thấy rằng sẽ không có chủ đầu tư nào mạnh dạn triển
khai một dự án không khả thi về mặt tài chính để nhận được vốn bổ sung từ
việc bán khí thải dự án.
Mặc dù Hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu -
COP17 đã tạo ra một “Kyoto giai đoạn II” được cho là thành công đối với các
nước đang phát triển, song nó vẫn chỉ được xem là một chiến thắng mong
manh, bởi lẽ các quốc gia phát thải nhiều nhất thế giới như Mỹ, Trung Quốc,
Ấn Độ… sẽ chỉ tham gia hiệp định ràng buộc trên từ năm 2020, mà điều này
cũng được xem là chưa chắc chắn. Như vậy, sẽ phải có một giai đoạn cam kết
tiếp theo cho Kyoto nhằm duy trì như một hiệp định tạm thời trước khi các
nước tiến hành thương lượng về một thỏa thuận mới. Thời điểm kết thúc Nghị

định này vào năm 2017 hay năm 2020 sẽ được tiếp tục bàn thảo vào năm đến,
tại Hội nghị COP18 ở Qatar. Như vậy, thị trường mua bán giảm phát thải trên
thế giới sẽ bị ảnh hướng lớn và đối với các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, khả năng nhận được nguồn vốn đầu tư sạch từ các dự án CDM vẫn
không phải là bài toán dễ dàng gì.
3.2.3 Những thách thức đối với Việt Nam trong phát triển dự án
CDM đơn phương và song phương
3.2.3.1 Những thách thức trong phát triển dự án CDM song phương
Các nước đang phát triển cũng nên được cảnh báo rằng, trong tương lai,
các nước đang phát triển cũng có thể sẽ phải đối mặt với các cam kết của nghị
định thư. Trong những năm gần đây, mức độ phát thải khí nhà kính của Việt
nam tương đối tăng nhanh. Trong khi đó, lượng phát thải khí nhà kính của
Việt Nam vào năm 1990 rất thấp. Như vậy nếu chúng ta tiến hành nhiều dự án
CDM, số lượng CERs được bán ra nhiều, nếu phải thực hiện cam kết của nghị
định thư, liệu chúng ta có thể có những giải pháp nào để có thể giảm thải được
khí nhà kính. Nếu không có chiến lược phát triển đúng đắn, Việt Nam có thể
sẽ phải chi phí đắt hơn để có thể thực hiện đúng cam kết của nghị định thư.
Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để có thể xác định được số lượng các dự án
CDM một cách phù hợp trong bối cảnh Việt nam. Ràng buộc của nghị định
thư trong tương lai có ảnh hưởng như thế nào đến giá thành của CERs?
3.2.3.2 Những thách thức trong phát triển dự án CDM đơn phương
Một số nước phát triển còn e ngại đầu tư vào các dự án CDM do mức độ
rủi ro của các dự án. Nhưng họ sẵn sàng chấp nhận mua CERs. Như vậy các
nước đang phát triển cũng có thể tiến hành dự án CDM đơn phương và bán
CERs trên thị trường thế giới. Ý tưởng về các dự án CDM đơn phương không
thúc đẩy được sự chuyển giao công nghệ do đó nó chỉ được phê chuẩn vào
tháng 2 năm 2005.
Việt Nam là một trong những nước có mức độ rủi ro trung bình trong
việc thực thi các dự án CDM, Việt nam đầu tư vào ngành khí hậu thấp, nhưng
có chính sách về phát triển CDM tương đối tốt. Thường thường các dự án

CDM độc lập chỉ thích hợp với các dự án nhỏ. Dự án CDM độc lập cũng có
những ưu điểm:
- Giảm mức độ rủi ro đối với các nhà đầu tư
- Giảm thiểu được chi phí cho quá trình giao dịch như quá trình tìm hiểu
tình hình trong nước và chi phí cho các hội nghị hội thảo.
- Nước chủ nhà có thể giữ bí mật về giá trị thực của CERs.
Tuy nhiên cùng với những ưu điểm trên dự án CDM đơn phương cũng
có những nhược điểm như: Giảm quá trình chuyển giao công nghệ, làm chậm
quá trình tài chính, các nước chủ nhà sẽ phải chịu toàn bộ chi phí cho việc
thực thi dự án giảm khí thải. Trong khi đó, đối với các dự án đa phương các
nước đầu tư vẫn thu lợi được từ việc đầu tư cho dự án CDM có chi phí thấp
hơn so với chi phí cho quá trình giảm nhẹ khí thải trên đất nước mình. Các
nước chủ nhà cũng phải có đầy đủ các nguồn lực về nhân sự, về tài chính và
cơ sở hạ tầng để có thể thực thi được dự án.
3.3 VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG VIỆC THỰC
HIỆN DỰ ÁN CDM VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC HOẠT
ĐỘNG CDM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.3.1 Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện CDM
CDM là một cơ chế phát triển, do đó công tác quản lý của nhà nước
đóng vai trò không thể thiếu trong việc triển khai thực hiện. Đối với Việt
Nam, trong vấn đề này Nhà nước cần quan tâm tới các vấn đề sau: Chỉ đạo và
điều phối quá trình xem xét và phê duyệt các dự án thuộc CDM; điều hành
việc tham gia buôn bán phát thải về các tín dụng CO
2
; lập khung thuế cho loại
hình dự án CDM; phối hợp, lồng ghép với chính sách ưu tiên của đất nước;
xác lập mối quan hệ giữa CDM và các cơ chế phát triển khác (để tránh sự
chồng chéo và mâu thuẫn).
Một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên là phải xác định các
hướng ưu tiên có thể tham gia CDM. Chúng ta có 3 hướng ưu tiên sau: Nâng

cấp cải thiện công nghệ hiện có (gồm nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng,
đổi mới và hiện đại hóa); áp dụng các công nghệ tiên tiến và thiện hữu với
môi trường; các dự án thuộc các chương trình, định hướng đang được Nhà
nước khuyến khích/ưu tiên. Cụ thể, các lĩnh vực có thể tham gia CDM mà
Việt Nam khuyến khích thực hiện gồm:
- Tiết kiệm năng lượng: Các dạng được khuyến khích gồm nâng cấp
hiệu suất sản xuất và truyền tải điện, nâng cấp hiệu suất sử dụng điện năng
trong lĩnh vực công nghiệp và các nhà cao tầng.
- Đổi mới năng lượng: Khuyến khích khai thác và sử dụng các loại năng
lượng từ các nguồn như sinh khối, năng lượng mặt trời và năng lượng gió
- Lâm nghiệp: Khuyến khích các dự án bảo vệ bể chứa carbon (bảo vệ và
bảo tồn các khu rừng hiện có, tăng cường công tác quản lý rừng, sử dụng có
hiệu quả nguồn tài nguyên rừng) và nâng cao hiệu quả của các bể chứa carbon
(trồng cây gây rừng).
3.3.2 Định hướng phát triển các hoạt động CDM trong thời gian tới
Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề biến đổi khí hậu và cho
rằng sự nóng lên toàn cầu là mối đe doạ mà Việt Nam là một trong những
nước bị ảnh hưởng nhất. Chính phủ cũng tin rằng ”khí nhà kính” là những
nguyên nhân chính gây lên sự nóng lên toàn cầu. Với việc tự nguyện tham gia
CDM, Việt Nam mong muốn đóng góp vào việc bảo vệ môi trường toàn cầu.
Thông qua CDM, Việt Nam sẽ có những sự đầu tư bổ sung và chuyển giao
công nghệ sạch tiên tiến từ các nước công nghiệp phát triển. Quan điểm của
Việt Nam là:
 Việc tránh sự nóng lên toàn cầu là công việc chung, nhưng các nước
phát triển phải có trách nhiệm và dẫn đầu.
 Sự cố gắng của cộng đồng quốc tế cần cân đối hơn nữa giữa việc giảm
thải và các biện pháp ứng phó.
Để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động CDM tại nước ta phục vụ công
cuộc phát triển bền vững đất nước, trong thời gian tới Bộ TN&MT sẽ chủ trì,
phối hợp với các bộ, ngành, địa phương thực hiện các hoạt động chính liên

quan đến CDM sau:
 Xây dựng và thực hiện các chương trình tuyên truyền, phổ biến thông
tin nhằm nâng cao nhận thực cộng đồng về CDM cũng như tăng cường
năng lực cho các cơ quan, đơn vị, khối doanh nghiệp ở trung ương và
địa phương có tiềm năng tham gia các hoạt động CDM.
 Từng bước lồng ghép vấn đề CDM vào chương trình, kế hoạch phát
triển của các bộ, ngành và địa phương.
 Nghiên cứu, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thu hút
hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài vào dự án CDM tại Việt Nam và tạo
hành lang pháp lý thuận lợi, khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp xây dựng và thực hiện dự án CDM.
 Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế về tài
chính, chuyển giao công nghệ, kinh nghiêm, tăng cường năng lực để
xây dựng, thực hiện dự án CDM.
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 KẾT LUẬN
Đứng trước những thách thức của vấn đề nóng lên toàn cầu cũng như
BĐKH, Việt Nam là một trong những nước sẽ phải gánh chịu tác động to lớn,
do vậy hưởng ứng Nghị định thư Kyoto và tham gia vào cơ chế phát triển sạch
CDM là một giải pháp thiết thực nhất có hiệu quả môi trường cao và mang lại
nhiều hiệu quả kinh tế.
Việc tham gia vào cơ chế phát triển sạch CDM đã tạo ra cho Việt Nam
có nhiều cơ hội hơn để có thể cải thiện và phát triển tình hình kinh tế, xã hội
và môi trường từ nguồn tài chính và công nghệ tiên tiến được chuyển giao từ
những dự án CDM. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn trong
vấn đề triển khai các dự án CDM, vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế về các
thủ tục hành chính, các chính sách pháp luật và cũng như vấn đề thiếu đội ngũ
chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực CDM.
4.2 KIẾN NGHỊ
Do vậy, để có thể đảm bảo cả hai mục tiêu trong cơ chế phát triển sạch

CDM là phát triển bền vững và công bằng thì chính phủ đóng vai trò vô cùng
quan trọng. Nhà nước cần quan tâm tới việc chỉ đạo và quản lý chặt chẽ các
quá trình liên quan đến việc thực thi các dự án thuộc CDM, xác lập mối quan
hệ giữa CDM và các cơ chế phát triển khác để tránh gây nhầm lẫn.
Trong thời gian tới, Bộ TN&MT phối hợp với các bộ, ngành, địa phương
tăng cường thực hiện các hoạt động hạn chế những tiêu cực, bất cập xoay
quanh dự án CDM đồng thời đẩy mạnh phát triển các nguồn lực, thế mạnh sẵn
có nhằm mục đích phát toàn diện và bền vững các dự án CDM tại Việt Nam.

×